Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Đề Tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện nay"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.35 KB, 39 trang )













Luận văn


Thực trạng và giải pháp phát triển
DNNN ở Việt Nam hiện nay
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

1
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý
luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay
đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa
nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước,
đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng
được đổi mới.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng


ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn
đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn
lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả
về nhận thức lý luận và thực tiễn.
Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định
trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế
nhà nước thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí
đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta
hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh
tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng
động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên
nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh
nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể
hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất
yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý. Em
chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện
nay" để viết bài đề án Kinh tế chính trị.


§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

2


CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

I / TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN

1. Định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước ( DNNN )
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức
kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động
kinh doanh hoặc công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do
nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi
doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ phận chủ yếu của khu vực kinh tế nhà
nước – một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội của nhà nước
2. Các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước
- Xét theo lĩnh vực hoạt động: Hoạt động trực tiếp trong sản xuất kinh
doanh hàng hoá dịch vụ và hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất xã hội
- Xét về hình thức tổ chức: Khu vực KTNN bao gồm nhiều bộ phận hoạt
động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi
bộ phận có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện vai
trò chủ đạo của khu vực KTNN ở một mức độ nhất định. Cụ thể như sau:
Ngân sách nhà nước:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có
nhiệm vụ điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực KTNN
và các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác
dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc
biệt là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế
xã hội
Kho bạc nhà nước: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước đồng thời kiểm soát quá trình thu chi ngân sách
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

3
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo
đảm cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực

lượng vật chất để nhà nước điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trường, đảm bảo
ổn định kinh tế xã hội
Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như DNNN trong
cung ứng một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành
chính công
Hệ thống DNNN: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu vực KTNN.
Để được gọi là một DNNN thì cần phải có ba điều kiện
Thứ nhất: nhà nước là cổ đông chính, có thể nhà nước sở hữu 100% vốn,
sở hữu cổ phần chi phối ( trên 51 % ) hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt ( cổ phần
quy định quyền quản lý của nhà nước )
Thứ hai: doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để
bán
Thứ ba: Có hoạch toán lỗi lãi
Nếu thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp tư nhân và thiếu điều kiện
hai và ba thì đó không phải là doanh nghiệp mà là cơ quan nhà nước
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN
3.1 Sự cần thiết của DNNN
Nhìn lại quá trình lịch sử, chúng ta đi lên từ cơ sở vật chất, kỹ thuật rất
nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối trầm trọng, lực lượng thù địch
bao vây cấm vận kinh tế triệt để. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã xây dựng
một nền kinh tế độc lập, tự chủ bằng biện pháp huy động nguồn lực lớn của
đất nước và viện trợ quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
kinh tế quốc dân dưới hình thức DNNN làm nòng cốt, cùng với khu vực
kinh tế hợp tác xã làm nền tảng đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Thực
tiễn đã chứng minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không phát
triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để xây dựng hậu phương vững
mạnh, giải quyết hậu cần tại chỗ thì không thể huy động tổng lực của dân
tộc, chi viện cho tiền tuyến để tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Sau khi thống
nhất đất nước nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh bao vây cấm vận
kinh tế của đế quốc Mỹ, sự duy trì quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu,

