Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Bộ máy giúp việc của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 111 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Phạm Thị Hồng Nhung

Bộ máy giúp việc của quốc hội
và ủy ban thường vụ quốc hội

Luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Phạm Thị Hồng Nhung

Bộ máy giúp việc của quốc hội
và ủy ban thường vụ quốc hội
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

Luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung

Hà nội - 2010



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BỘ MÁY GIÚP VIỆC VÀ VỊ

4

TRÍ, VAI TRÒ CỦA BỘ MÁY GIÚP VIỆC

1.1.

Sự cần thiết và vị trí, vai trò của bộ máy giúp việc Quốc hội
và Ủy ban Thường vụ Quốc hội

4

1.2.

Cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội qua các thời kỳ

7

1.2.1.


Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội (1946 - 1960)

8

1.2.2.

Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 1981)

10

1.2.3.

Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước (1981 - 1992)

12

1.2.4.

Văn phòng Quốc hội từ năm 1992 đến nay

15

1.3.

Đặc điểm của Quốc hội Việt Nam quyết định cơ cấu tổ chức
và tính chất, phương thức hoạt động của bộ máy giúp việc
trong thời đại mới

21


1.4.

Tham khảo mô hình cơ quan giúp việc cho Quốc hội (Nghị
viện) của một số nước trên thế giới

24

1.4.1.

Cơ quan giúp việc cho Nghị viện Liên bang Đức

24

1.4.2.

Cơ quan giúp việc cho Nghị viện Thụy Điển

29

1.4.3.

Cơ quan giúp việc cho Nghị viện Nhật Bản

32

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY GIÚP VIỆC

40


QUỐC HỘI VÀ ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

2.1.

Cơ cấu tổ chức của bộ máy giúp việc (Văn phòng Quốc hội)
Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong giai đoạn này

40


2.1.1.

Các vụ trực tiếp giúp việc cho Hội đồng dân tộc, các Ủy

41

ban của Quốc hội
2.1.2

Các vụ trực tiếp giúp việc các Ban của Ủy ban Thường vụ

43

Quốc hội
2.1.3.

Các vụ, đơn vị phục vụ chung

45


2.1.4.

Mối quan hệ phối hợp công tác giữa các đơn vị trong Văn

49

phòng Quốc hội
2.2.

Thực trạng hoạt động của Văn phòng Quốc hội trong những

52

năm gần đây
2.2.1.

Thực trạng hoạt động

2.2.1.1. Trong lĩnh vực nghiên cứu, tham mưu, tổng hợp cho Quốc

52
52

hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
2.2.1.2. Giúp việc cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội

55

đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong lĩnh vực
giám sát

2.2.1.3. Tham mưu cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

58

trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
2.2.1.4. Phục các công tác khác của Quốc hội như bầu cử, công tác

60

đối ngoại, công tác dân nguyện… và các công tác khác
thuộc lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ theo chức năng,
nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội
2.2.2.

Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động của Văn phòng

66

Quốc hội
2.2.2.1. Những mặt được

66

2.2.2.2. Những hạn chế cần khắc phục

67

2.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

69



Chương 3:

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐỔI MỚI VÀ HOÀN

70

THIỆN BỘ MÁY GIÚP VIỆC QUỐC HỘI VÀ ỦY BAN
THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

3.1.

Một số yêu cầu đặt ra đối với bộ máy giúp việc nhằm đạt hiệu
quả cao trong công tác phục vụ các hoạt động của Quốc hội,

70

các cơ quan của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
3.2.

Một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện bộ máy giúp việc

71

3.2.1.

Từ mô hình cơ quan giúp việc của Quốc hội một số nước
tham chiếu đến bộ máy giúp việc của Quốc hội nước ta


71

3.2.2.

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện bộ máy giúp việc

74

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

PHỤ LỤC

88


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, hoạt động của Quốc hội nói chung và các cơ
quan của Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu khởi sắc đáng trân trọng trên
tất cả các lĩnh vực hoạt động như lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước. Vai trò và vị trí của Quốc hội Việt Nam trên các
diễn đàn liên Nghị viện song phương và đa phương ngày càng được củng cố
và tăng cường. Có được kết quả đó, bên cạnh những yếu tố chủ quan và khách

quan khác, đặc biệt có sự đóng góp hiệu quả và tích cực của Văn phòng Quốc
hội. - cơ quan tham mưu, giúp việc cho Quốc hội và các cơ quan của Quốc
hội. Nhận thức được tầm quan trọng về tính chất tham mưu, giúp việc của
Văn phòng Quốc hội đối với Quốc hội cũng như mong muốn đóng góp một
phần nhỏ kiến nghị của bản thân - một công chức Văn phòng Quốc hội - vào
việc củng cố, hoàn thiện cơ quan giúp việc này, tác giả xin chọn đề tài "Bộ
máy giúp việc của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội" làm khóa luận
tốt nghiệp thạc sĩ Luật học chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà nước và
pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng phục vụ hoạt động của
Quốc hội và các cơ quan Quốc hội, bộ máy tham mưu, giúp việc rất cần được
tăng cường năng lực để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Xuất phát từ
những yêu cầu trong việc tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước nói chung và cơ quan lập pháp nói riêng, trong thời gian tới,
Quốc hội của chúng ta sẽ không ngừng được tăng cường với việc nâng cao số
lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, thành lập mới một số cơ quan chuyên
môn, tăng cường hơn nữa tính dân chủ và tính đại diện trong hoạt động của
Quốc hội…. Cùng với đó là yêu cầu bức thiết về việc hoàn thiện bộ máy giúp

