Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH LÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN VÀ LÂU DÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.31 KB, 20 trang )

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH LÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN VÀ
LÂU DÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG CƠ CHẾ
THỊ TRƯỜNG
I. QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh.
Mặc dù có sự thống nhất cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế phản ánh mặt
chất lượng của hoạt động kinh tế , song có rất nhiều quan niệm khác nhau về
hiệu quả kinh tế đứng trên những góc độ nghiên cứu khác nha, trong những
điều kiện lịch sử khác nhau. Có thể kể ra đây một vài đại diện.
Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith cho rằng: “Hiệu quả là kết quả
đạt được trong hoạt động kinh tế , là doanh thu tiêu thụ hàng hóa” ở đây hiệu
quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, quan niệm này không phản ánh được bản chất của kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp vì rằng doanh thu có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng
các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì
theo quan niệm này chúng có cùng hiệu quả.
Có quan điểm khác cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản lượng một loại
hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng
sản xuất của nó”. Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế sao cho tối ưu nhất và không thể có
mức cao hơn. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học khác lại quan điểm rằng:
“Hiệu quả kinh tế là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần
tăng thêm của chi phí kinh doanh”. Quan niệm này đã biểu hiện được mối quan
hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Nhưng quan
niệm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế của phần tăng thêm chứ không
phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất. Hơn nữa xét trên quan
điểm của triết học Mác-Lênin thì sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ ràng
buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Do
đó tồn tại quan niệm “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số kết quả đầu


vào và chi phí bỏ ra để được kết quả đó”. Quan niệm này gắn kết quả với toàn
bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố.
Từ những quan niệm cơ bản trên về hiệu quả kinh tế ta có thể khẳng định
hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn nhân lực, vậtlực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất
trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Hiện nay, thông thường để đánh giá hiệu quả kinh doanh người ta thường
so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình
sản xuất. Nếu gọi H là hiệu quả kinh doanh ta có:
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng, doanh
thu thuần, lợi nhuận thuần … Còn chi phí đầu vào bao gồm lao động, đối tượng
lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Cách đánh giá này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra
để thu được kết quả cao hơn khi H>1. Khi H càng lớn thì chứng tỏ quá trình
sản xuất kinh doanh càng đạt hiệu quả.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng có thể tính bằng cách so sánh nghịch
đảo như sau:
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí đầu vào
Kết quả đầu ra
Công thức này phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nó cho biết
để có được một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí (hoặc
vốn) ở đầu vào.
2. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế.
Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ
VIII nhấn mạnh: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị

trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến
sau, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ”…
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta, vấn đề nâng cao hiệu quả
kinh tế trở thành một vấn đề cấp bách vì:
- Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố
quyết định để chúng ta tham gia vào phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị
trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại quốc
tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm.
- Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hóa
hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác
làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi với
nước ngoài, tạo thêm tích lũy cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần
cải thiện đời sống nhân dân trong nước.
- Hiệu quả kinh tế xã hội mà chủ được thẩm định bởi thị trường chính là
tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng hoạt động kinh doanh thương mại
quốc tế.
Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh
thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã
hội và tăng thu nhập quốc dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích lũy
cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước. Nhưng thực tế xác định một
cách chính xác hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế đối với nền
kinh tế nói chung thường khó khăn, vì tác động của nó phải thông qua nhiều
khu vực, nhiều công đoạn, nhiều tổ chức thực hiện khác nhau và chịu ảnh
hưởng không ít của nhiều yếu tố sản xuất và chi phí sản xuất đan chéo nhau.
Nhưng yếu tố của công tác quản lý và hạch toán lại đòi hỏi phải xác định được
hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế đối với nền kinh tế quốc dân
và của từng doanh nghiệp. Do đó chúng ta sẽ đi nghiên cứu những biểu hiện

khác nhau của hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp thương mại quốc tế qua cách
phân loại hiệu quả kinh tế trong phần tiếp theo đây.
3. Phân loại hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế.
Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả kinh tế của ngành kinh doanh
thương mại quốc tế được biểu hiện ở những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể khác
nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế theo
những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý thương
mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu, mức hiệu quả và xác định những biện
pháp nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế. Có thể phân
hiệu quả kinh tế thành các loại sau:
- Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế – xã hội của nền kinh tế
quốc dân.
* Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động kinh
tế của từng doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt
là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
* Hiệu quả kinh tế xã hội mà kinh doanh thương mại quốc tế đem lại cho
nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc tế vào việc
phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế , tăng năng suất lao động xã hội, tích
lũy ngoại tệ, tăng thu cho Ngân sách, giải quyết việc làm, cải thịên đời sống
nhân dân …
Trong quản lý kinh doanh thương mại quốc tế, các doanh nghiệp không
những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình mà còn phải
tính toán để đạt được hiệu quả của nền kinh tế- xã hội đối với nền kinh tế quốc
dân. Trong chiến lược kinh tế – xã hội đến năm 2000 của nước ta đã xác định
“Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển” Giữa
hiệu quả kinh tế cá biệt với hiệu quả kinh tế – xã hội có mối quan hệ nhân quả
và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên
cơ sở có hiệu quả của các doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể có những doanh
nghiệp xuất nhập khẩu không đảm bảo được hiệu quả (bị lỗ) nhưng nền kinh tế
vẫn thu được hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó

chỉ có thể chấp nhận trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân
khách quan mang lại. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế –
xã hội vì đó chính là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả. Nhưng để doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chung của
nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cũng cần có những chính sách đảm bảo kết hợp
hài hoà giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người
lao động.
- Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là thu được lợi nhuận tối đa. Do
đó, doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để ra quyết định sản xuất cái gì,
sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai với chi phí bao nhiêu.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong
những điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ
tổ chức bà quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm
của mình với một chi phí cá biệt nhất định với mục đích thu được lợi nhuận lớn
nhất.
Suy cho cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội. Nhưng tại mỗi
doanh nghiệp mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phí đó lại được thể hiện
dưới dạng những chi phí cụ thể như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động
sống, chi phí hao mòn máy móc thiết bị, chi phí ngoài sản xuất … Đánh giá
hiệu quả kinh tế hoạt động xuất nhập khẩu không thể không đánh giá hiệu quả
tổng hợp của các loại chi phí trên đây, nhưng cũng cần thiết phải đánh giá hiệu
quả của từng loại chi phí nhằm giúp cho người quản lý tìm được các biện pháp
giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp nhằm tăng lợi nhuận kinh tế.
Nguồn gốc hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế chính là từ kết
quả và chi phí sản xuất trong nước. Khi một nước tham gia vào phân công lao
động quốc tế, có thể phát triển sản xuất hàng hoá với chi phí thấp để đáp ứng
nhu cầu của bản thân và cũng để xuất khẩu. Đồng thời, nước đó có thể nhập
khẩu sản phẩm cần thiết mà việc tự sản xuất tốn kém hơn. Kết quả là nhờ kinh
doanh thương mại quốc tế các chi phí chung (chi phí sản xuất) để sản xuất ra

một khối lượng hàng hoá được sử dụng trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng cá nhân sẽ thấp hơn khi ta bố trí sản xuất chủ yếu bằng sức
lực riêng. Nói cách khác, chi phí sản xuất trong nước là cơ sở của hiệu quả kinh
tế kinh doanh thương mại quốc tế. Như vậy hiệu quả kinh tế kinh doanh thương
mại quốc tế nói chung được tạo thành trên cơ sở hiệu quả của các loại chi phí
cấu thành. Các đơn vị sản xuất kinh doanh là nơi trực tiếp sử dụng các yếu tố
đầu vào và đê sản xuất vì vậy bản thân các đơn vị sản xuất kinh doanh này phải
quan tâm xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên
các yếu tố của quá trình tái sản xuất.
- Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh .
Trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, việc xác định hiệu
quả nhằm hai mục đích cơ bản sau:
Một là: Đánh giá trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình tái
sản xuất kinh doanh.
Hai là: Để phân tích, lý giải về kinh tế các phương án khác nhau trong việc
thực hiện mọi nhiệm vụ của thể nào đó, từ đó lựa chọn một phương án tối ưu.
* Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả tính toán cho từng phương án cụ thể bằng
cách xác định mức lợi thu được với lượng chi phí bỏ ra. Chẳng hạn, tính toán
mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất (giá thành), hoặc từ một
đồng vốn bỏ ra.
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện
một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ sẽ thu được những lợi
ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay
không cho thương vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh, bất kỳ công
việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí, dù với một lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải
tiến hành tính toán hiệu quả tuyệt đối.
* Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là
mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Mục đích chủ yếu của
việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án để từ đó cho

phép lựa chọn một phương án có hiệu quả cao nhất.
Mỗi phương án đòi hỏi một lượng đầu tư vốn, lượng chi phí khác nhau,
thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn đầu tư cũng khác nhau. Vì vậy,
muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao, nhà quản trị không đơn thuần đề ra một
phương án, mà phải vận dụng mọi sử hiểu biết để đưa vào nhiều phương án
khác nhau, rồi so sánh hiệu quả kinh tế của các phương án đó để chọn ra một
phương án có hiệu quả nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong kinh doanh thương mại quốc
tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối.
Việc xác định hiệu quả tuyệt đối là trên cơ sở để xác định hiệu quả so sanh.
Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so
sánh hiệu quả tuyệt đối ấy của các phương án khác nhau. Mức chênh lệch chính
là hiệu quả so sánh.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP.
Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp, nó liên quan tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó
chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết
doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và tác
động đến hiệu quả kinh doanh, nếu không làm được điều này thì doanh nghiệp
không thể biết được hiệu quả hình thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Xác
định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động
là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào.
Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có rất nhiều, nhưng
chúng ta có thể chia làm hai nhóm chính: Nhân tố bên trong doanh nghiệp và
nhân tố ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện
pháp tác động lên các yếu tố một cách hợp lý, có hiệu quả, làm cho doanh
nghiệp ngày càng phát triển tốt hơn, phát huy tốt hơn các nhân tố tích cực và
nâng cao hiệu quả kinh doanh.

1. Nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì nó phải có một hệ thống cơ sở
vật chất, con người, đây chính là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trong
guồn máy hoạt động chung của doanh nghiệp, mỗi nhân tố đóng một vai trò
nhất định, mà thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả hay
ngừng hoạt động. Dưới đây xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu
quả kinh doanh.
1.1. Vốn kinh doanh.
Ngày nay, nói đến kinh doanh thì nhân tố đầu tiên được quan tâm chính là
vốn, đây là yếu tố nền tảng cho một hoạt động kinh doanh bắt đầu. Ngay trong
luật pháp của Việt Nam cũng có quy định điều luật một doanh nghiệp được xã
hội thừa nhận thì phải có số vốn tối thiểu là bao nhiêu. Vì vậy, có thể khẳng
định tầm quan trọng của vốn trong kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện bằng tiền của toàn bộ tài
chính của doanh nghiệp dùng trong kinh doanh, bao gồm:
- Tài sản cố định hữu hình, Nhà của, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, các
thiết bị máy móc …

×