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

4
bao cấp trong điều xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống
XHCN. Đại hội VI đã đề ra chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó đến nay kiên trì với chủ trương này nền kinh tế của nước ta
đã phát triển khá cao trong nhiều năm và thoát khỏi khủng hoảng đảm bảo
được những cân đối lớn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn
định chính trị xã hội tạo thế và lực mới để tiếp tục đưa sự nghiệp mới đi lên
Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của DNNN
hiện nay rõ ràng là DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế nước ta, thể hiện trên những nét chủ yếu sau:
- DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước, nắm toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết
mạch, hầu hết các doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành
xây dựng ( về giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp và dân dụng ), cơ khí chế
tạo máy, luyện kim, xi măng, điện tử, hoá chất, điện dầu khí, thông tin liên
lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ô tô ... , sản xuất hàng
công nghệ tiêu dùng, chế biến nông thuỷ, hải sản, nắm giữ một tỉ lệ quan
trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại nhập khẩu chiếm
thị phần áp đảo trong huy đọng vốn và cho vay
Phần của DNNN trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992 là 40.12%, năm
1996 là 39.9%, năm 1998 là 41.2%, năm 1999 là 40.2%, năm 2000 là
39.5%. Cụthể trọng phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghệ
khai thác, trên 60% công nghệ chế biến, trên 90%công nghệ điện – gas– dầu
khí – cung cấp nước, trên 82% vận chuyển hàng hoá, 50% vận hành khách,
chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản xuất phân bón hoá học 99.8%, thuốc trừ
sâu 93.6%, axít sunfuric và xút 100%, lốp ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin

100%, chế tạo động cơ điezel loại nhỏ 100%, 85% năng lực kéo sợi, 50%
năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng dưới 50% năng lực may
mặc, giầy dép, chiếm tỷ trọng 70% bán buôn, 20% bán lẻ. Hệ thống các
ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỷ phần áp đảo trong huy động vốn
chiếm 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế Các
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

5
DNNN đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định
giá cả, chống lạm pháp, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị
trường
DNNN chiếm một phần rất quan trọng trong xuất nhập khẩu, trong đó
DNNN giữ tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế xuất khẩu, riêng công nghiệp
năm 1999 đã xuất khẩu được 6.17 tỷ USD ( chủ yếu do các DNNN ), chiếm
54% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, tổng công ty lương
thực miền nam xuất khẩu gạo chiếm 60-70% so với cả nước.
Đóng góp nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước năm
1999 thuế thu từ DNNN ( thuế VAT , thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền sử
dụng vốn ) chiếm 39.25%, riêng 17 TCT năm 1999 nộp ngân sách nhà nước
23478 tỷ đồng, tăng 20.7% so với năm 1998. Năm 2000 DNNN chiếm
39.2% tổng thu ngân sách cả nước
Trong khi nhà nước không đủ vốn ngân sách, cấp vốn lưu động cho kinh
doanh của DNNN theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình
thành vốn tự bổ xung, năng động tìm vốn bên ngoài bao gồm vốn vay của tổ
chức tín dụng và vay của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn tự tích
luỹ, tự bổ xung chiếm 27.8% tổng vốn nhà nước của DNNN đến cuối năm
2000, vốn tự bổ xung của 17 TCT là 18038 tỷ đồng, chiếm 2205% tổng số
vốn nhà nước của TCT 91
Trong lúc các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là
đối tác chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài, đồng thời DNNN cũng

thực hiện hạ tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn
trong nước và ngoaì nước đầu tư
DNNN đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong nhân tố có tầm
quan trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, hàng
hoá, chuyển từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm
chất lượng ngày một cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông
qua việc xây dựng các công trình thuỷ lợi cung cấp điện, xây dựng các
đường giao thông huyết mạch, cung cấp giống cây trồng, con, chuyển giao
kỹ thuật và bước đầu phát triển công nghệ chế biến. Một số nông, lâm
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

6
trường đã phát huy được vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, chuyển giao
công nghệ trên địa bàn.
Điển hình như trường Sông Hậu trả lương cho 130 giáo viên và xây dựng
cơ sở trường lớp cho 3000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học, công ty chè
Mộc Châu hàng năm đầu tư 100 triệu để sửa chữa và xây mới trường học,
nhà trẻ, mẫu giáo, cải tạo 705 km đường giao thông liên bản, tổng công ty
cà phê từ năm 1996 đén nay dã đàu tư hàng 100 tỷ để xây dựng 100 km
đường giao thông ( có 25 km đường nhựa ), 150 km đường điện trung hạ
thế, 50000 m
2
trường học, 20000 m
2
nhà trẻ mẫu giáo, làm mới và nâng cấp
58 hồ, đập
Hỗ trợ cho sự phát triển các vùng miền núi và các vùng xa, vùng sâu. ở
đó hiệu quả đầu tư kinh doanh thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều rủi ro
kinh doanh nhưng lại là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của quốc
gia và thực hiện các chính sách dân tộc của đảng

