Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

“Liêm chính học thuật”: Lý luận, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trên thế giới và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.93 KB, 14 trang )

NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT

“LIÊM CHÍNH HỌC THUẬT”: LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Vũ Công Giao*

* PGS. TS. Viện Chính sách công và Pháp luật.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: liêm chính học thuật, đạo văn,
gian lận, bịa đặt, trích dẫn, Việt Nam
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 04/12/2017
Biên tập: 10/01/2018
Duyệt bài: 16/01/2018

Tóm tắt:
Nội dung cốt lõi của “liêm chính học thuật” là sự trung thực, ngay
thẳng, trong sáng và trách nhiệm trong hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy, học tập ở các cơ sở học thuật, đặc biệt là các trường đại học. Bảo
đảm tính liêm chính là yêu cầu sống còn với sự tồn tại, phát triển của
cộng đồng học thuật. Mặc dù vậy, các quốc gia trên thế giới, bao gồm
Việt Nam, đều đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm liêm chính
học thuật, mà những biểu hiện phổ biến bao gồm đạo văn, gian lận và
bịa đặt trong nghiên cứu khoa học. Bài viết phân tích những vấn đề lý
luận, thực tiễn và những biện pháp để bảo đảm liêm chính học thuật
ở trên thế giới và Việt Nam.

Article Infomation:
Keywords:
academic
integrity,


plagiarism, cheating, fabrication,
citation, Vietnam
Article History:
Received: 04 Dec. 2017
Edited:
10 Jan. 2018
Approved: 16 Jan. 2018

Summary:
The key contents of academic integrity are honesty, truthfulness,
transparency and accountability in the research activities, teaching
activities and studying activities in the academic institutions,
especially in the universities. Academic integrity assurance is a vital
requirement for the existence and development of the academic
community. However, all countries in the world, including
Vietnam, are facing problems of the academic dishonesty, which
manifests in plagiarism, cheating and fabrication in conducting
scientific research. This article provides analysis of theoretical and
practical issues and measures to ensuring academic integrity the
world and Vietnam.

1. Lịch sử, khái niệm và nội dung của liêm
chính học thuật
Vấn đề trung thực trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập - cốt lõi của liêm chính
học thuật - đã được quan tâm, thảo luận từ
lâu trên thế giới, có lẽ cùng với sự ra đời và
phát triển của các trường đại học. Tuy nhiên,
về mặt nguồn gốc, thuật ngữ liêm chính học


thuật (academic integrity) được xem là do
cố Giáo sư Donald McCabe của Trường
Kinh doanh Đại học Rutgers (Rutgers
Business School), Hoa Kỳ lần đầu tiên khởi
xướng trong báo cáo khảo sát với tiêu đề:
“Cheating in the Academic Institutions: A
Decade of Research” (tạm dịch: “Gian lận
trong các cơ sở học thuật: Kết quả nghiên
Số 6(358) T3/2018

3


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
cứu trong một thập kỷ”) đăng tải vào năm
2001 trên Tạp chí Ethics & Behaviors1. Kể
từ khi báo cáo nêu trên của ông được đăng
tải, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu
khác về vấn đề này được công bố, và một số
trung tâm nghiên cứu, mạng lưới các trường
đại học được thành lập để thúc đẩy liêm
chính học thuật2.
Về mặt ngôn ngữ học, liêm chính học
thuật là một từ ghép, bao gồm liêm chính
(integrity) và học thuật (academic). Khái
niệm học thuật thường được hiểu là những
hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại
các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường
đại học3. Tuy nhiên, với liêm chính, do tính
chất rộng và trừu tượng của nó, nhiều tác giả

cho rằng rất khó để đưa ra một định nghĩa
đầy đủ và hoàn chỉnh về khái niệm này4. Về
nguồn gốc, integrity xuất phát từ thuật ngữ
La-tinh là integer, có nghĩa là toàn bộ, toàn
thể5. Theo một từ điển tiếng Anh phổ thông,
liêm chính là tập hợp các phẩm chất đạo đức
như sự trung thực, ngay thẳng, trong sạch6.
Còn theo Ann Nichols-Casebolts, liêm chính
trong nghiên cứu nghĩa là cam kết cá nhân
(của nhà nghiên cứu) hướng đến các tiêu
chuẩn thật thà về kiến thức và trách nhiệm
1

2
3
4

5
6
7
8
9

4

cá nhân hàm chứa các tiêu chuẩn về tính tin
cậy và hợp pháp7.
Như vậy, có thể thấy, dù có những
định nghĩa khác nhau, nội hàm của khái
niệm liêm chính hàm ý những phẩm chất

tốt đẹp của con người như trung thực, ngay
thẳng, trong sáng và có trách nhiệm với
hành động của mình. Đây cũng là nội hàm
chính của khái niệm liêm chính học thuật
được cụ thể hoá và áp dụng bởi các trường
đại học trên thế giới. Cụ thể, trong báo cáo
nêu trên, giáo sư Donald McCabe hàm ý
liêm chính học thuật bao gồm những giá trị
như tránh gian lận hoặc đạo văn; duy trì các
tiêu chuẩn học thuật; trung thực và nghiêm
túc trong nghiên cứu và xuất bản học
thuật. Đại học bang Michigan (Michigan
State University, Hoa Kỳ) nêu rằng, liêm
chính học thuật là sự trung thực và trách
nhiệm trong học thuật8. Đại học Canterbury
(University of Canterbury, New Zealand)
cho rằng, liêm chính học thuật là nguyên
tắc mà sinh viên, giảng viên và cán bộ của
trường đại học phải tuân thủ, đó là “hành
động một cách trung thực, công bằng, tử tế
và tôn trọng người khác trong giảng dạy,
học tập và quản trị”9. Trường Đại học Hoa

Donald L. McCabe, Linda Klebe, Kenneth D. Butterfield (2001), “Cheating in Academic Institutions: A Decade of
Research”, ETHICS & BEHAVIOR, 11(3), 219–232 Copyright © 2001, Lawrence Erlbaum Associates, Inc,
tại: />Research, truy cập ngày 1/12/2017.
Ví dụ, xem thông tin về Trung tâm quốc tế về Liêm chính học thuật (the International Center for Academic Integrity
–ICAI, thuộc Đại học Clemson (Hoa Kỳ) - với mạng lưới thành viên
gồm 22 trường đại học ở nhiều quốc gia, ttruy cập ngày 1/12/2017.
truy cập ngày 1/12/2017.