1


việc cho Quốc hội, đảm bảo thực hiện đúng, đủ và hiệu quả chức năng nhiệm
vụ của mình. Thời gian gần đây cũng có không ít bài viết cũng như Hội thảo
về việc tăng cường năng lực của bộ máy tham mưu, giúp việc của Quốc hội
và các cơ quan của Quốc hội như Hội thảo "Tăng cường năng lực bộ máy
giúp việc Quốc hội trong thời kỳ mới" tổ chức tại Hải phòng năm 2006, hoặc
Hội thảo "Tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội: thực trạng và kiến
nghị" tổ chức vào tháng 7/2009 tại Hà Tĩnh. Gần đây nhất, Viện Nghiên cứu

lập pháp - Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Tổ chức Hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA) tổ chức Hội thảo "Vị trí, vai trò của QH và bộ máy giúp việc
QH trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước" tổ chức vào tháng 8/2009.
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào mang tính
khái quát toàn diện về hệ thống giúp việc cho Quốc hội từ sơ khai cho đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Nhằm đưa ra định hướng đổi mới và hoàn thiện cơ cấu tổ
chức cũng như chức năng tham mưu, trợ giúp của bộ máy giúp việc Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển
của bộ máy giúp việc qua các thời kỳ
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn cũng như đánh giá thực trạng hoạt động
của bộ máy giúp việc hiện nay
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn cùng với thực trạng hoạt
động của bộ máy giúp việc, đưa ra một số kiến nghị góp phần vào việc hoàn
thiện bộ máy giúp việc
4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Đề tài có nội dung xoay quanh vấn đề về bộ máy giúp việc Quốc hội một cơ quan nhà nước với chức năng, nhiệm vụ đặc thù nên tác giả qua phân
tích và tổng hợp các dữ liệu để xây dựng luận văn với nội dung tìm hiểu bộ

2


máy giúp việc Quốc hội từ khi ra đời cho đến nay. Từ đó nghiên cứu thực
trạng và hiệu quả hoạt động của bộ máy giúp việc này, tìm ra những mặt đã
đạt được, những hạn chế tồn tại và đưa ra một số kiến nghị có thể phần nào
hữu ích đối với việc kiện toàn bộ máy giúp việc của Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trong giai đoạn tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về nhà nước và pháp luật, các quan
điểm của Đảng về Nhà nước, pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Đề tài sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích các thông tin tư liệu
liên quan đến nội dung nghiên cứu, phương pháp rà soát, tập hợp, tổng hợp,
đối chiếu...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải có bộ máy giúp việc và vị trí, vai trò của
bộ máy giúp việc.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của bộ máy giúp việc Quốc hội và
Ủy ban Thường vụ Quốc hội hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới và hoàn thiện bộ máy giúp
việc Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3


Chương 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BỘ MÁY GIÖP VIỆC VÀ VỊ TRÍ,
VAI TRÕ CỦA BỘ MÁY GIÖP VIỆC

1.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA BỘ MÁY GIÖP VIỆC
QUỐC HỘI VÀ ỦY BAN THƢỜNG VỤ QUỐC HỘI

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Quốc hội có một vị trí,
vai trò rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và

lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Thường
vụ Quốc hội - là cơ quan thường trực của Quốc hội và thành lập Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban - là các cơ quan tham mưu của Quốc hội trong công tác xây
dựng pháp luật, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Đồng thời, Quốc hội còn giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức bộ
máy giúp việc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội; quy định tổ chức, nhiệm vụ của các cơ quan giúp
việc. Trên cơ sở quy định này của pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
thành lập Văn phòng Quốc hội và một số cơ quan khác. Trong những năm
qua, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Quốc hội luôn luôn được
đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu tham mưu, phục vụ các hoạt động của
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội. Văn phòng Quốc hội đã tham mưu, phục vụ Quốc hội ban hành
hàng trăm luật, nghị quyết; tham mưu, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành nhiều pháp lệnh, nghị quyết nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ,

4


xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại v.v… Số lượng các văn bản pháp luật
được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Hội đồng Nhà nước) ban hành
ngày càng tăng. Trong mỗi nhiệm kỳ Quốc hội khóa 2, 3, 4, 5 Quốc hội chỉ
ban hành từ 1 đến 6 luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua một số
pháp lệnh, thì từ năm 1986 (Từ khi Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước) đến nay số lượng luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban
thờng vụ Quốc hội ban hành tăng lên rõ rệt. Cụ thể là, nhiệm kỳ Quốc hội
khóa VIII đã ban hành Hiến pháp 1992, 31 luật, bộ luật và Hội đồng Nhà nước