Khu vực DNNN nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ
phận quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ
lãnh đạo ưu tú, trung kiên cho đảng nhà nước và quân đội
DNNN cũng thức sự đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương: uống
nước nhớ nguồn, xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả cảu những vùng bị
thiên tai, cứu trợ xã hội, tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện, nhường
cơm xẻ áo
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN
Tại hội nghị thứ ba ban chấp hành trung ương đảng khoá IX đồng chí
bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu bế nạc hội nghị, trong đó đồng
chí tổng bí thư đã nêu lên tâm quan trọng của DNNN và sự đổi mới DNNN
trong tình hình nước ta hiện nay.
Tại hội nghị trung ưong đã dành phàn lớn thời gian để thảo luận và thông
qua nghị quyết: “ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
của DNNN”. Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của
đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát
triển kinh tế xã hội trong thời mới. Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng
định “ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

7
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc. KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất
lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Hội nghị trung ương
lần này bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm
DNNN có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao

hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đề án và tờ trình của
Bộ chính trị, trung ương đã tập trung thảo luận về đánh giá hoạt động của
DNNN trong những năm đổi mới, xác định quan điểm chỉ đạo, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN. Bộ chính trị đã trình bầy ý kiến tiếp thu những vấn đề mà đại đa số
các đại biểu đã nêu. Trong quá trình đổi mới đảng ta chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy sức mạnh của toàn dân tộc
phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài
trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính sách
đó trung ương có trách nhiệm xây dựng phương hướng, nội dung, giải pháp
cụ thể của từng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội
đảng. Trung ương bàn việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả DNNN là để góp phần bảo đảm cho KTNN giữ vững vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát
triển các thành phần kinh tế khác. Chúng ta đã có nhiều chủ trương tạo thuận
lợi cho các loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển trong khuôn khổ luật
pháp giúp các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp cận thị trường trong nước
và thế giới chuẩn bị cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình chủ động
hội nhập có hiệu quả kinh tế quốc tế. Sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

8
các chính sách nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kt theo đường
lối của đảng
Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là việc mà
ban chấp hành trung ương nhiều khoá đã quan tâm, được tiến hành ngay từ
thời kỳ đổi mới và nhất là trong 10 năm qua. Đánh giá những việc làm được

cũng như chưa làm được còn có những ý kiến khác nhau nhưng chủ yếu là
khác nhau về múc độ vì trong thực tế còn có những yếu tố chưa được xem
xét đầy đủ, tuy nhiên khi đánh giá cần dựa trên quan điểm lịch sử, xét tới bối
cảnh thế giới, trong nước hơn 10 năm qua và hiệu quả kinh tế chính trị, xã
hội, để nhìn nhận đúng mức vai trò và sự đóng góp của DNNN trong thời kỳ
đổi mới. Trong thời gian qua chúng ta đã hoàn thành khung pháp lý tương
đối cơ bản để chuyển DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, xác lập dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
sản xuất kinh doanh xoá dần bao cấp, bảo đảm các chính sách xã hội trong
quá trình sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Nhiều
DNNN đã đứng vững trước những thử thách to lớn, từng bước được sắp xếp,
đổi mới, phát triển ngày càng thích ứng hơn trong quá trình chuyển sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, số doanh nghiệp làm ăn có lãi,
có tích luỹ tăng lên, nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực cả về vai
trò cơ cấu năng lực và hiệu quả. Đồng thời trung ương cũng đã chỉ ra những
mặt tồn tại như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, các yếu tố cuỉa thị
trường hình thành chưa đồng bộ, cơ chế quản lý vĩ mô còn những điểm chưa
phù hợp, DNNN chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ, thực hiện
hoạch toán kinh doanh, chưa sử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của doanh
nghiệp, chưa tạo được động lực mạnh mẽ và xác định động lực rõ ràng để
DNNN hoạt động năng động, có hiệu quả ngày càng cao, hiệu quả hoạt động
còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự đàu tư của nhà nước,
cồn nhiều DNNN thua lỗ, công nợ nặng nề, phần lớn công nghệ lạc hậu, lao
động dôi dư còn nhiều, vai trò lãnh đạo của đảng chưa ngang tầm và còn yếu
kém, sự yếu kém của không ít DNNN do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên
nhân chủ quan và khách quan, nhận rõ những yếu kém là để quyết tâm sắp
xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Chúng ta không thể chấp nhận
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