Melissa S.Anderson et al, ‘Research Integrity and Misconduct in the Academic Profession’, trong Michael B. Paulsen
(ed), Higher Education: Handbook of Theory and Research (Vol 28, Springer 2013), tr. 217. Dẫn theo Trần Kiên - Vũ
Công Giao, “Trung thực trong nghiên cứu khoa học”, đăng trong cuốn Phương pháp nghiên cứu viết luận văn, luận án
ngành luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
truy cập ngày 1/12/2017.
truy cập ngày 1/12/2017.
Ann Nichols-Casebolts, Research Integrity and Responsible Conduct of Research, Oxford University Press 2012, tr. 2.
Dẫn theo Trần Kiên - Vũ Công Giao, tài liệu đã nêu.
Nguồn: truy cập ngày
1/12/2017.
Nguồn: truy cập ngày 2/12/2017.
Số 6(358) T3/2018


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Sen của Việt Nam định nghĩa: “Liêm chính
học thuật là cách hành xử ngay thẳng và
trong sạch trong hoạt động học thuật, gồm
các hoạt động liên quan đến học tập, giảng
dạy, nghiên cứu, cũng như các hoạt động
sáng tác, sáng tạo khác”10.
2. Vi phạm liêm chính học thuật: Các biểu
hiện phổ biến
Do liêm chính học thuật là khái niệm
rộng, tương đối trừu tượng, nên những vi
phạm có thể diễn ra dưới nhiều dạng thức.
Mặc dù vậy, để bảo đảm liêm chính học
thuật, một số chính phủ và trường đại học đã
thiết lập các tiêu chuẩn để xác định những
hành vi vi phạm. Ví dụ, Văn phòng Chính

sách về Công nghệ và Khoa học của Hoa
Kỳ xác định những hành vi không trung
thực trong hoạt động nghiên cứu bao gồm:
làm giả, làm sai lệch tài liệu, dữ liệu và đạo
văn11; Hội đồng Nghiên cứu Vương quốc
Anh (Research Councils UK) - một trong
những cơ quan quản lý và xét duyệt tài trợ
chính thức cho nghiên cứu khoa học của
nước này - xác định thêm một số hành vi
khác cũng được coi là vi phạm liêm chính
học thuật, đó là: gian dối, vi phạm nghĩa
vụ phải cẩn trọng, và xử lý các cáo buộc vi
phạm một cách thiếu thích đáng12.
Dưới đây là những dạng vi phạm phổ
biến nhất được nêu trong bộ quy tắc về liêm
chính học thuật của nhiều trường đại học
trên thế giới.

Thứ nhất: Đạo văn (Plagiarism)
Theo Hội đồng Nghiên cứu Vương
quốc Anh, đạo văn là việc sử dụng các ý
tưởng, tác phẩm, hoặc tài sản trí tuệ của
người khác (viết hoặc dưới một hình thức
khác) mà không trích dẫn nguồn hoặc không
được cho phép trích dẫn nguồn13. Trung
tâm quốc tế về liêm chính học thuật (the
International Center for Academic Integrity
-ICAI) cũng định nghĩa đạo văn là những
hành động sử dụng từ, ý tưởng hay tác phẩm
của người khác mà không trích dẫn nguồn

nhằm có được những lợi ích mà không nhất
thiết phải là tiền bạc14. Bộ quy tắc về liêm
chính học thuật của Đại học Maryland (Hoa
Kỳ) quy định đạo văn là việc “cố ý hoặc làm
như vô tình sử dụng các từ hoặc ý tưởng của
người khác như là của riêng mình trong bất
kỳ khóa học hoặc bài tập nào”15.
Ở Việt Nam, Trường Đại học Hoa Sen
định nghĩa đạo văn là “việc sử dụng từ ngữ
hay ý tưởng của người khác như thể là của
mình trong hoạt động học thuật”, trong đó
bao gồm: dẫn giải, trình bày, sao chép, dịch
đoạn văn hay ý tưởng của người khác mà
không trích dẫn phù hợp; sử dụng toàn bộ
hay một phần bài viết của người khác, kể
cả các bài có tính chất thương mại mua bán
trên thị trường, trên mạng; sử dụng tác phẩm
nghệ thuật, thiết kế, biểu đồ, dữ liệu của
người khác mà không rõ nguồn”16. Ngoài ra,
quy chế của Trường Đại học Hoa Sen còn

10 Đại học Hoa sen, Quy định về liêm chính học thuật (ban hành theo Quyết định số 1741/QĐ-BGH, ngày 28/10/2013 của
Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen). Điều 2, khoản 2.
11 Melissa S.Anderson et al, tlđd, tr. 218.
12 Research Councils UK, RCUK Policy and Guidelines on Governance of Good Research
Conduct (2013). Xem tại />RCUKPolicyandGuidelinesonGovernanceofGoodResearchPracticeFebruary2013.pdf, truy cập ngày 2/12/2017.
13 Research Councils UK, RCUK Policy and Guidelines on Governance of Good Research Conduct, tlđd.
14 International Center for Academic Integrity, tại truy cập ngày
2/12/2017.
15 University of Maryland, Code of Academic Integrity, Điều 1, tại />edu/files/documents/policies/III-100A.pdf, truy cập ngày 2/12/2017.

16 Đại học Hoa sen, Quy định về liêm chính học thuật, tlđd, Điều 4, khoản 1.
Số 6(358) T3/2018

5


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
đi xa hơn khi quy định đạo văn bao gồm cả
hành động “tự đạo văn”, tức là “dùng hơn
30% nội dung một bài viết của chính mình
nộp cho hơn một môn học hoặc dùng một bài
tập nhóm làm bài của cá nhân”17. Cách tiếp
cận này phù hợp với quy định của Trường
Đại học Oxford (Anh), trong đó xem việc
thuê hoặc nhờ người khác thực hiện công
trình nghiên cứu hộ mình và cả việc không
ghi nhận sự giúp đỡ của người khác trong
quá trình thực hiện nghiên cứu cũng bị coi
là đạo văn18.
Nói tóm lại, về bản chất, đạo văn là
hành động không trung thực trong học thuật,
song cũng được biểu hiện dưới nhiều dạng
thức. Thủ phạm của hành động đạo văn
thông thường là người học (sinh viên, học
viên) song cũng bao gồm cả người nghiên
cứu (nhà nghiên cứu, giảng viên).
Đạo văn là hành vi phi liêm chính
học thuật nổi bật nhất, vì thế bị phê phán,
chỉ trích nhiều nhất. Tuy nhiên, không nên
xem đạo văn đơn giản chỉ là việc sử dụng tri

thức, tác phẩm của người khác, bởi lẽ trong
nghiên cứu khoa học, việc tham khảo, sử
dụng tri thức, tác phẩm của người khác để
kế thừa, tiếp nối và phát triển kiến thức là
việc tất yếu. Vấn đề ở đây chỉ là khi sử dụng
thành quả nghiên cứu của người khác cần
phải trích dẫn, ghi nhận một cách trung thực
và đầy đủ19.
Thứ hai: Gian lận (cheating)
Gian lận cũng là một hành vi vi phạm
liêm chính học thuật mang tính phổ biến.

Theo Bộ quy tắc về liêm chính học thuật của
Đại học Maryland, hành vi này được hiểu
thông qua các biểu hiện của người học như:
“gian dối, lừa gạt, không trung thực trong
học tập, hoặc sử dụng hay cố gắng sử dụng
các tài liệu, thông tin hoặc trợ giúp học tập
bất hợp pháp trong học tập, để cố gắng đạt
được điểm số một cách không công bằng”20.
Tương tự, Bộ quy tắc về liêm chính học
thuật của Đại học Vermont (Hoa Kỳ) cũng
cho rằng, gian dối tức là hành động của sinh
viên “cố gắng để đạt được lợi thế học tập
một cách không công bằng” qua những hành
động như: “tự nhận sản phẩm khoa học của
người khác là của mình..., sử dụng một bài
tập để nộp cho hơn một khoá học…, cố tình
sử dụng, phổ biến những thông tin mà mình
biết hoặc phải biết là không chính xác bằng

cách lừa dối, giả mạo hoặc thay đổi bất kỳ
tài liệu hoặc hồ sơ nào có liên quan...”21.
Ở Việt Nam, quy định về liêm chính
học thuật của Trường Đại học Hoa Sen định
nghĩa gian lận trong học thuật là “hành vi sử
dụng hoặc chuẩn bị sử dụng các hình thức
gian dối, ngụy tạo, và/hoặc thể hiện, trình
bày, khai báo không đúng sự thật về hoạt
động học thuật của mình”. Các hành vi cụ
thể được coi là gian lận bao gồm: “Sử dụng
sách, tài liệu, ghi chú, những thiết bị điện tử
hay bất kỳ nguồn trợ giúp nào khác; trao đổi,
nói chuyện trong thời gian làm bài thi/kiểm
tra hay những hoạt động học thuật khác mà
không được phép; làm chung với người
khác bài tập giao về nhà, bài báo cáo, lập
trình hay bất kỳ một hoạt động học tập được

