Lý thuyết kinh tế về vai trò điều tiết của chính phủ
1.1 Lý thuyết về kích cầu và tổng cầu của Keynes
Thật khó để chính phủ có thể xác định được cần làm gì trong tình trạng nền kinh
tế suy thoái trầm trọng, khó hơn nữa đó là phải thực hiện kích thích kinh tế như thế nào
cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đây là một bài toán khó mà các nhà
lãnh đạo Việt Nam đang gặp phải. Do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (bắt đầu từ
cuối năm 2007) đã tác động lớn tới nền kinh tế Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam
rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình này, chính phủ ta đã đưa ra
một giải pháp cho đất nước đó là thực hiện một gói kích thích khổng lồ (từ 1% - 5%
GDP) trong thời gian ngắn, nhưng vấn đề đặt ra ở đây đó là: sẽ là thiếu thận trọng nếu
không xác định rõ cơ sở kinh tế trên thực tiễn cũng như lý luận cho hoạt động này.
Mặc dù chúng ta đang ở trong một tình trạng khó khăn và cần những
quyết định mạnh mẽ, nhanh và sáng suốt. Nhưng sẽ rất khó để thành công nếu chỉ dựa
trên kinh nghiệm và trào lưu chung của các nước khác như các nước công nghiệp phát
triển và đang phát triển (Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản,Trung Quốc...). Dường như chính
phủ vẫn có một tâm lý bất an về chính sách kích cầu liên tục được viện trợ như một cái
phao cứu hộ. Tuy nhiên chính sách kích cầu của chính phủ thường làm dịch chuyển
những nguồn lực rất lớn trong nền kinh tế, cũng như những hậu quả lâu dài. Nếu thực
hiện đúng thì đây sẽ là liều thuốc hữu hiệu chữa lành căn bệnh cho nền kinh tế Việt
Nam hiện nay, nhưng ngược lại nó cũng có thể gây thương tích và những hậu quả khó
lường lâu dài cho nền kinh tế.
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét nguồn gốc tư tưởng kích cầu và
lý thuyết kích cầu.
1.1.1 Tư tưởng kích cầu
Đầu tiên chúng ta nên dành một chút thời gian để tìm lại gốc gác làm nền tảng
cho nguyên lý kích cầu trong kinh tế vĩ mô.
Quay trở lại thời kỳ trước khủng hoảng kinh tế thế giới thứ 2: Nền kinh tế thế
giới phát triển ổn định nhưng đến năm 1929 nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng
thừa, vấn đề này đã làm cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng lớn và chịu những hậu
quả nghiêm trọng. Nhưng thời kỳ trước cuộc đại khủng hoảng này tư tưởng điều tiết
nền kinh tế vĩ mô vẫn theo hướng lý thuyết kinh tế mà chủ yếu đó là trường phái cổ
điển và tân cổ điển. Nội dung cơ bản của lý thuyết này đó là ủng hộ tư tưởng tự do kinh
doanh, tức là sự điều tiết của cơ chế thị trường sẽ đưa nền kinh tế tới sự cân bằng,
không cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế - Chính tư tưởng này đã không
giúp ích gì cho việc khắc phục khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp mà cuộc đại
khủng hoảng suy thoái 1929-1933 gây ra. Cụ thể là, vào những năm 30 của thế kỷ XX,
ở các nước phương Tây, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên, tình trạng thất
nghiệp nghiêm trọng. Như vậy là lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế
phũ phàng của nền kinh tế Tư Bản Chủ
Nghĩa, đặc biệt là cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã làm tan rã tư
tưởng tự do kinh tế. Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa
sản xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Tình hình này đòi
hỏi phải có sự điều chỉnh của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở các nước Tư Bản
Chủ Nghĩa. Xuất phát từ thực trạng của cuộc khủng hoảng này đã hình thành nên lý
thuyết kinh tế “ Chủ Nghĩa Tư Bản có điều tiết ” ra đời – hay còn gọi là trường phái
Keynes – cần có sự can thiệp của chính phủ vào kinh tế. Bởi nhờ đó chính phủ sẽ sử
dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để làm giảm đi những ảnh hưởng bất lợi
do suy thoái kinh tế hay bùng nổ kinh tế gây ra.