ban hành 42 pháp lệnh. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX đã ban hành 41 luật, bộ
luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 43 pháp lệnh. Nhiệm kỳ
Quốc hội khóa X đã ban hành 35 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành 43 pháp lệnh. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã ban hành được
84 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 35 pháp lệnh, đặc
biệt là riêng năm 2005 Quốc hội đã ban hành được 29 luật, bộ luật. Từ đầu
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII đến nay, mỗi năm Quốc hội ban hành từ 22 đến
24 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số pháp lệnh.
Văn phòng Quốc hội còn tham mưu, phục vụ Quốc hội ban hành nhiều nghị
quyết, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước và tiến hành giám sát
việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết cũng như giám sát các hoạt động của
các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Có thể nói
rằng tổ chức, hoạt động của Văn phòng Quốc hội luôn được đổi mới góp phần
quan trọng vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Quốc hội
phải thực hiện một khối lượng công việc rất lớn và phức tạp. Để hoàn thành
nhiệm vụ, Quốc hội phải sử dụng một số lượng đông đảo đội ngũ các cán bộ,
chuyên viên, chuyên gia, thư ký. Đội ngũ này được tổ chức thành bộ máy
giúp việc Quốc hội. Mặc dù bộ máy giúp việc không thông qua bất cứ quyết
định nào trên danh nghĩa Quốc hội hoặc cơ quan của Quốc hội, nhưng nó lại

5


đóng vai trò chính trong việc soạn thảo nhiều quyết định quan trọng của Quốc
hội. Thực tiễn phát triển của chế độ đại nghị ở các nước cũng cho thấy hoạt
động của nghị viện không thể thiếu sự trợ giúp của một bộ máy giúp việc
chuyên nghiệp. Chính hoạt động mang tính chất chuyên nghiệp của bộ máy
giúp việc nghị viện là điều kiện quan trọng bảo đảm cho hiệu quả hoạt động

của đại biểu - nhất là trong điều kiện phần lớn đại biểu Quốc hội nước ta hoạt
động kiêm nhiệm, bản thân mỗi đại biểu không thể bao quát được tất cả các
lĩnh vực của cuộc sống xã hội, trong khi đó lĩnh vực lập pháp bao trùm lên
mọi lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội. Vì vậy, đại biểu càng phải cần
đến sự giúp đỡ của bộ máy giúp việc.
Mặc dù có những tên gọi khác nhau như Ban thư ký, Văn phòng Quốc
hội, Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hay Cơ quan nghiên cứu của
Quốc hội, nhưng mục đích cuối cùng của bộ máy giúp việc là giúp Quốc hội
bảo đảm các thủ tục và quy trình hoạt động, bảo đảm những điều kiện vật chất kỹ thuật và thông tin, nghiên cứu tốt nhất cho Quốc hội
Do vị trí là một cơ quan giúp việc nên quy định về hoạt động của bộ
máy giúp việc thường không được quy định ở tầm các văn bản luật mà thông
thường chỉ là một chương, thậm chí một điều nhỏ trong luật. Theo ghi nhận
tại Điều 92, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (được sửa đổi năm 2007) thì
"Ủyban Thường vụ Quốc hội tổ chức bộ máy giúp việc của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Tổ
chức, nhiệm vụ của các cơ quan này do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định". Trên cơ sở quy định của Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 417/2003/UBTVQH11 quy định về chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội - bộ máy giúp việc của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tại
Điều 1, Nghị quyết nêu rõ "Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp việc của
Quốc hội, có chức năng nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ
các hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội,

6


các Phó Chủ tịch Quốc hội; các hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội". Và mặc dù không
được quy định trong luật nhưng trên thực tế Văn phòng Quốc hội được xác

định là một cơ quan cấp Bộ và chức danh Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
tương đương với chức danh Bộ trưởng của một Bộ (Bộ trưởng - Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội)
Trong những năm gần đây, thực tế và những đòi hỏi phát triển của
Quốc hội nước ta càng cho thấy rằng khó có thể hình dung hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà
lại thiếu sự đóng góp của bộ máy giúp việc, bởi lẽ trong quá trình thực hiện
các chức năng của mình, bất kỳ Quốc hội nào cũng luôn luôn cần đến các yếu
tố trợ giúp về chuyên môn, về vật chất, kỹ thuật... để các quy trình và thủ tục
được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Cho đến nay, Văn phòng
Quốc hội là một bộ máy hành chính duy nhất được tổ chức với vai trò tham
mưu, giúp việc và tổ chức phục vụ các hoạt động của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội. Dù đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có thay đổi theo nhiệm
kỳ thì bộ máy giúp việc vẫn cần được đảm bảo tính thống nhất và ổn định
trong cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội - đặc thù của một bộ máy hành
chính nhà nước hoàn chỉnh với những nguyên tắc hoạt động vốn có là: chế độ
thủ trưởng, mệnh lệnh và phục tùng.
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VĂN PHÒNG QUỐC HỘI QUA CÁC THỜI KỲ

Văn phòng Quốc hội là cơ quan tham mưu, phục vụ các hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, do đó việc thành lập, đổi mới tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội phụ thuộc vào việc đổi mới tổ
chức, hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Chúng ta có thể
nghiên cứu quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và các hoạt động
cơ bản của Văn phòng Quốc hội qua các thời kỳ như sau.