17 Đại học Hoa sen, Quy định về liêm chính học thuật, tlđd, Điều 4, khoản 1.
18 University of Oxford, Academic Good Practice – A Practical Guide 6,

tại />guide.pdf, truy cập ngày 2/12/2017.
19 Trần Kiên - Vũ Công Giao, “Trung thực trong nghiên cứu khoa học”, đăng trong cuốn Phương pháp nghiên cứu viết
luận văn, luận án ngành luật, sđd.
20 University of Maryland, Code of Academic Integrity, Điều 1.
21 University of Vermont, Code of Academic Integrity, tr. 2-3,

tại truy cập ngày 3/12/2017.

6


Số 6(358) T3/2018


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
giao nào mà không có sự cho phép của giảng
viên; có hành vi lấy cắp đề thi hay đáp án
trước khi kỳ thi diễn ra; có hành vi giả mạo
hồ sơ, sử dụng các hồ sơ không hợp pháp”22.
Như vậy, qua các định nghĩa trên, có
thể thấy thủ phạm của hành vi gian lận trong
học thuật là người học (học sinh, sinh viên,
học viên). Tuy nhiên, xét tính chất của vấn
đề, có thể khẳng định là những đối tượng
khác trong môi trường học thuật, cụ thể như
giảng viên, người làm công tác nghiên cứu,
và thậm chí là những cán bộ quản lý giáo
dục, cũng có hành vi gian lận, mặc dù không
phổ biến bằng người học.
Thứ ba: Bịa đặt (fabrication)
Hành động này được xem là “cố ý
làm giả một cách trái phép hoặc bịa ra bất
kỳ thông tin hoặc trích dẫn nào trong bất kỳ
khóa học hay bài tập nào”23; “Bịa ra hoặc
làm giả dữ liệu thực nghiệm, quan sát, phỏng
vấn, khảo sát thống kê, và các thông tin khác
để hoàn thành bài tập”24; “Làm giả, bóp méo
hoặc bịa ra bất kỳ thông tin hoặc trích dẫn
nào trong nghiên cứu khoa học. Ví dụ, bao
gồm, nhưng không giới hạn, ở việc bịa ra

một nguồn tài liệu, cố ý nhầm lẫn, giả mạo
các con số hoặc các dữ liệu khác”25.
Ở Việt Nam, quy định về liêm chính
học thuật của Trường Đại học Hoa Sen định
nghĩa bịa đặt trong học thuật là “hành vi cố
ý làm sai lệch hoặc bịa ra bất kỳ thông tin
hay trích dẫn nào trong bất kỳ hoạt động học
thuật nào”, bao gồm ít nhất là các biểu hiện

cụ thể như: “sử dụng thông tin bịa đặt trong
thí nghiệm, nghiên cứu, báo cáo thực tập
hay các hoạt động học thuật khác; trích dẫn
không đúng người sử dụng (ví dụ, trích dẫn
thông tin từ một bài điểm sách nhưng trình
bày như thể là thông tin lấy từ sách gốc)”26.
Như vậy, qua các định nghĩa trên, có
thể thấy, hành vi bịa đặt trong học thuật có
thể là người học (học sinh, sinh viên, học
viên) và cả người làm công tác nghiên cứu.
Trên thực tế, hành vi này đã từng được
thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy
tín, ví dụ như vụ bịa đặt trong nghiên cứu
tế bào gốc của một nhà khoa học nổi tiếng
Hàn Quốc là tiến sĩ Hwang Woo-suk vào
năm 200527.
Ngoài ba hành vi phổ biến nêu trên,
một số hành vi khác cũng có thể bị xem là
vi phạm liêm chính học thuật. Những hành
vi này có thể phản ánh một khía cạnh riêng
biệt, hoặc là một khía cạnh cụ thể trong ba

hành vi mang tính bao trùm đã nêu. Cụ thể
như sau:
- Hỗ trợ hành vi không trung thực
trong học thuật (facilitating academic
dishonesty): Hành động này có biểu hiện
là: “Cố ý hoặc làm như không biết để giúp
đỡ hoặc cố gắng giúp đỡ một người khác
vi phạm các tiêu chuẩn của liêm chính học
thuật”28, hoặc “cố ý giúp đỡ hoặc chuẩn bị
giúp đỡ người khác thực hiện một hành vi
vi phạm liêm chính học thuật”, trong đó bao
gồm: “Thi hộ hoặc thuê người khác thi hộ;

22
23
24
25

26
27


Đại học Hoa Sen, Quy định về liêm chính học thuật, tlđd, Điều 4, khoản 2.
University of Maryland, Code of Academic Integrity, Điều 1.
University of Vermont, Code of Academic Integrity, tr. 2.
American University, Academic Integrity Code, Mục II khoản 6,
tại truy cập ngày 3/12/2017.
Đại học Hoa Sen, Quy định về liêm chính học thuật, tlđd, Điều 4, khoản 4.
Giáo sư Hàn Quốc "giả" nghiên cứu tế bào gốc, Tienphong Online, 17/12/2005,
tại truy

cập ngày 3/12/2017.
28 University of Maryland, Code of Academic Integrity, Điều 1.
Số 6(358) T3/2018

7


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
làm báo cáo hoặc báo cáo hộ người khác;
cho người khác sao chép bài làm của mình
trong kỳ thi hay trong kiểm tra hoặc trong
các hoạt động học thuật khác”29.
- Thông đồng (Collusion): Biểu hiện
của hành động này là: “Hai hoặc ba sinh viên
cùng nhau làm một bài tập hoặc bài luận mà
không có sự cho phép của giáo viên”30. Đây
thực chất là một hành động gian lận tập thể
trong học thuật.
- Hối lộ hay đe dọa (Bribes, Threats):
Biểu hiện của hành động này là việc hối lộ
hoặc đe dọa người khác để có điểm hoặc có
nhận xét tốt về kết quả học tập hay kết quả
hoạt động chuyên môn31.
3. Sự cần thiết và các biện pháp bảo đảm
liêm chính học thuật
Bảo đảm sự liêm chính được xem là
yếu tố sống còn của đời sống học thuật.
Một trường đại học ở Hoa Kỳ nhận định:
“Liêm chính học thuật là trái tim của đời
sống trí tuệ” (Academic integrity stands at

the heart of intellectual life)32, còn theo một
học giả thì “Tính trung thực là nền tảng căn
bản của niềm tin công chúng vào toàn bộ hệ
thống nghiên cứu học thuật, ...là cơ sở để
tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu, cũng như để
sử dụng các kết quả nghiên cứu trong việc
ra quyết định”33.
Trong thực tế, niềm tin của xã hội vào
sự trung thực, ngay thẳng trong hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy, học tập quyết định sự
tồn tại và phát triển của cộng đồng học thuật
- một cộng đồng có mục đích không chỉ tìm
kiếm tri thức mà cả những giá trị tinh thần