9

quan điểm coi trọng DNNN thì “tất yếu dẫn tới kém hiệu quả” như một số ý
kiến nêu lên ở nơi này nơi khác. Những ý kiến như thế xuất phát từ định
kiến, thiếu khách quan sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của DNNN, không quan
tâm tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả của DNNN
Như đã trình bày ở trên việc tiếp tục, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu
quả DNNN là vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết
có nhiều nội dung đề cập các vấn đề sắp xếp, hoàn thiện hơn nữa tổ chức và
quản lý, xác định những việc cần phải làm để tạo động lực mới cho DNNN,
đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục
đổi mới và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN. Mỗi nội dung đều
cụ thể hoá các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đã ghi trong nghị quyết
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng; nhưng vì là vấn đề lớn về
chính trị cho nên nghị quyết đã nêu những quan điểm chỉ đạo. Các quan
điểm chỉ đạo đó phải được quán triệt trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Trung ương khẳng định tư tưởng của nghị
quyết đại hội IX, xác định vai trò chủ đạo của KTNN, xác định DNNN là
lực lượng nòng cốt của KTNN, giữ vị trí thên chốt trong nền kinh tế, là công
cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. KTNN, DNNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
Vì vậy DNNN phải không ngừng được sắp xếp, đổimới, phát triển, có trình
độ công nghệ và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả. Trên cơ
sở các quan điểm đó mà thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu DNNN, chuyển
các DNNN sang thực sự kinh doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh và hợp tác với các
doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác
Đã là doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi
mới, phát triển các DNNN đều hướng tới nâng cao hiệu quả, vì có hiệu quả
mới có thể nêu gương, hướng dẫn và góp phần tăng tiềm lực KTNN để giữ
vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, và một nền kinh tế

định hướng xã hội chủ nghĩa phải được xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội
tổng thể hướng tới mục tiêu của CNXH
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

10
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề rất hệ
trọng trong đường lối phát triển kinh tế, đồng thời rất nhạy cảm về chính trị,
liên quan tới sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quá trình
nhà nước thực hiện có nhiều vấn đề mới đặt ra. Do đó vừa phải tiến hành
đồng bộ, khẩn trương nhưng vẫn phải vững chắc, có chương trình, kế hoạch
cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, bước đi phù hợp, vừa làm vừa tìm tòi, rút
kinh nghiệm, boả đảm ổn định và phát triển. Việc gì đã rõ, đã có nghị quyết
thì phải triển khai thực hiện kiên quyết khẩn trương. Vấn đề gì chưa đủ rõ thì
phải tiếp tục nghiên cứu; tổ chức làm thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm
để có bước đi thích hợp, vừa tích cực vừa vững chắc, phù hợp với luật pháp.
Đó là tinh thân của các giải pháp trong nghị quyết. Vì là việc rất hệ trọng
cho nên các cấp uỷ đảng phải tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện,
kịp thời phát huy ưư điểm, uốn nắn các lệnh lạc. Cùng với các quá trình trên
phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình tổ chức đảng, tổ
chức công đoàn và các đoàn thể chính trị trong các loại hình DNNN. Đặc coi
trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp giỏi, có phẩm chất và năng lực, nghiệp vụ vững vàng; đội ngũ cán bộ
kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao; chú trong chăm sóc đời sống công nhân
và phát huy quyền làm chủ của công nhân trong các doanh nghiệp. Trong
quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, các cấp uỷ đảng phải hết sức quan
tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra, không để khó khăn cho người lao
động và doanh nghiệp
Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu ký tưỏng của đảng ta. Mục tiêu
đó không chỉ thể hiện trong phương hướng cơ bản mà còn thể hiện trong
những chủ trương, việc làm cụ thể. Đại hội IX của đảng đã thông qua kế