Sau đây là đôi nét giới thiệu về Keynes – người có ảnh hưởng lớn nhất đối với
kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các chính phủ. John
Maynard Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh đã có thành công lớn
trong việc hình thành nền kinh tế học Keynes, có ảnh hưởng lớn tới kinh tế học hiện đại
và chính trị cũng như các chính sách tài chính của nhiều quốc gia. Ông chính là người
khai sinh ra kinh tế học vĩ mô hiện đại. Ông viết nhiều tác phẩm, những tác phẩm chính
của ông là “Tiền tệ và tài chính Ấn Độ” , “Hậu quả kinh tế của hòa ước” năm 1919,
“Thuyết cải cách tiền tệ” năm 1923, “Hậu quả kinh tế của ngài Churchill” năm 1925,
“Thuyết tiền tệ” năm 1930. Trong đó, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là “ Lý thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ ” năm 1936. Tác phẩm này đã khái quát được
tư tưởng tiến bộ của ông về vai trò điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế. Cụ thể là
việc chi tiêu của chính phủ để kích thích nền kinh tế bắt nguồn từ hai giả thuyết quan
trọng của Keynes.
Giả thuyết thứ nhất đó là cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực
sản xuất bị dư thừa. Biểu hiện của tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất
không được sử dụng hết công suất: thất nghiệp trên thị trường lao động, máy móc bị bỏ
bê trong khu vực doanh nghiệp, và hàng hóa thì ế thừa… Hiện tượng dư cung khiến giá
cả có khuynh hướng giảm trên tất cả các thị trường, do đó càng không khuyến khích
được người mua, do vậy cầu càng ở dưới xa cung thực tế. Kết quả là nền kinh tế bị rơi
vào một cái bẫy suy thoái mà khó có thể tự thoát ra được.
Giả thuyết thứ hai, chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu toàn bộ,
thậm chí nhiều hơn thu nhập của mình. Trong khi đó, các ngành, khu vực không phải
chính phủ ( tư nhân, hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp,…) thường chi tiêu ít hơn tổng
thu nhập của họ. Bởi vì, họ có xu hướng để dành ( khuynh hướng tiết kiệm cận biên
MPS>0). Trong điều kiện bình thường, tức là nền kinh tế đang phát triển theo chiều
hướng tốt, thì các khoản tiết kiệm đó được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu
tư, góp phần tạo nên thành phần của tổng cầu. Nhưng trong thời kỳ suy thoái, doanh
nghiệp cũng như các nhà đầu tư vì mục tiêu an toàn, không mạo hiểm họ không muốn
đầu tư thêm nữa vì không có khả năng thu được lợi nhuận.
Xuất phát từ giả thiết thứ nhất, Keynes đã cho rằng nền kinh tế suy thoái vì tạm
thời không có đủ cầu do cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu lực. Do đó bài toán sẽ
được giải quyết nếu xuất hiện một lượng cầu hiệu lực đủ lớn.
Tương tự như vậy, xuất phát từ giả thiết thứ hai của Keynes, rằng chỉ có chính
phủ mới có khả năng chi tiêu vượt mức – dựa trên ý chí của mình, ngay cả khi nền kinh
tế đang suy thoái ( khiến các khu vực khác như các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình,
các nhà đầu tư hoàn toàn thoái chí, không muốn chi tiêu, không muốn đầu tư sản xuất).
Trên cơ sở đó, Keynes đã đề xuất một phương án mà về căn bản theo nguyên lý sau:
Dịch chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay chính phủ nhằm tăng cầu
hiệu lực, đưa nền kinh tế ra khỏi cái bẫy đình đốn do thiếu sức mua. Tóm lại, với quan
điểm trọng cầu, Keynes đã xây dựng nên mô hình kinh tế vĩ mô, trong đó yếu tố trung
tâm là vai trò điều chỉnh, can thiệp của nhà nước thông qua các giải pháp kích cầu để
tác động vào các khuynh hướng tâm lý chung của xã hội: khuynh hướng tiêu dùng,
khuynh hướng tiết kiệm, khuynh hướng ưa chuộng tiền mặt… với mục đích là để chống
đỡ khủng hoảng, thất nghiệp. Đây chính là nền tảng của tư tưởng kích cầu.