cao cả. Nếu đánh mất sự liêm chính, cộng
đồng học thuật sẽ không thể hoàn thành vai
trò kiến tạo, truyền bá tri thức cũng như
những giá trị tinh thần tốt đẹp. Hơn thế,
khi đánh mất sự liêm chính, cộng đồng học
thuật không chỉ đánh mất vị trí, vai trò của
mình mà còn gây tác động tiêu cực đến sự
phát triển của xã hội. Sự tha hoá, suy thoái
của cộng đồng học thuật là một trong những
biểu hiện rõ ràng, nổi bật về sự tha hoá, suy
thoái của một xã hội.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, cộng đồng
học thuật cũng là tập hợp của những con
người, vì vậy khó tránh khỏi những hạn chế,
khiếm khuyết của con người, mà ở đây là sự
giả dối, thiếu trung thực. Thực tế cho thấy,

những hành vi thiếu liêm chính đã xảy ra
ngay từ khi hình thành cộng đồng học thuật,
tồn tại song hành cùng đời sống học thuật
cho đến ngày nay và sẽ còn tiếp tục xảy ra,
bất kể các biện pháp ngăn chặn và sự chỉ
trích, phê phán. Những nghiên cứu về lĩnh
vực này cho thấy hành vi thiếu liêm chính
học thuật diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, cả
ở những nước phát triển và đang phát triển,
chỉ khác nhau về mức độ. Ví dụ, cuộc khảo
sát do cố giáo sư Donald McCabevà ICAI
thực hiện trong vòng 12 năm (từ 2002-2015)
ở hàng trăm trường trung học phổ thông
(high school) và trường đại học của Hoa Kỳ
- một quốc gia phát triển bậc nhất thế giới cho thấy, có 68% số sinh viên đại học, 43%
học viên cao học, nghiên cứu sinh; 95% học
sinh trung học phổ thông được khảo sát thừa
nhận đã từng có hành vi gian lận trong học
tập34. Trước đó, công trình nghiên cứu quy

29 Đại học Hoa Sen, Quy định về liêm chính học thuật, tlđd, Điều 4, khoản 4.
30 Stony Brook University, Academic Integrity: Policies and Procedures, truy cập ngày 3/12/2017.
31 American University, Academic Integrity Code, tlđd, Mục II khoản 8.
32 American University, Academic Integrity Code, tlđd. Mục II khoản 6.
33 Michael B. Paulsen (ed), Higher Education: Handbook of Theory and Research, Vol 28, Springer 2013, tr.217.
34 Nguồn: ICAI, Statistic, tại truy cập ngày 3/12/2017.

8

Số 6(358) T3/2018



NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
mô và chuyên sâu đầu tiên về vấn đề này
do cố giáo sư Donald McCabe cùng đồng
sự thực hiện và công bố năm 2001 cũng
kết luận rằng tình trạng gian lận học thuật
ở Mỹ diễn ra một cách phổ biến và một số
dạng thức gian lận đã gia tăng một cách đột
ngột (dramatically) trong vòng 30 năm gần
đây35. Nghiên cứu này cũng chỉ ra một số
nguyên nhân của tình trạng này, trong đó
students’perceptions of peers’ behavior (tạm
dịch “thái độ chấp nhận điều xấu của bạn
học”) là nguyên nhân chủ yếu36.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, còn có nhiều
nguyên nhân khác góp phần vào sự suy giảm
của liêm chính học thuật trên thế giới trong
những thập kỷ gần đây, trong đó bao gồm:
(1) Sự phát triển của Internet làm cho việc
tìm kiếm, chia sẻ và sao chép các tài liệu
nghiên cứu trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết
trong lịch sử học thuật; (2) Sự bùng nổ của
giáo dục bậc cao khiến cho các trường đại
học được mở ra khắp nơi, đào tạo số lượng
sinh viên lớn, dẫn tới việc phải sử dụng cả
nguồn giảng viên có năng lực chuyên môn
và liêm chính kém, cũng như làm quá tải hệ
thống quản trị đại học; (3) Sự bùng nổ và
tính chất thương mại hoá, cạnh tranh ngày

càng cao của ngành xuất bản, trong đó có
xuất bản học thuật (tạp chí, sách chuyên
khảo…) dẫn đến sự cắt giảm các tiêu chuẩn
và quy trình rà soát, kiểm tra tính liêm chính
của các công trình nghiên cứu được đăng tải;
(4) Sự tôn sùng thái quá, dẫn tới sự chiều
chuộng, thờ ơ với những cố tật của giới học
thuật trong một số xã hội… Tất cả những
yếu tố này đều có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến sự suy giảm tính liêm chính

của cộng đồng học thuật trên thế giới những
năm gần đây.
Trước tình thế nêu trên, nhiều trường
đại học trên thế giới đã tìm cách “tự cứu
mình” bằng việc xây dựng, củng cố bộ quy
tắc liêm chính học thuật nhằm hạn chế và xoá
bỏ những hành vi gian lận, thiếu trung thực
trong giảng dạy, nghiên cứu và học tập, qua
đó giữ gìn niềm tin của xã hội. Đây có thể
coi là biện pháp phổ biến và hiệu quả nhất
để đối phó với tình trạng suy giảm về liêm
chính học thuật hiện nay. Tuy có tên gọi và
nội dung ít nhiều khác nhau, các bộ quy tắc
về liêm chính học thuật của các trường đại
học trên thế giới đều có những điểm chung
là: đều khẳng định sự cần thiết, tầm quan
trọng của liêm chính học thuật; đều xác định
những hành vi bị xem là vi phạm liêm chính
học thuật bị cấm; đều đề cập đến những biện

pháp xử lý vi phạm liêm chính học thuật.
Để tăng cường năng lực bảo đảm
liêm chính học thuật, một số trường đại học
trên thế giới đã tham gia các mạng lưới các
cơ sở học thuật quan tâm đến vấn đề này.
Mạng lưới do Trung tâm quốc tế về Liêm
chính học thuật (the International Center
for Academic Integrity - ICAI, thuộc Đại
học Clemson University, Hoa Kỳ) chủ trì
là một ví dụ điển hình. Những mạng lưới
này thường tổ chức các hội nghị, hội thảo
hàng năm và theo chuyên đề để thảo luận,
chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về các vấn
đề và giải pháp bảo đảm liêm chính học
thuật37, đồng thời xây dựng những hướng
dẫn chung cho các trường thành viên trong
lĩnh vực này38.

35 Nguồn: Donald McCabe và đồng sự, Cheating in Academic Institutions: A Decade of Research, tlđd.
36 Nguồn: Donald McCabe và đồng sự, Cheating in Academic Institutions: A Decade of Research, tlđd.
37 Ví dụ, xem danh mục các hội thảo do ICAI tổ chức gần đây tại truy
cập ngày 3/12/2017.
38 Ví dụ, xem hướng dẫn chung do ICAI xây dựng tại truy cập
ngày 3/12/2017.
Số 6(358) T3/2018