hoạch 5 năm, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển và trong 20 năm về cơ bản đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh
Đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong những năm đầu
của thế kỷ XXI đã được đại hội xác định. Ban chấp hành trung ương được
đại hội tín nhiệm bầu ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt nhất nghị
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

11
quyết đại hội; trên cơ sở thống nhất nhận thức để đi đến hành động thống
nhất, lời nói đi đôi với việc làm, kết hợp thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
lâu dài với những việc cụ thể, trước mắt giành thắng lợi cho từng năm theo
mục tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra. Từ nay đến cuối năm phải tập trung hết sức
thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm 2001, năm mở đầu thực hiện
nghị quyết đại hội đảng, vì bên cạnh những thuận lợi đang có không ít khó
khăn và nhiều vấn đề mới phải giải quyết, đồng thời cần theo dõi chặt chẽ,
quan tâm việc phòng chống thiên tai. Triển khai ngay việc thực hiện chỉ thị
của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây, chỉnh đốn đảng
gắn liền với cải cách hành chính nhà nước, triển khai và thực hiện đồng bộ
các giải pháp chống tham nhũng đang nổi lên với tinh thân thẳng thắn, công
minh, để người có khuyết điểm phải được phê bình, chịu kỷ luật, người có
tội phải bị sử tội, bất kể họ là ai; giải quyết những bức xúc về các tệ nạn xã
hội, các sản phẩm văn hoá đồi truỵ đang lan tràn ngoài xã hội ... Đó là những
việc trước mắt cần thực hiện tốt, kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển, đời sống
nhân dân được cải thiện, nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội được đẩy lùi
một bước ... sẽ tạo đà phấn khởi trong xã hội, thể hiện trách nhiệm của ban
chấp hành trung ương đối với toàn đảng và toàn xã hội .
II. Vai trò then chốt của DNNN
Lực lượng DNNN hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP

của nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế.
DNNN đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín
dụng. Nhìn chung lực lượng DNNN đang là lực lượng then chốt trong các
ngành kinh tế quan trọng của đất nước, cá biệt có một số ngành có vị trí độc
quyền kinh doanh. Từ năm 1995 hàng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28%
nguồn thu thuế trong nước, nếu tính cả các khoản thu thuế và phí được thu
thôngqua DNNN thì đóng góp khỏng 60% các nguồn thu thuế và phí được
thu thông qua DNNN. DNNN đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động
trong các ngành phi nông nghiệp. Mức tăng trưởng hàng năm của DNNN
xấp xỉ mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài quốc doanh
trong nước. Tóm lại: nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào GDP và
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

12
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách nhà nước thì
DNNN vẫn có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.







CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I / QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DNNN
Ở nước ta, quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế nói
chung và đổi mới DNNN luôn là khâu trung tâm của đổi mới kinh tế. Đổi