7



1.2.1. Văn phòng Ban Thƣờng trực Quốc hội (1946 - 1960)
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Ủy ban dân tộc giải phóng
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã cải tổ thành Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam mới. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Bản tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thể thế
giới nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tuyên ngôn khẳng định: "Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
và độc lập". Việc chính quyền cách mạng được thiết lập trong cả nước là một
thuận lợi cơ bản của cách mạng nước ta trong bối cảnh lịch sử lúc đó.
Chưa đầy một tuần sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 08-9-1945, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 14-SL quy định về Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội [3, tr. 31]. Sau thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử, tình hình chính trị
nước ta có những diễn biến phức tạp mới, cuộc kháng chiến của quân và dân
ta gặp nhiều khó khăn. Trước bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ quyết định triệu tập họp Quốc hội. Ngày 02/03/1946, Kỳ họp thứ Nhất,
Quốc hội khóa I đã khai mạc tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Tại Kỳ họp này, Quốc
hội đã thông qua danh sách và công nhận Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và quyết định bầu Ban Thường trực Quốc
hội. Đây là một bước hoàn thiện và củng cố bộ máy nhà nước ở trung ương,
đảm bào cho nhà nước ta có đầy đủ uy tín, hiệu lực để tổ chức nhân dân
kháng chiến, kiến quốc. Để giúp Ban thường trực Quốc hội thực thi nhiệm vụ,
Chính phủ đã điều động một số cán bộ, nhân viên sang phục vụ Ban Thường
trực. Mặc dù lúc này chưa có văn bản pháp quy nào quy định về việc thành
lập Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội và số cán bộ phục vụ còn rất ít
nhưng hoạt động của Văn phòng thời kỳ này đều thiết thực, góp phần vào việc
bảo đảm các điều kiện hoạt động cho Ban Thường trực Quốc hội ngay từ khi
mới ra đời. Vì thế, ngày 02-3-1946 có giá trị lịch sử là ngày mở đầu truyền


8


thống hoạt động của Văn phòng Quốc hội (lúc đó là Văn phòng Ban Thường
trực Quốc hội) [4, tr. 26].
Sau khi Văn phòng Ban thường trực Quốc hội chính thức ra đời, Văn
phòng với chức năng giúp việc cho Thường trực Quốc hội đã tích cực tham
gia vào công cuộc kiến thiết đất nước, chủ động trong việc phục vụ các tiểu
ban của Quốc hội. Ngoài ra Văn phòng còn phục vụ Ban Thường trực Quốc
hội tiếp nhận, xem xét kỹ các đề nghị của nhân dân về xây dựng đời sống ở
nông thôn rồi chuyển giao cho các cơ quan phụ trách của Chính phủ. Văn
phòng còn phối hợp với các bộ, ngành trong việc hoàn thành các nhiệm vụ
như cứu đói, phòng chống thiên tai, bình dân học vụ, giám sát, lập lại kỷ
cương văn hóa xã hội…, đồng thời phối hợp với Văn phòng Phó Thủ tướng
trong việc thi hành những phương sách thích hợp để chăm lo đời sống cho
nhân dân, tăng cường đoàn kết dân tộc, xây dựng mặt trận quốc gia liên hiệp
thống nhất để chống xâm lược, giữ vững chính quyền và kiến thiết đất nước.
Đầu năm 1950, do nhu cầu công việc, Ban thường trực Quốc hội đã tổ
chức hội nghị để chấn chỉnh lại công tác tổ chức. Hội nghị đã bầu ra một Ban
Thường vụ mới để thay mặt Ban Thường trực giải quyết công việc hằng ngày
và liên lạc với Chính phủ, với các đại biểu ở địa phương. Ngoài ra, trong
Chương trình hoạt động của Ban Thường trực Quốc hội còn đề cập đến công
tác kiện toàn nội bộ, sửa đổi nội quy và chấn chỉnh lại Văn phòng Ban
Thường trực Quốc hội nhằm tăng cường bộ máy và phương tiện làm việc để
giúp Ban Thường trực Quốc hội và các Tiểu ban hoạt động. Để kiện toàn
công tác tổ chức Văn phòng, Ban Thường trực đề nghị phải bổ nhiệm một
Chánh Văn phòng đủ năng lực để điều hành công việc. Từ đây trở đi, hoạt
động của Văn phòng đã đi vào nền nếp. Văn phòng Ban Thường trực có điều
kiện tập trung hơn vào công tác tham mưu, giúp việc Ban Thường trực trong
việc phục vụ các thành viên Ban Thường trực tham dự các phiên họp với Hội

đồng Chính phủ.