9


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT

Ở góc độ nhà nước, mặc dù liêm chính
học thuật thường được xem là thuộc phạm
trù đạo đức, là vấn đề riêng của cộng đồng
học thuật, mà cụ thể là các trường đại học,
nên chủ yếu được điều chỉnh bằng quy chế
của nhà trường, song các nhà nước cũng có
những trách nhiệm nhất định. Vì vậy, Chính
phủ của một số nước, mà cụ thể là cơ quan
chủ quản về giáo dục cũng thắt chặt các quy
định chung, mang tính chất nguyên tắc về
bảo đảm liêm chính học thuật trong giáo
dục, bằng cách lồng vào các văn bản pháp
luật chuyên ngành về giáo dục, hoặc tách
ra thành những văn bản hướng dẫn riêng.
Thêm vào đó, ở một số quốc gia, Nhà nước
còn can thiệp vào vấn đề này bằng cách ban
hành những quy định cấm và xử lý những
hành vi thương mại hoá, bao gồm cung cấp
dịch vụ viết luận văn, luận án, bài tập cho
sinh viên, học viên. Mặc dù vậy, những nỗ
lực đó chưa mang tính phổ biến.
Ở góc độ quốc tế, trong Hội nghị thế
giới lần thứ hai về Liêm chính trong hoạt
động nghiên cứu (the 2nd World Conference
on Research Integrity)39, 340 đại biểu từ
51 quốc gia đã thông qua Tuyên ngôn
Singapore, trong đó nêu ra bốn nguyên tắc
(trung thực trong mọi khía cạnh của nghiên
cứu; có trách nhiệm khi tiến hành nghiên
cứu; công bằng và chuyên nghiệp khi làm

việc (nghiên cứu) với người khác; và, quản
lý/bảo vệ tốt việc nghiên cứu khi nhân danh
người khác) và 14 yêu cầu đối với người
nghiên cứu khoa học, bao gồm40:
(1) Tính trung thực: Nhà khoa học có
trách nhiệm về tính tin cậy trong nghiên cứu.
(2) Tuân thủ các quy định: Nhà khoa
học phải nhận thức và tuân thủ các quy định
và chính sách liên quan đến nghiên cứu.

(3) Phương pháp nghiên cứu: Nhà
khoa học phải sử dụng phương pháp nghiên
cứu hợp lý, dựa trên các kết luận có chứng
cứ khoa học, và báo cáo về những phát hiện
và giải thích một cách đầy đủ, khách quan.
(4) Hồ sơ nghiên cứu: Nhà khoa học
có nghĩa vụ lưu đầy đủ, chi tiết, rõ ràng, và
chính xác các kết quả mà họ đạt được trong
quá trình nghiên cứu để những người khác
có thể thẩm định hay lặp lại công việc đã
thực hiện.
(5) Phát hiện của nghiên cứu: Nhà
khoa học phải chia sẻ công khai và kịp
thời dữ liệu và phát hiện ngay sau khi họ
có cơ hội để thiết lập quyền ưu tiên và
quyền sở hữu.
(6) Quyền tác giả: Nhà khoa học có
trách nhiệm về đóng góp trong mọi công bố,
tài trợ, ứng dụng, báo cáo và kết quả nghiên
cứu liên quan khác. Danh sách tác giả là

những người đáp ứng được các tiêu chí về
quyền tác giả phải được bao gồm đầy đủ.
(7) Lời cảm ơn của các công bố: Nhà
khoa học có trách nhiệm ghi nhận đóng góp
của các cá nhân hay tổ chức (bao gồm người
chấp bút, nguồn tài trợ, nhà tài trợ, và những
người liên quan khác) trong các công bố của
họ nhưng chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chí làm
tác giả.
(8) Chuyên gia đánh giá: Nhà khoa
học cần cung cấp các đánh giá một cách
công bằng, kịp thời và nghiêm ngặt, và đảm
bảo tính bí mật khi bình duyệt công việc của
người khác.
(9) Xung đột lợi ích: Nhà khoa học
nên công khai các xung đột về tài chính hay
các vấn đề liên quan có thể ảnh hưởng độ tin
cậy trong các đề xuất nghiên cứu, công trình
khoa học và trên các phương tiện truyền

39 Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
40 Tuyên bố Singapore về tính trung thực trong nghiên cứu khoa học, bản dịch của Do Tien Dzung, tại truy cập ngày 3/12/2017.

10

Số 6(358) T3/2018


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
thông đại chúng cũng như trong tất cả các

hoạt động bình duyệt.
(10) Truyền thông công cộng: Nhà
khoa học nên hạn chế bình luận về chuyên
môn trong lĩnh vực của mình khi tham gia
vào các cuộc thảo luận công khai về các ứng
dụng và tầm quan trọng trong các phát hiện
nghiên cứu, ý kiến chuyên môn và nhận định
dựa trên cảm nhận cá nhân.
(11) Báo cáo về nghiên cứu thiếu
trách nhiệm: Nhà khoa học phải báo cáo
cho cơ quan thẩm quyền khi có nghi ngờ
về hành vi sai trái trong nghiên cứu, bao
gồm giả mạo, đạo văn và thực hiện nghiên
cứu thiếu tinh thần trách nhiệm khác làm
giảm sự tin cậy trong nghiên cứu, chẳng
hạn như bất cẩn, liệt kê sai danh sách tác
giả, không báo cáo dữ liệu mâu thuẫn,
hoặc việc sử dụng các phương pháp phân
tích sai lệch.
(12) Đối phó với việc thực hiện nghiên
cứu thiếu trách nhiệm: Các viện nghiên cứu
cũng như các tạp chí, các tổ chức và các cơ
quan thực hiện nghiên cứu cần phải có các
thủ tục để đối phó với những cáo buộc về
hành vi sai trái và thiếu trách nhiệm trong
công tác nghiên cứu, đồng thời bảo vệ
những người đứng ra tố cáo các hành vi như
vậy. Một khi hành vi sai trái hoặc việc thực
hiện nghiên cứu thiếu trách nhiệm được xác
nhận, các biện pháp thích hợp phải được

thực thi kịp thời, kể cả việc sửa chữa các hồ
sơ nghiên cứu.
(13) Môi trường nghiên cứu: Tổ chức
nghiên cứu phải tạo ra và duy trì môi trường
đề cao tính trung thực thông qua giáo dục,
chính sách cụ thể, và các chuẩn mực khách

quan nhằm xây dựng môi trường làm việc
đảm bảo tính trung thực trong nghiên cứu.
(14) Trách nhiệm với xã hội: Các nhà
khoa học và tổ chức nghiên cứu cần có đạo
đức trách nhiệm để đem lại lợi ích nhiều
nhất cho xã hội trước những rủi ro vốn có
trong công việc của họ.
Ở góc độ kỹ thuật, các nhà xuất bản
và tạp chí quốc tế lớn đều đặt ra các quy tắc
và quy trình thẩm định nghiêm ngặt, nhiều
cấp, không chỉ để đánh giá chất lượng chuyên
môn mà cả tính liêm chính học thuật của các
công trình nghiên cứu mà họ dự định đăng
tải. Bên cạnh đó, một số nhà xuất bản và
trường đại học lớn của các nước phát triển
đã đề ra những nguyên tắc trích dẫn mà tác
giả và học viên, giảng viên phải tuân thủ khi
xuất bản, công bố kết quả nghiên cứu. Một số
bộ quy tắc đó đã trở thành chuẩn mực chung
cho giới học thuật ở các nước khác trên thế
giới, ví dụ như Bộ quy tắc của Khoa Luật Đại
học Oxford (The Oxford University Standard
for Citation of Legal Authorities,41, Bộ quy

tắc chung của các Tạp chí thuộc bốn trường
đại học uy tín bậc nhất của Mỹ là Harvard,
Columbia, Yale và Pennsylvania (The Blue
Book: A Uniform System of Citation)42, hoặc
Bộ quy tắc của Tạp chí Luật trường Đại học
Chicago (The University of Chicago Manual
of Legal Citation)43.
Trong khi đó, một số tổ chức quốc tế
đã xây dựng những phần mềm giúp phát
hiện gian lận học thuật (chủ yếu là đạo văn).
Đây là những công cụ khá hiệu quả và hữu
ích không chỉ cho các cơ sở học thuật, các
nhà xuất bản, các tạp chí khoa học, mà còn
cho những nhà nghiên cứu, học sinh, sinh