Vậy kích cầu chính là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ ( hay còn
gọi là tiêu dùng công cộng ) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tư tưởng này của học thuyết Keynes dần dần trở thành kim chỉ nam cho các
hoạt động kinh tế của các nước trên toàn thế giới. Theo thời gian cùng với một loạt các
công cụ điều hành chính phủ khác, nó đã trở thành phương tiện cơ bản của các chính
sách can thiệp, và là phương án tối ưu cho các nước trong điều kiện nền kinh tế suy
thoái rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện là lý thuyết của Keynes đã có ảnh hưởng sâu rộng
trong hệ tư tưởng của kinh tế tư sản và được vận dụng một cách rộng rãi ở nhiều nước
Tư Bản phương Tây và ở Mỹ trong những năm 40, 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ
XX. Tuy nhiên, đến đầu thập niên 60 của thế kỷ 20 Milton Freidman – một nhà lý
thuyết kinh tế Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất trong nửa sau thế kỷ 20. Nếu nói học thuyết
Keynes là một cuộc cải cách lớn lao của kinh tế học. Và đương nhiên nó được tiếp nối
bằng một cuộc chống cải cách, trong thời gian này một số nhà kinh tế đã đóng vai trò
quan trọng trong việc phục hồi kinh tế học cổ điển trong giai đoạn từ năm 1950-2000,
nhưng không ai có ảnh hưởng lớn như Freidman (Theo thời đại mới số 10/tháng 3/ năm
2007). Ông được đánh giá cao như vậy bởi những tư tưởng mới mẻ của ông, ông nhận
diện được nhược điểm của trường phái Keynes. Điều này thể hiện rõ nét ở lời nhận xét
mà ông đưa ra năm 1962 trong một tác phẩm kinh điển bảo vệ nền kinh tế thị trường,
rằng các chính sách này đều biến thái theo chiều hướng đơn giản hóa. Tùy tiện và bị
lạm dụng, theo một phiên bản “ phân tích kiểu Keynes thô sơ ”( Freidman 1962, trang
79, xuất bản năm 2002). Qua đó chi tiêu chính phủ luôn được coi là phương tiện cứu
rỗi, mà không còn cân nhắc nhiều đến thực trạng nền kinh tế mà trong đó là những giả
thuyết đầu tiên được xác lập. Đây là cách nhìn nhận đúng đắn của Friedman. Bởi ông
đã có cách nhìn đúng đắn vào thực tế.
Thật vậy, trên thực tế việc tăng chi tiêu chính phủ với mục tiêu là cứu nguy nền
kinh tế đã mang lại nhiều thuận lợi cho chính phủ, đó là: bành trướng ngân sách, từ đó
củng cố và phát huy sức mạnh và quyền lực chính trị của chính phủ. Không những thế
chính phủ không phải thực hiện những cải cách mà rất có thể đó là những bước đi sai
lầm sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và bản thân chính phủ và giới quan
liêu như thể chế, luật pháp. Tăng chi tiêu chính phủ còn được lòng dân chúng vì nó giữ
cho giá nguồn lực ở mức cao ( tiền lương lao động và lãi suất được duy trì ). Và một
điều quan trọng là tính hiệu quả kinh tế của các khoản chi tiêu đó sẽ lan tỏa hiệu ứng số
nhân nổi tiếng của Keynes chứ không phải bản thân đối tượng được chi tiêu.
Xét tới các trường phái kinh tế không ủng hộ tính hiệu quả của thị trường cho
rằng chính sách kiểu Keynes có thể làm giảm cơn đau của nền kinh tế đang suy thoái về
mặt xã hội, nhưng đổi lại, nó kéo dài thời gian hồi phục nền kinh tế. Lập luận này cũng
dựa trên những kinh nghiệm từ cuộc đại suy thoái 1929-1933, nhưng diễn giải dưới một
góc nhìn khác. Họ cho rằng việc thắt chặt tiền tệ quá lâu của cục dự trữ liên bang Mỹ đã
khiến lãi suất bị giữ ở mức cao. Thứ hai, các chuơng trình cứu trợ xã hội to lớn thời đó
đã khiến tiền lương bị giữ ở mức cao tương đối, khiến các doanh nghiệp thời kỳ suy
thoái rất khó tiếp cận nguồn lao động rẻ để phục hồi sản xuất.