9


Nhằm hoàn thiện dự thảo Hiến pháp, Văn phòng Ban Thường trực Quốc
hội được giao nhiệm vụ tổng hợp tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở các địa
phương trên cơ sở báo cáo của các Đoàn đại biểu Quốc hội và của các bộ, ngành
Trung ương; soạn thảo tài liệu, văn bản và quyết định của Ban Thường trực
Quốc hội; thực hiện các công việc về hành chính, quản trị. Việc tổng hợp báo
cáo và thu thập những đề nghị về việc tu chỉnh Hiến pháp của các đại biểu Quốc
hội, của nhân dân gửi đến được giao cho bộ phận giúp việc trong Văn phòng phụ
trách. Từ giữa năm 1950, Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội đã theo sát tình
hình ở các địa phương, thông qua báo cáo của các ngành, các cấp nên đã cung
cấp được nhiều thông tin cần thiết và kịp thời cho Ban Thường trực Quốc hội.
Từ sau kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa I, việc liên lạc giữa Ban Thường trực
Quốc hội với các đại biểu Quốc hội đã thường xuyên hơn thông qua các báo cáo
mà đại biểu gửi tới. Văn phòng đã nghiên cứu các báo cáo rồi đề xuất ý kiến với
Ban Thường trực Quốc hội, đồng thời truyền đạt ý kiến của Ban Thường trực
đến các đại biểu Quốc hội. Văn phòng là đầu mối giúp Ban Thường trực Quốc
hội kịp thời nắm bắt tình hình thực tế ở địa phương và duy trì mối quan hệ giữa
Ban Thường trực Quốc hội với Phòng liên lạc của các đại biểu Quốc hội ở các
Liên khu. Căn cứ vào quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Thường trực Quốc hội,
Văn phòng lại bổ sung thêm nhiều nhiệm vụ mới. Vì vậy, việc kiện toàn tổ chức
bộ máy phục vụ đã được lãnh đạo Văn phòng quan tâm trực tiếp chỉ đạo.
Những năm 1946 - 1960 là chặng đường phát triển đầu tiên của Văn
phòng Ban Thường trực Quốc hội, công tác Văn phòng ngày càng nhiều với quy
mô và yêu cầu chất lượng công việc ngày càng cao, nhiệm vụ của Văn phòng đã
được cụ thể hóa và phân công theo các mảng công việc cũng như lề lối làm việc
của Văn phòng đã có những chuyển biến tích cực và ngày càng ổn định.

1.2.2. Văn phòng Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1960 - 1981)
Ngày 08/5/1960, cuộc Bầu cử Quốc hội khóa II đã diễn ra sôi nổi và
thành công tốt đẹp. So với Hiến pháp năm 1946, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

10


có nhiều quyền hạn mới mà trước đây Ban Thường trực không có. Việc tăng
quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặt ra yêu cầu phải đổi mới bộ
máy của cơ quan giúp việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới,
tăng cường pháp chế của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại kỳ họp thứ
nhất, Quốc hội khóa II đã thảo luận và thông qua Luật Tổ chức Quốc hội.
Điều 25 quy định: "Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Văn phòng và cơ
quan giúp việc cần thiết đặt dưới sự lãnh đạo của Tổng Thư ký Ủy ban
Thường vụ Quốc hội". Căn cứ vào điều luật, ngày 16/01/1962, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 87NQ/TVQH về việc thành
lập Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội và quy định tổ chức của Văn
phòng. Nghị quyết nêu rõ: "Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ
quan giúp việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có trách nhiệm phục vụ Ủy
ban Thường vụ Quốc hội hoạt động theo quyền hạn và nhiệm vụ ghi trong
Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội" [17]. Là cơ quan giúp việc của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Văn phòng có chức năng vừa làm công tác tham mưu,
vừa phục vụ trực tiếp cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban
của Quốc hội. Chức năng đó được thể hiện trong những nhiệm vụ chủ yếu
liên quan đến công tác phục vụ, nghiên cứu và quản lý công việc hành chính
như: phục vụ các cuộc họp của Quốc hội; phục vụ việc liên hệ giữa Ủy ban
Thường vụ Quốc hội với Hội đồng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, các Hội đồng nhân dân tại địa phương và các đại
biểu Quốc hội; nghiên cứu các vấn đề về bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng

nhân dân, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc chủ trì cuộc tuyển
cử đại biểu Quốc hội; quản lý công tác hành chính của Quốc hội; phục vụ
công tác dân nguyện và công tác đối ngoại. Ngoài các nhiệm vụ chủ yếu trên
Văn phòng còn có nhiệm vụ tổ chức việc bảo vệ an toàn cho cơ quan; duy trì
việc học tập chính trị, học tập văn hóa và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho
cán bộ, nhân viên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác phục vụ. So

11


với trước, tuy chức năng của Văn phòng về cơ bản không thay đổi nhưng theo
Nghị quyết 87NQ/TVQH, nhiệm vụ của Văn phòng đã được xác định cụ thể.
Đó là cơ sở pháp lý để lãnh đạo Văn phòng quy định chức năng, nhiệm vụ
cho các Vụ, đơn vị trong Văn phòng.
Nhìn chung, tổ chức, biên chế của bộ máy giúp việc của Quốc hội thời
kỳ 1960 - 1981 tương đối gọn nhẹ, chỉ gồm một số ít cán bộ, công chức. Chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy giúp việc của Quốc hội trong thời gian này cũng
rất đơn giản, chủ yếu phục vụ các kỳ họp Quốc hội, hoạt động của Ban
thường trực Quốc hội, các tiểu ban về dự án luật và một số hoạt động khác.
Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc của Quốc hội, các cơ
quan Quốc hội từng bước được đổi mới, kiện toàn để đáp ứng yêu cầu tham
mưu, phục vụ các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội ngày càng
được tăng cường, mở rộng.
1.2.3. Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nƣớc (1981 - 1992)
Giữa năm 1981, trong bối cảnh đất nước đang gặp khó khăn về kinh
tế, xã hội, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII đã được tổ chức thành
công. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Tổ chức
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Điều 56 của Luật quy định: Hội đồng nhà
nước tổ chức Văn phòng để giúp việc Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Để có
cơ sở pháp lý quy định chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng, Hội đồng Nhà

nước đã ban hành Nghị quyết số 01NQ/HĐNN7 ngày 06/7/1981 quy định về
tổ chức, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Điều 1
của Nghị quyết nêu rõ: "Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước là cơ
quan giúp việc Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, có trách nhiệm phục vụ mọi
hoạt động của Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội,
các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội". Theo tinh thần của Nghị quyết, Văn
phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan tham mưu, phục vụ
Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội,