41 Faculty of Law, University of Oxford, The Oxford University Standard for Citation of Legal Authorities, 4th edn, Hart
2012, xem tại < truy cập ngày 3/12/2017 .
42 Thông tin chi tiết về bộ nguyên tắc này có thể tìm thấy ở website chính thức />aspx, truy cập ngày 3/12/2017 .
43 The University of Chicago, The University of Chicago Manual of Legal Citation (2012), xem tại uchicago.edu/sites/lawreview.uchicago.edu/files/uploads/79%20Maroonbook_0.pdf>truy cập ngày 3/12/2017.
Số 6(358) T3/2018

11


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
viên và công chúng trong việc giám sát
việc tuân thủ các tiêu chuẩn liêm chính học
thuật. Tiêu biểu trong số này có Turnitin44,
Plagiarisma45, PlagTracker46, CopyLeaks47,

Plagium48, Quetext49. Mặc dù cấu trúc và
cách sử dụng ít nhiều khác nhau, song nhìn
chung các phần mềm này đều dễ sử dụng,
Công cụ

Ưu

Nhược

PlagTracker

• Xử lý văn bản nhanh (không
giới hạn từ).
• Giao diện dễ sử dụng.
• Đưa báo cáo chi tiết về bài viết
• Có dịch vụ hỗ trợ viết để tránh
đạo văn: thu phí

• Không hỗ trợ tiếng Việt.

CopyLeaks

• Xử lý kể cả nội dung của toàn
bộ trang web.
• Hỗ trợ nhiều dạng tệp ở bất kỳ
ngôn ngữ nào.

• Phải đăng ký tài khoản.
• Sẽ sớm công bố phiên bản
trả tiền.


• Cho phép tải ứng dụng về
miễn phí với máy hệ Windows
để kiểm tra đạo văn.
• Hỗ trợ hơn 190 ngôn ngữ,
trong đó có tiếng Việt

• Chỉ báo đạo văn nếu phát
hiện chính xác tuyệt đối
100% câu.
• Công cụ hỗ trợ viết lại có
thể vô tình tiếp tay cho
việc đạo văn.
• Kể cả đã có tài khoản
cũng chỉ được kiểm tra 3
bài/ ngày.

Plagium

• Dễ sử dụng.
• Xử lý đến 5.000 từ/ lần.

• Bản miễn phí hạn chế tính
năng (ví dụ: chỉ tải tập tin
lên được để kiểm tra khi
đã trả tiền).

Quetext

• Giao diện dễ sử dụng.

• Không giới hạn tính năng.

• Chỉ kiểm tra từng đoạn
được.

Plagiarisma

44
45
46
47
48
49
50

12

có thể chạy trên nhiều ứng dụng và nền tảng
công nghệ thông tin, và có thể giúp phát
hiện khá hiệu quả những sự trùng lặp (dấu
hiệu của đạo văn) trong các tài liệu học thuật
cần kiểm tra. Dưới đây là bảng so sánh ưu,
nhược điểm của các công cụ này đăng trên
trang Vietnam Journal of Science50:

Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017
Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.

Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
Số 6(358) T3/2018


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4. Liêm chính học thuật ở Việt Nam: Thực
trạng và những yêu cầu đặt ra
Giống như các quốc gia khác trên thế
giới, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phải
đối mặt với những vi phạm liêm chính học
thuật. Mặc dù chưa có nghiên cứu chuyên
sâu, toàn diện nào về vấn đề này được thực
hiện ở nước ta, song từ những biểu hiện
trong thực tiễn, có thể nhận định rằng liêm
chính học thuật ở Việt Nam còn ở mức thấp
so với nhiều nước trên thế giới. Điều này
không chỉ thể hiện qua những cáo buộc về
đạo văn khá phổ biến trên Internet, mà còn
qua sự hiện diện công khai của những “chợ
luận văn”51, “chợ luận án”52, “chợ giáo án”53
trên không gian mạng.
Một số cuộc khảo sát ở quy mô nhỏ
cho thấy mức độ gian lận trong học tập của
sinh viên đại học ở Việt Nam rất cao. Ví dụ,
khảo sát gần đây của Trường Đại học Duy
Tân (Đà Nẵng) với sinh viên mới nhập học
(sử dụng câu hỏi: “Bạn từng sao chép nguyên
bản bài viết của các tác giả trên mạng, sách
tham khảo, giáo trình… mà không trích dẫn

chưa?”) cho thấy kết quả chỉ có 16% số sinh
viên được hỏi trả lời chưa54. Khảo sát của
Trường Đại học Hoa Sen thực hiện trên 681
bài luận môn học của sinh viên các ngành
Nhân lực, Du lịch, Tài chính, Kế toán, Kinh
doanh và Marketing cho thấy: “Mức độ
tương đồng của các bài luận này trung bình
là 29% - một tỷ lệ cao so với thế giới”55.
Đối với giới nghiên cứu nước ta, tình
trạng thiếu liêm chính cũng diễn ra rất phổ
biến, một cách vô tình hoặc hữu ý. Việc sao
chép trong các công trình nghiên cứu, kể
cả các đề tài cấp độ cao (cấp nhà nước, cấp
bộ…) trở thành “chấp nhận được” miễn là

không quá lộ liễu. Hành động tạo dựng, bóp
méo số liệu, dữ liệu đầu vào cũng có thể thấy
trong nhiều công trình nghiên cứu lớn, nhỏ.
Tình trạng thiếu liêm chính học thuật
đang tàn phá niềm tin của xã hội vào hệ
thống giáo dục nói chung, vào giới khoa học
nói riêng. Uy tín của các nhà khoa học bị suy
giảm, giá trị của bằng cấp bị hạ thấp. Thiếu
liêm chính học thuật cũng là một nguyên
nhân dẫn đến chất lượng và khả năng ứng
dụng của các công trình nghiên cứu khoa
học, đặc biệt là khoa học xã hội, rất thấp gây nên sự lãng phí lớn về tài sản và ngân
sách trong bối cảnh nguồn lực cho nghiên
cứu khoa học ở nước ta còn thiếu thốn. Cuối
cùng, tình trạng này còn dẫn đến việc các

nhà khoa học Việt Nam khó khăn trong việc
hội nhập vào đời sống học thuật quốc tế vốn đòi hỏi các tiêu chuẩn liêm chính học
thuật rất cao.
Xét tổng quát, tình trạng thiếu liêm
chính học thuật ở Việt Nam cũng bắt nguồn
từ những nguyên nhân phổ biến trên thế giới
mà đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên, ngoại trừ
yếu tố Internet, các nguyên nhân còn lại đều
có phần “trầm trọng” hơn so với nhiều nước
khác. Bên cạnh đó, còn có một số nguyên
nhân đặc thù khác mà có thể nêu dưới đây:
- Liêm chính học thuật chưa được
pháp điển hoá và phổ biến đầy đủ: Hầu như
các chủ thể có trách nhiệm chính trong vấn
đề này ở nước ta đều chưa nhận thấy tầm
quan trọng và có những nỗ lực hiệu quả để
thúc đẩy liêm chính học thuật. Nhà nước, mà
cụ thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo - cơ quan
chủ quản trong lĩnh vực này - chưa ban hành
văn bản pháp luật nào cụ thể về liêm chính
học thuật. Vấn đề liêm chính học thuật mới