mới DNNN bao gồm hai mặt: mặt thứ nhất chủ gồm đổi mới cơ chế quản lý
đối với DNNN ( quan hệ quản lý nhà nước – doanh nghiệp, mức độ, hình
thức phân quyền, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trên các mặt như kế
hoạch, tài chính, thị trường, đầu tư, sử dụng lao động ...). Mặt thứ hai liên
quan đến sắp xếp tổ chức lại các DNNN ( sáp nhập, chia, tách, cổ phần hoá,
đa dạng hóa sở hữu, thành lập tổng công ty ... ). Trong các đợt, giai đoạn,
thời kỳ khác nhau của quá trình đổi mới, do các yếu tố khách quan và chủ
quan quy định, việc đổi mới DNNN được tiến hành đồng thời kết hợp hai
mặt nêu trên hoặc chỉ thiên về một mặt nào đó .
Từ năm 1979, DNNN ở Việt nam mới thực sự được coi như một đối
tượng đổi mới. Những bước tổ chức sắo xếp, phát triển DNNN trước năm
1979 về cơ bản chỉ là những biện pháp có tính chất hành chính trong bố trí,
sắp xếp, phân bổ các DNNN giữa các bộ, các địa phương và các liên hiệp xí
nghiệp, do đó chúng chỉ được coi là những biện pháp cải tiến quản lý trong
mô hình kế hoạch hoá tập trung mang tính chất bao cấp, thu đủ, chi đủ, phù
hợp với cơ chế quản lý và mô hình kinh tế cũ. Do vậy quá trình đổi mới kinh
tế ở nước ta có thể chia thành ba giai đoạn
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

13
1. Giai đoạn 1980 – 1986
Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và
nhà nước về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý
cũ đã tỏ ra kìm hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là
nền kinh tế trì trệ, tụt dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các
DNNN ngày càng xa sút. Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu
khoá IV tháng 9 – 1979 đã ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách
đánh giá tình hình thực tiễn và những yêu cầu bức thiết của xã hội, trong đó
nhấn mạnh phải “ cải tiến chính sách phân phối, lưu thông ( giá, lương, tài
chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban hành các quyết định có liên

quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng như quyết
định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần, quyết định số 26 /CP
tháng 2-1981 về phân phối lưu thông ... Nghị quyết trung ương 6 khoá IV
và quyết định 25/CP là bước tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản lý các
DNNN từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là
các quyết định quan trọng như quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị
quyết 306 ( dự thảo ) của Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-
1986 đều đưa ra những quan điểm và biện pháp đổi mới quản lý DNNN
trong điều kiện cải tiến , cơ chế quản lý nói chung.
Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ
những vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi
trói, giải phóng năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp
khoán trong nông nghiệp, cải cách phân phối lưu thông đã có tác dụng thúc
đẩy sản xuất nói chung, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối
với các DNNN, việc cho phép các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản
xuất theo kế hoạch ba phần đã có ý nghĩa rất quan trọng trong phát huy
sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa các yếu tố thị trường vào cơ chế quản lý
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp giai đoạn này vẫn mang tính nửa
vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ chế song trùng ) dẫn đến hệ
quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi dụng sự rối rắm của cơ
chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức sáng tạo vẫn
chưa thực sự được giải phóng.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

14
2. Giai đoạn 1986 – 1990
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu
bước ngoặt cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nước ta,
trong đó có đổi mới DNNN. Đại hội chỉ rõ: “ phải đổi mới cơ chế quản lý,
bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển

sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong
hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật
để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và
từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích
luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước”. Đại hội VI vẫn tiếp tục khẳng định vai
trò chủ đạo của DNNN nhưng đã đưa ra quan điểm coi chủ đạo không có
nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa phương mà thể
hiện ở “ năng suất, chất lượng, hiệu quả”
Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung
trung tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hướng nhất
quán chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải
phóng sức sản xuất xã hội. Tháng 11 – 1987 Hội đồng Bộ trưởng ( nay là
Chính phủ ) ban hành quyết định 217/HĐBT đánh dấu bước đổi mới cơ bản
DNNN theo hướng áp dụng cơ chế mới. Tiếp theo là các nghị định
50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị định 27/HĐBT ( 3-1989 )
ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã thúc đẩy tiếp quá
trình đổi mới DNNN.
Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bước ngoặt đưa các DNNN
chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường hay gọi là
quá trình thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định
hướng vào thị trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong
các quyết định kinh doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn
này hệ thống quan hệ kế hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế
hoạch gián tiếp, do đó các DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với
9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ
bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh
theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ rất

×