12


vừa quản lý công tác tổ chức của Văn phòng. Để thực hiện các nhiệm vụ do
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước giao, Văn phòng đã xây dựng đề án kiện
toàn lại cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu thực tế, sắp xếp lại tổ chức bộ máy,
bổ sung, tăng cường cán bộ cho các bộ phận công tác, đẩy mạnh việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cả về lý luận chính trị, cả về nghiệp vụ chuyên môn.
Với ý thức làm tốt công tác tham mưu, giúp việc Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước, trong những năm từ 1987 đến 1992, Văn phòng đã phục vụ
có kết quả nhiệm kỳ của Quốc hội khóa VIII, trong đó tập trung chủ yếu vào
việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Văn phòng được quy định tại Nghị
quyết số 01NQ/HĐNN7 của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Quy chế công
tác tháng 10-1984 của Văn phòng. Từ sau năm 1985, do yêu cầu của công tác
phục vụ, Văn phòng đã thực hiện việc chia tách và thành lập thêm một số vụ,
đơn vị; đồng thời ban hành quy định về mối quan hệ công tác giữa các vụ,
đơn vị trong Văn phòng. Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã tiến
hành thảo luận về cải tiến tổ chức bộ máy và hoạt động của Văn phòng nhằm
phục vụ sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng
nhân dân các cấp. Chức danh Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước (Tương tự như
Tổng thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội thời kỳ trước đây) vẫn được duy trì

song song với chức danh Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhưng do một
người nắm giữ tới tháng 12/1987 thì được tách ra độc lập do hai người đảm
nhiệm. Bên cạnh Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước đã bổ nhiệm một Ủy viên
Hội đồng Nhà nước giữ chức vụ Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước. Văn phòng được tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ
trưởng, các vụ chuyên môn có Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng đặt dưới sự lãnh
đạo toàn diện của Chủ nhiệm Văn phòng và có chức năng, nhiệm vụ khá độc
lập. Căn cứ vào kết quả của các cuộc thảo luận tại Văn phòng, Chủ nhiệm
Văn phòng đã ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và nền nếp làm việc của các Vụ, đơn vị trong Văn phòng Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước. Đầu năm 1990, Văn phòng tiếp tục kiện toàn một bước tổ

13


chức của cơ quan, tăng cường thêm cán bộ có năng lực cho một số đơn vị
đang thực sự thiếu người làm việc, đồng thời, sửa đổi, bổ sung Quy chế công
tác của Văn phòng…
Điều đáng lưu ý là về mô hình tổ chức Văn phòng trong giai đoạn này
là Quốc hội đã bắt đầu có những đổi mới quan trọng, về cơ cấu, tổ chức. Bên
cạnh Hội đồng Nhà nước là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của
Quốc hội thì còn có một số Ủy ban của Quốc hội bắt đầu hình thành bộ phận
Thường trực Ủy ban làm việc theo chế độ chuyên trách tại Quốc hội như Ủy
ban Pháp luật, Ủy ban Kinh tế - Ngân sách. Các vụ chuyên môn của Quốc hội
như Vụ Pháp luật, Vụ Hội đồng và các Ủy ban có nhiệm vụ trực tiếp tham
mưu phục vụ hoạt động của các Ủy ban. Toàn bộ cơ cấu tổ chức, chức năng
nhiệm vụ cũng như tổ chức cán bộ của các vụ này do Chủ nhiệm Văn phòng
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước quy định, lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành để
đáp ứng yêu cầu phục vụ chuyên môn cho các Ủy ban. Tuy nhiên, tới giữa
nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, với việc hình thành bộ phận thường trực của

một số Ủy ban của Quốc hội, thì công việc của các vụ chuyên môn thuộc Văn
phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước không còn thuần túy do Chủ nhiệm
Văn phòng chỉ đạo nữa, mà còn chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ nhiệm,
Thường trực Ủy ban của Quốc hội.
Như vậy, với sự xuất hiện của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên
trách tại một số Ủy ban của Quốc hội thì mô hình tổ chức bộ máy tham mưu
phục vụ Quốc hội nói chung và phục vụ Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội nói riêng bắt đầu đặt ra vấn đề cần được nghiên cứu hoàn thiện để
đáp ứng yêu cầu mới về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội. Bên cạnh sự chỉ đạo, lãnh đạo toàn diện của Chủ nhiệm Văn phòng
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đối với các vụ chuyên môn phục vụ các Ủy
ban của Quốc hội về các mặt chuyên môn, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bố
trí phân công công tác cán bộ… thì tại các vụ này đã bắt đầu xuất hiện cùng
một lúc chịu sự chỉ đạo, phân công công tác song trùng của Chủ nhiệm và