51 Nguồn: />52 truy cập ngày
3/12/2017.
53 Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
54 Nguồn: Các trường đại học "bắt tay" chống đạo văn, tại truy cập ngày 3/12/2017
55 Nguồn: Các trường đại học "bắt tay" chống đạo văn, tlđd.
Số 6(358) T3/2018

13



NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
chỉ được đề cập một cách sơ sài trong 1, 2
điều khoản của các quy chế đào tạo thạc sĩ56,
tiến sĩ57 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tình
trạng tương tự cũng xảy ra ở các trường đại
học. Khảo sát những tài liệu công bố trên
trang web của các trường đại học cho thấy,
hầu hết mới chỉ đề cập đến liêm chính học
thuật trong một vài điều khoản của quy chế
đào tạo của trường - mà cơ bản là nhắc lại
quy chế chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong thực tế, mới chỉ có một số trường đại
học, tiêu biểu như Trường Đại học Hoa Sen,
đã ban hành bộ quy tắc riêng về liêm chính
học thuật, trong đó không chỉ bao gồm các
quy tắc về trích dẫn mà cả những quy tắc
để ngăn ngừa những hình thức vi phạm liêm
chính học thuật khác58. Một số trường khác
chỉ ban hành hướng dẫn về việc trích dẫn, ví
dụ như Đại học Quốc gia Hà Nội59.
Ở các trường đại học, việc phổ biến
các quy tắc về liêm chính học thuật thường
được lồng ghép vào môn phương pháp
nghiên cứu khoa học. Môn này thường chỉ
bắt buộc giảng dạy ở các cấp thạc sĩ và tiến
sĩ, không được giảng ở cấp cử nhân. Việc
giảng dạy môn này thường mang tính hình
thức, nặng về lý thuyết, ít bài tập thực hành.

Những hạn chế, bất cập trong việc
pháp điển hoá và giảng dạy như đã nêu trên

dẫn đến hậu quả là hầu hết sinh viên, học
viên, nghiên cứu sinh và giảng viên đại học,
nghiên cứu viên ở các cơ sở nghiên cứu
của Việt Nam hiện nay chưa hiểu biết đầy
đủ và chính xác các yêu cầu và nguyên tắc
của liêm chính học thuật, kể cả những yêu
cầu cơ bản như việc trích dẫn nguồn tài liệu
tham khảo. Việc thiếu các quy định cụ thể
về liêm chính học thuật cũng gây khó khăn
cho việc ngăn ngừa, xử lý sai phạm. Đây có
thể xem là một trong những nguyên nhân
quan trọng nhất dẫn tới tình trạng gian lận
và thiếu trung thực phổ biến trong đời sống
học thuật ở nước ta hiện nay60.
- Liêm chính học thuật chưa được chú
ý đúng mức trong kiểm định, đánh giá sản
phẩm học thuật: Mặc dù đã được đề cập và
gần đây đã được chú ý hơn, song các vấn
đề về tính trung thực trong trích dẫn tài
liệu tham khảo, tính tin cậy của số liệu, dữ
liệu đầu vào… cơ bản vẫn chỉ được xem là
những yếu tố phụ, thường chỉ được nhìn
nhận, đánh giá một cách hình thức, sơ sài
bởi các hội đồng chấm khoá luận, luận văn,
luận án, cũng như các hội đồng nghiệm thu
các công trình nghiên cứu khoa học, kể cả
các công trình nghiên cứu ở cấp độ cao nhất.

Nhiều công trình nghiên cứu có sự tài trợ
nước ngoài hoặc lấy nguồn từ ngân sách nhà

56 Ví dụ, Khoản 2 Điều 26 Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT ngày
15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: “Luận văn phải tuân thủ các quy định hiện hành của pháp
luật sở hữu trí tuệ. Việc sử dụng hoặc trích dẫn kết quả nghiên cứu của người khác hoặc của đồng tác giả phải được dẫn
nguồn đầy đủ, rõ ràng tại vị trí trích dẫn và tại danh mục tài liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu trong luận văn phải là
kết quả lao động của chính tác giả, chưa được người khác công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào”.
57 Ví dụ, Khoản 2 Điều 15 Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ Ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ngày
04/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định luận án tiến sĩ phải: “Tuân thủ pháp luật về bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, cụ thể: a) Trích dẫn đầy đủ và chỉ rõ nguồn tham khảo các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác (nếu
có); b) Trong trường hợp luận án sử dụng nội dung công trình khoa học của tập thể mà nghiên cứu sinh là đồng tác giả
thì phải có văn bản đồng ý của các đồng tác giả khác cho phép nghiên cứu sinh được sử dụng kết quả của nhóm nghiên
cứu; c) Tuân thủ các quy định khác của pháp luật sở hữu trí tuệ”.
58 Nguồn: truy cập ngày 3/12/2017.
59 Đại học Quốc gia Hà Nội, Hướng dẫn số 2383/HD-ĐHQGHN ngày 27/7/2017 về việc thực hiện việc trích dẫn trong
các ấn phẩm khoa học tại Đại học Quốc gia Hà Nội,

xem tại truy cập ngày 3/12/2017.
60 Ví dụ, trong nghiên cứu nêu trên của Trường Đại học Duy Tân, khi hỏi các sinh viên về lý do không ghi trích dẫn khi
sao chép nội dung từ bài viết của tác giả khác, 36% cho rằng mình không biết phương pháp trích dẫn, 12% không nhớ
tác giả là ai, 21% vì áp lực tiến độ, 15% cho rằng: “Không thể viết hay hơn nên phải trích dẫn”, 9% không quan tâm
đến việc trích dẫn... Nguồn: Các trường đại học "bắt tay" chống đạo văn, tlđd.

14

Số 6(358) T3/2018


NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT

nước với kinh phí lớn và rất lớn nhưng việc
nghiệm thu cũng lỏng lẻo, gần như bỏ qua
việc kiểm tra các tiêu chuẩn về liêm chính
học thuật. Trong khi đó, các nhà xuất bản
và tạp chí chuyên ngành cũng còn coi nhẹ
việc xem xét, đánh giá tính trung thực và
tin cậy của các trích dẫn và số liệu, dữ liệu
đầu vào. Bối cảnh đó đã tạo điều kiện cho
những công trình vi phạm các tiêu chuẩn
liêm chính học thuật thoát khỏi “lưới lọc”,
làm trầm trọng thêm thực trạng và tiềm ẩn
gây ra những kiện tụng, tố cáo về “đạo văn”,
“đạo tài liệu” ầm ĩ về sau.
Tình trạng kiểm định, đánh giá tính
liêm chính của sản phẩm học thuật thiếu
chặt chẽ là do nhiều nguyên nhân, trong đó
bao gồm sự thiếu hiểu biết của người thẩm
định; sự nể nang, tính đơn giản, đại khái, có
phần tùy tiện trong cách làm việc của một số
thành viên trong giới học thuật, và cả tình
trạng tham nhũng trong kiểm định, đánh giá
sản phẩm học thuật, đặc biệt là trong việc
nghiệm thu các đề tài nghiên cứu. Thêm vào
đó, bao trùm lên tất cả là việc thiếu các quy
định pháp lý và quy tắc đạo đức nghề nghiệp
ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của những
người tham gia thẩm định, đánh giá, nghiệm
thu các sản phẩm nghiên cứu. Thực tế hiện
nay cho thấy, một công trình nghiên cứu sau
khi đã được nghiệm thu bị phát hiện đạo văn

hay đạo tài liệu thì những người tham gia
chấm, nghiệm thu công trình cũng không
phải chịu trách nhiệm gì.
Điểm sáng là trong thời gian gần đây,
là ngày càng có nhiều trường đại học bắt đầu
áp dụng các phần mềm phổ biến (nêu trên)
để chống đạo văn, ví dụ như Trường Đại
học Hàng hải, Trường Đại học Kinh tế TP.
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Lạc Hồng,