Đây là thực tế mà các nước đã phải trải qua, chính phủ và những nhà điều
hành đất nước phải lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho mình. Từ đó các chính phủ hiện
đại đều sử dụng chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm lãi
suất trong các giải pháp chống suy thoái. Tuy nhiên, các chương trình an sinh xã hội và
sức mạnh của công đoàn ít khi làm giá lao động giảm đáng kể. Đây là một đánh đổi trên
thực tiễn: nỗi đau được xoa dịu thì buộc phải kéo dài.
Trên đây là toàn bộ nguồn gốc cho tư tưởng kích cầu của các chính phủ khi đất
nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kể từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 tới
nay.
1.1.2 Khái niệm kích cầu
Vậy kích cầu được hiểu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ ( hay
còn gọi là tiêu dùng công cộng ) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai.
Kích cầu chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy.
Trong hai loại biện pháp này, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích
tổng cầu cao hơn.
Nguyên tắc kích cầu: Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích
cầu có hiệu quả thì việc thực hiện nó phải đảm bảo 3 nguyên tắc:
1. Đúng lúc (kịp thời – timely)
2. Trúng đích (đúng đối tượng – targeted)
3. Vừa đủ (ngắn hạn - temporary)
Để áp dụng biện pháp này đạt được hiệu quả cao nhất thì chính phủ các nước và
các nhà lãnh đạo phải chú ý thực hiện theo đúng 3 nguyên tắc nói trên.
Phần tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu lý thuyết về tổng cầu và kích cầu.
1.2 Lý thuyết về tổng cầu và kích cầu
1.2.1 Chính sách tài khóa
Như chúng ta thấy, trước sự suy thoái của nền kinh tế, biện pháp mà được hầu
hết các chính phủ các nước sử dụng đó là chính sách tài khóa mở rộng: tăng chi, giảm
thu với mục tiêu cuối cùng là đưa sản lượng về mức sản lượng tiềm năng.
Trước khi tìm hiểu về vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem tổng cầu là gì? chính
sách tài khóa là gì? Tại sao và khi nào chính phủ chúng ta sẽ áp dụng phương pháp đó.
Theo định nghĩa trong sách giáo trình kinh tế vĩ mô (NXB Giáo dục – 2000 của Việt
Nam hiện nay, trang 79) thì “ tổng cầu là toàn bộ số lượng hàng hóa, dịch vụ mà các hộ
gia đình và các doanh nghiệp dự kiến chi tiêu, tương ứng với mức chi tiêu của họ”. Còn
“chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công cộng để điều
tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế ”. Nguyên lý thì như vậy, nhưng chúng ta phải
áp dụng thế nào cho phù hợp và đạt được kết quả cao nhất, đó chính là câu hỏi khó nhất
mà các nhà lãnh đạo các nước gặp phải. Và họ phải nghiên cứu để đưa ra các phương
án giải quyết phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế thị trường. Sau đây,
chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể lý thuyết này trong nền kinh tế.
Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng cũng không
muốn chi tiêu thêm nữa. Lúc này tổng cầu ở mức rất thấp. Trong hoàn cảnh này để mở
rộng tổng cầu chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, nâng cao mức chi tiêu chung
của nền kinh tế làm cho sản lượng tăng thêm và mức việc làm có thể đầy đủ có thể
được khôi phục.
Xét trên mô hình kinh tế, với: AD là đường tổng cầu
Y là mức sản lượng
P là mức giá
Mức sản lượng Y
1
– tương ứng với đường tổng cầu AD
1
Mức sản lượng Y
0
– tương ứng với đường tổng cầu AD
0
– Đây là mức sản lượng
tiềm năng trên thị trường cân bằng, tức là cung = cầu.
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, mức sản lượng trên
thị trường lúc này là Y
1
< Y
0
.