14


Thường trực Ủy ban. Ranh giới phạm vi chỉ đạo, điều hành của Chủ nhiệm
Văn phòng và Thường trực Ủy ban đối với vụ chuyên môn trong giai đoạn
này là không rõ ràng và do đó đã xuất hiện một số trường hợp lãnh đạo Văn
phòng thì phân công cho cán bộ của Vụ chuyên môn công việc này nhưng
Thường trực Ủy ban lại phân công công việc khác. Tính không thống nhất
trong chỉ đạo các vụ chuyên môn phục vụ các Ủy ban của Quốc hội bắt đầu
xuất hiện.
Trải qua hai nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII và khóa VIII, mặc dù tình
hình thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế của đất nước gặp nhiều khó khăn
nhưng Văn phòng đã có nhiều tiến bộ cả về nội dung, phương thức phục vụ;
quan tâm đến việc xây dựng nội bộ cơ quan, thực hiện sắp xếp, cải tiến bộ
máy làm việc; chăm lo đời sống cán bộ, công nhân, viên chức và đã đạt hiệu

quả công tác tốt, nhất là qua các kỳ họp Quốc hội và các phiên họp Hội đồng
Nhà nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban Thường trực của
Quốc hội.
1.2.4. Văn phòng Quốc hội từ năm 1992 đến nay
Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/4/1992 đã có những quy định quan
trọng về đổi mới tổ chức bộ mày nhà nước. Theo đó, chế định Hội đồng Nhà
nước là "Cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, Chủ tịch
tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" bị bãi bỏ, thay vào đó
là việc lập lại chế định Chủ tịch nước là "Người đứng đầu nhà nước, thay mặt
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại" và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội là "cơ quan thường trực của Quốc hội ". Trên cơ sở
đó, ngày 17 - 10 - 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
số 02NQ/UBTVQH19 quy định về tổ chức, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan giúp việc, đáp ứng yêu cầu đổi

15


mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Điều 1
của Nghị quyết số 02 xác định "Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp việc của
Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ
mọi hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội,
các Phó Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội".
Điều 2 của Nghị quyết 02 quy định Văn phòng Quốc hội có 16 nhiệm vụ,
quyền hạn, như: phục vụ Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong công
tác xây dựng pháp luật; phục vụ Quốc hội quyết định và ban hành những
chính sách cơ bản liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh, đối ngoại; tổ chức phục vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao

việc tuân theo Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội; nghiên cứu, phục
vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề bầu cử Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, về giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, về đảm bảo điều kiện hoạt
động của Đại biểu Quốc hội; tổ chức và quản lý công tác hành chính của
Quốc hội…
Văn phòng Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, làm việc theo chế độ thủ trưởng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ
của mình, các vụ, đơn vị thuộc Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của Chủ
nhiệm Văn phòng. Đồng thời, giữ mối quan hệ thường xuyên với Văn phòng
Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ và các cơ
quan, tổ chức hữu quan. Trong thời gian nhiệm kỳ phục vụ Quốc hội khóa IX và
khóa X (1992 - 2002), Văn phòng Quốc hội đã góp phần quan trọng vào thành
tựu đổi mới của Quốc hội cả trong lĩnh vực lập pháp, giám sát và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước.
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (2002 -2007) diễn ra trong bối cảnh công
cuộc đổi mới được triển khai một cách toàn diện, mạnh mẽ nhằm đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước

16


mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giúp Quốc hội thực hiện đầy
đủ vai trò là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
417/2003/NQ-UBTVQH11, ngày 01/10/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội. Nghị quyết
417/2003/NQ-UBTVQH11 được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, sửa đổi
Nghị quyết 02NQ/UBTVQH9 năm 1992 có kế thừa, chọn lọc và phát triển
một bước theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Về cơ bản, chức năng của Văn phòng

Quốc hội được giữ như Nghị quyết 02NQ/UBTVQH9 nhưng có bổ sung đối
tượng phục vụ là các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do vậy, nhiệm vụ
của Văn phòng cũng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Theo Nghị quyết 417/2003/NQ-UBTVQH11, Văn phòng Quốc hội có 17
nhiệm vụ, quyền hạn. Ngoài các nhiệm vụ liên quan đến công tác tham mưu,
tổng hợp, tổ chức phục vụ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng
còn có nhiệm vụ phối hợp phục vụ các hoạt động của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; phối hợp phục vụ
Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát hướng dẫn hoạt động của Hội đồng
nhân dân các cấp; phối hợp thực hiện việc tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn, thư
khiếu nại, tố cáo và đề đạt nguyện vọng của công dân; phục vụ Ủy ban
Thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội; điều hòa, phối hợp
hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, bảo đảm điều
kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội,
giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu và tổ chức thực hiện chế độ,
chính sách đối với đại biểu Quốc hội, giúp Chủ tịch Quốc hội giữ mối liên hệ
với các đại biểu Quốc hội; phối hợp phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quyết định biên chế và quy định chính sách, chế độ đối với Tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân và Văn phòng Quốc hội….