Trường Đại học Hoa Sen, Trường Đại học
Nguyễn Tất Thành, Trường Đại học Kinh
tế thuộc Đại học Huế), Trường Đại học Tôn
Đức Thắng61... Một số trường thậm chí còn
dự kiến tự xây dựng phần mềm riêng của
mình cho việc này, ví dụ như Trường Đại
học Tôn Đức Thắng62... Đặc biệt, đã có sự
liên kết giữa các trường đại học trong việc
thúc đẩy liêm chính học thuật. Lần đầu tiên,
gần 20 trường đại học đã ngồi cùng nhau để
xây dựng một mạng lưới hành động vì liêm
chính học thuật trong Hội nghị “Liêm chính
học thuật” do Trường Đại học Hoa Sen và Tổ
chức Hướng tới Minh bạch phối hợp tổ chức
vào ngày 29/5/2015 tại TP. Hồ Chí Minh63.
Trong Hội nghị này, đại diện các trường đại
học tham gia đã thảo luận về việc thiết lập
và sử dụng một phần mềm chống đạo văn
liên trường64. Mặc dù vậy, các trường đại
học tham gia mạng lưới này còn rất ít, và

đặc biệt còn thiếu vắng những trường đại
học công lập chủ chốt, có truyền thống và
số lượng người học và cán bộ giảng dạy,
nghiên cứu lớn, ví dụ như các Đại học Quốc
gia, Trường Đại học Bách khoa ở Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh.
Để đáp ứng những yêu cầu cấp thiết
mà quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế
đang đặt ra với hoạt động giáo dục, đào tạo
và nghiên cứu khoa học của nước ta, Nhà
nước và các trường đại học, viện nghiên cứu
cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo đảm liêm
chính học tập. Sự quan tâm này cần được thể
hiện thành các hành động cụ thể, trong đó
bao gồm việc hoàn thiện các văn bản pháp
luật có liên quan, bổ sung các văn bản pháp
luật mới, đặc biệt là các quy chế/bộ quy tắc
toàn diện, đầy đủ về liêm chính học thuật.
Cần thống nhất và cụ thể hoá các tiêu chuẩn;
nghiêm cấm và trừng phạt việc mua bán trái

61 Tuoitre Online, Trường đại học ráo riết chống đạo văn, 13/10/2017, tại truy cập ngày 3/12/2017.
62 Tuoitre Online, Trường đại học ráo riết chống đạo văn, tài liệu trên
63 Hội nghị lần thứ hai tổ chức tại Trường Đại học Hàng hải (Hải Phòng) ngày 09/09/2016.
64 Thanhnien Online, Sẽ có phần mềm chống đạo văn liên trường, 30/05/2015, truy cập ngày 3/12/2017.
Số 6(358) T3/2018

15



NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
phép luận văn, luận án và các sản phẩm học
thuật; thắt chặt các quy định về kiểm định,
đánh giá, nghiệm thu các sản phẩm học
thuật, kết hợp với việc tăng cường phổ biến,
giáo dục để bảo đảm tất cả các chủ thể có liên
quan hiểu rõ, có ý thức tôn trọng và biết cách
áp dụng các nguyên tắc và tiêu chuẩn về liêm

chính học thuật, phòng ngừa những sai sót
của bản thân và người khác. Thêm vào đó,
cần khuyến khích các nghiên cứu, trao đổi về
liêm chính học thuật, bao gồm việc xây dựng
các mạng lưới liên kết giữa các trường đại
học và viện nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm đến vấn đề này

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ann Nichols-Casebolts, Research Integrity and Responsible Conduct of Research, Oxford University
Press, 2012.
2. American University, Academic Integrity Code, Mục II khoản 6, tại />integrity/code.cfm.
3. Bộ Giáo dục-Đào tạo, Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ, ban hành kèm theo Thông tư số: 15/2014/TTBGDĐT ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Bộ Giáo dục-Đào tạo, Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ, ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TTBGDĐT ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
5. Các trường đại học "bắt tay" chống đạo văn, tại />6. Donald L. McCabe, Linda Klebe, Kenneth D. Butterfield (2001), “Cheating in Academic Institutions: A
Decade of Research”, ETHICS & BEHAVIOR, 11(3), 219–232.
7. ĐHQG Hà Nội, Hướng dẫn số 2383/HD-ĐHQGHN ngày 27 tháng 7 năm 2017 về việc thực hiện việc trích
dẫn trong các ấn phẩm khoa học tại Đại học Quốc gia Hà Nội, xem tại />VB_HD/19387/huong-dan-thuc-hien-viec-trich-dan-trong-cac-van-ban-khoa-hoc-tai-%C4%91hqghn.
htm?p=2#.WiPN3bT1VE4
8. Đại học Hoa sen, Quy định về liêm chính học thuật (ban hành theo Quyết định số 1741/QĐ-BGH, ngày
28/10/2013 của Hiệu trưởng trường Đại học Hoa sen).

9. Melissa S.Anderson et al, ‘Research Integrity and Misconduct in the Academic Profession’, trong Michael
B. Paulsen (ed), Higher Education: Handbook of Theory and Research (Vol 28, Springer 2013), tr. 217.
10.Trần Kiên-Vũ Công Giao, “Trung thực trong nghiên cứu khoa học”, đăng trong cuốn Phương pháp
nghiên cứu viết luận văn, luận án ngành luật, NXB ĐHQG Hà Nội, 2015.
11.Research Councils UK, RCUK Policy and Guidelines on Governance of Good Research
Conduct
(2013),
/>RCUKPolicyandGuidelinesonGovernanceofGoodResearchPracticeFebruary2013.pdf.
12.Stony Brook University, Academic Integrity: Policies and Procedures, />commcms/academic_integrity/index.html
13.Tienphong Online, Giáo sư Hàn Quốc "giả" nghiên cứu tế bào gốc, , 17/12/2005, tại https://www.
tienphong.vn/cong-nghe-khoa-hoc/giao-su-han-quocnbspgia-nghien-cuu-te-bao-goc-32138.tpo.
14.Tuoitre Online, Trường đại học ráo riết chống đạo văn, 13/10/2017, tại />15.Thanhnien Online, Sẽ có phần mềm chống đạo văn liên trường, 30/05/2015, />16.Tuyên bố Singapore về tính trung thực trong nghiên cứu khoa học, bản dịch của Do Tien Dzung, tại http://
www.singaporestatement.org/translations.html.
17.University of Maryland, Code of Academic Integrity, tại />umd.edu/files/documents/policies/III-100A.pdf
18.University of Oxford, Academic Good Practice – A Practical Guide 6, tại />oxford/field/field_document/Academic%20good%20practice%20a%20practical%20guide.pdf
19.University of Vermont, Code of Academic Integrity, tại />acadintegrity.pdf
20.University of Oxford, The Oxford University Standard for Citation of Legal Authorities, 4th edn, Hart
2012, />21.University of Chicago, The University of Chicago Manual of Legal Citation (2012), https://lawreview.
uchicago.edu/sites/lawreview.uchicago.edu/files/uploads/79%20Maroonbook_0.pdf>

16

Số 6(358) T3/2018



×