Y
P
P0
P1
y
1
y
0
E
0
AS
E1
AD
AD
0
Nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thoái với mức cung < mức cầu, điều này
làm cho giá cả hàng hóa tăng lên cao dẫn tới áp lực suy thoái đang đe dọa tới nền kinh
tế và nó đòi hỏi chính phủ phải ra tay hành động để làm tăng tổng cầu thông qua tăng
chi tiêu chính phủ, tăng mua sắm hàng hóa, dịch vụ hoặc giảm thuế. Nếu làm được điều
này thì đường tổng cầu AD
1
sẽ dịch dần lên trên, và khi AD
1
tiến đến AD tức là Y
1
dần
tới Y*, sản lượng thực tế sẽ bằng sản lượng tiềm năng. Lúc này thị trường ổn định, thất
nghiệp sẽ giảm và điều tất nhiên là tỉ lệ thất nghiệp thực tế sẽ trở về với tỉ lệ thất nghiệp
tự nhiên. Như vậy là vấn đề đã được giải quyết.
Y
P
P
2
P
0
y
0
y
2
AS
AD2
AD
0
0
Nhưng trên thực tế, khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng cần
lưu ý đó là: Khi AD
1
tiến đến AD thì chính phủ phải dừng thực hiện chính sách này
ngay vì nếu tiếp tục thực hiện thì đường cầu AD
1
sẽ dần tiến tới AD
2
, khi đó Y
1
tiến tới
Y
2
> Y*. Trong trường hợp này, mức sản lượng thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm
năng, nền kinh tế bị áp lực cao của lạm phát. Biện pháp áp dụng để giải quyết vấn đề
mà các chính phủ đã sử dụng đó là: giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu
chung giảm đi, sản lượng sẽ giảm theo và lạm phát chững lại.
Theo lý thuyết trên chúng ta thấy rằng nền kinh tế luôn biến động và ít khi ở
trạng thái hoàn hảo ( cung = cầu ). Do vậy, chính phủ phải tác động vào nền kinh tế
bằng các chính sách của mình để điều chỉnh nó cho phù hợp và đạt hiệu quả tối ưu.
Xét trong mô hình nền kinh tế giản đơn như trong lý thuyết của Keynes thì chính
sách tài khóa có thể là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên trong
thực tế, chính sách tài khóa không có đủ sức mạnh đến như vậy, đặc biệt là trong nền
kinh tế hiện đại. Do đó mà các nền kinh tế thị trường luôn không ổn định, chu kỳ kinh
doanh chưa được khắc phục hoàn toàn. Trước khi nghiên cứu những vấn đề áp dụng
chính sách tài khóa trong thực tiễn, chúng ta cùng xem xet một cơ chế đặc biệt của
chính sách này. Đó là cơ chế ổn định tự động.
Thật vậy, hệ thống tài chính hiện đại có những yếu tố tự ổn định mạnh mẽ, đó là:
Những thay đổi tự động về thuế. Hệ thống thuế hiện đại bao gồm thuế thu nhập lũy tiến
với thu nhập cá nhân và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi thu nhập quốc dân tăng lên, số
thu về thuế tăng theo, và ngược lại khi thu nhập giảm, thuế giảm ngay mặc dù Quốc hội
chưa kịp điều chỉnh thuế suất. Vì vậy, hệ thống thuế có vai trò như là một bộ tự ổn định
tự động nhanh và mạnh.
Yếu tố thứ hai sau tự ổn định sau thuế chính là hệ thống bảo hiểm. Bởi trong quá
trình sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội, cải tạo và chinh phục tự nhiên, dù có tri thức
ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn với khả năng xảy ra tai họa từ
nhiều phía, do chính bản thân con người, do những phương tiện thiết bị của con người
tạo ra. Trước mối đe dọa thường ngày như vậy, các cá nhân, doanh nghiệp có thể thực
hiện biện pháp tự bảo hiểm, nhưng tự bảo hiểm là biện pháp hiệu quả thấp và không
kinh tế. Do vậy tổ chức và cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm và sử dụng nó để chia sẻ
khi rủi ro xảy ra thông qua hoạt động của các công ty bảo hiểm. Trong nền kinh tế hiện
nay, hệ thống bảo hiểm bao gồm bảo hiểm thất nghiệp và các chuyển khoản mang tính
chất xã hội khác. Hệ thống này hoạt động khá nhạy cảm.