17


Được xây dựng trên cơ sở tổng kết việc thực hiện và kế thừa các quy
định của Nghị quyết số 02NQ/UBTVQH9, nhưng Nghị quyết 417 đã có sự
thay đổi cơ bản về mô hình tổ chức các vụ chuyên môn phục vụ Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Đây cũng là mô hình khá nhạy cảm về mặt
chỉ đạo, điều hành và phức tạp về mặt pháp lý. Theo đó:
Chủ nhiệm Văn phòng là người đứng đầu Văn phòng Quốc

hội, chịu trách nhiệm trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công
tác của Văn phòng. Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực
các Ủy ban của Quốc hội chịu trách nhiệm trước Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về công tác của Văn phòng Quốc hội đối với những vấn
đề có liên quan [20, Điều 5].
Tuy nhiên, tại Điều 7 lại quy định Thường trực Hội đồng Dân tộc,
Thường trực Ủy ban của Quốc hội trực tiếp chỉ đạo các mặt công tác của các
vụ trực tiếp giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Việc tuyển
chọn cán bộ, công chức, bổ nhiệm, cách chức Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và
các chức vụ tương đương… đối với các vụ này do Thường trực Hội đồng Dân
tộc, Thường trực các Ủy ban phối hợp với Chủ nhiệm Văn phòng quyết định;
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội ra quyết định, Thường trực Hội đồng Dân
tộc, Thường trực các Ủy ban phối hợp với Chủ nhiệm Văn phòng trong công
tác quản lý và thực hiện các chế độ, chính sách đối với các cán bộ, công chức
thuộc các vụ trực tiếp giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội… Đây là các cơ chế, chế độ quản lý, chỉ đạo, điều hành mới nhưng cũng
tương đối phức tạp của Nghị quyết 417/NQ-UBTVQH11 so với Nghị quyết
02/NQ-UBTVQH9.
Căn cứ Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn
phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng đã ban hành Quyết định số 1758/QĐCNVP ngày 29-9-2005 về Quy chế làm việc của Văn phòng Quốc hội và ban

18


hành đồng loạt các quyết định xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các vụ,
đơn vị trong Văn phòng Quốc hội. Việc ban hành các văn bản này phần nào
đã hạn chế được sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và tạo ra quy trình xử
lý công việc thống nhất trong Văn phòng. Bên cạnh đó, Văn phòng còn tổ
chức nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện các văn bản phục vụ hoạt động của bộ

máy Văn phòng như: Quy chế tuyển dụng công chức, viên chức của Văn
phòng Quốc hội; Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm cán
bộ quản lý cấp Vụ, cấp Phòng thuộc Văn phòng Quốc hội… và một số văn
bản hướng dẫn khác. Cho đến nay, về cơ bản tổ chức bộ máy của Văn phòng
Quốc hội đã dần ổn định, đáp ứng được yêu cầu phục vụ Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội.
Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ nhất khai mạc ngày 19/7/2007 đã
quyết định rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội xuống còn 4 năm. Trên cơ sở kế thừa,
phát huy những thành quả và kinh nghiệm của các khóa trước, Quốc hội khóa
XII tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động để phấn đấu đạt được những tiến bộ
quan trọng trong việc thực thực hiện cả ba chức năng cơ bản: lập pháp, giám
sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần vào
thành tựu chung của công cuộc đổi mới. Nhằm thực hiện tốt chức năng tham
mưu giúp việc và phục vụ có hiệu quả các hoạt động của Quốc hội, Văn
phòng Quốc hội cũng đã thực sự có bước phát triển vượt bậc, không chỉ tăng
về số lượng công việc mà chủ yếu là công tác tham mưu, phục vụ đã đi vào
nền nếp. Do có sự chỉ đạo chặt chẽ, nêu cao tinh thần trách nhiệm và một
phần nhờ việc áp dụng hệ thống văn bản thống nhất, thông suốt nên Văn
phòng Quốc hội đã hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu,
giúp việc Quốc hội. Văn phòng luôn làm tốt nhiệm vụ của mình là do tập thể
lãnh đạo, cán bộ, công chức Văn phòng luôn quán triệt sâu sắc đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước; duy trì mối quan hệ công tác giữa Văn phòng
Quốc hội với các Văn phòng Trung ương và các cơ quan hữu quan trong việc
phục vụ hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Đặc biệt, sự

19


phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể
đã góp phần tạo động lực thúc đẩy Văn phòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

chính trị của mình.
Đánh giá khái quát về quá trình hình thành, phát triển các chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội
Sau khi xem xét sơ bộ về sự hình thành, phát triển của Văn phòng
Quốc hội - bộ máy giúp việc Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội qua
các thời kỳ, tác giả rút ra được một số nhận xét sau:
Quá trình xác lập chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Văn phòng Quốc hội là một quá trình hình thành, phát triển từ thấp đến
cao tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử. Điều đó được thể hiện rõ qua thực tiễn tổ chức bộ
máy và xác định các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Văn phòng Quốc hội. Xem xét quá trình này, có thể dễ dàng nhận
thấy: từ việc tổ chức khá đơn giản bộ máy với những quy định chưa mang
tính định hình, định lượng và định tính trong việc xác lập chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Văn phòng cho đến giai đoạn sau này, những vấn đề đó đã
được đề cập hoàn chỉnh hơn. Trong một thời gian khá dài, Văn phòng Quốc
hội với cơ cấu tổ chức tương đối đơn giản chỉ có chức năng, nhiệm vụ mà
không có những quyền hạn để bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn được giao.
- Sự thay đổi về mô hình tổ chức bộ máy tham mưu, giúp việc cho
Quốc hội là cơ sở cho sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Văn phòng Quốc hội. Đây là một thực trạng bắt nguồn từ những thay đổi to
lớn trong nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội với tư cách là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính điều đó đã tạo ra động lực về tư
duy đổi mới bộ máy tham mưu giúp việc, dẫn đến sự thay đổi về mô hình tổ

20



×