Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận cao học, “quá trình phát triển các quan điểm của đảng lãnh đạo MTTQVN từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.94 KB, 17 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Sự ra đời và phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) và các tổ
chức chính trị - xã hội gắn liền với lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và lịch sử cách
mạng nước ta. Trải qua các giai đoạn cách mạng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội không ngừng lớn mạnh và có vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc,bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, vấn đề Mặt
trận càng có ý nghĩa quan trọng, nó tác động củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, với tính chất là một bộ phận cấu thành của một hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có vai trò xây dựng và bảo vệ chính
quyền nhân dân, tiếp tục phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống
yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung và phát
triển quan điểm lãnh đạo riêng đối với MTTQ các cấp là một yêu cầu mang tính thời
đại, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với MTTQ, phát huy năng lực và hiệu quả hoạt động của MTTQ nói riêng
và các tổ chức chính trị - xã hội nói chung, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và người dân thông qua vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, coi đó
là một chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc cũng như các tổ chức chính trị - xã
hội.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quá trình phát triển các quan điểm
của Đảng lãnh đạo MTTQVNtừ năm 1986 đến nay” để nghiên cứu, tìm hiểu.
* Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung
gồm :

B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT
NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản


1


1.2. Vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và
đời sống xã hội
II. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN VÀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HỌAT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT
NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Để tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ, trước hết chúng ta cần
hiểu khái niệm Đảng cộng sản là gì? MTTQ là gì?
- Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X ngày 25/4/2006: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc”.
+ Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương bao gồm: Đại hội đại biểu
toàn quốc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
+ Cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao
gồm: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ban Thường
vụ, Thường trực Tỉnh ủy.

Như vậy, các cơ quan của Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo đối với MTTQ
tỉnh sẽ là: Đại hội Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy.
- Tại Khoản 1, Điều 1 Luật MTTQ Việt Nam tháng 6/1999 quy định: “MTTQ
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
- Đảng lãnh đạo là khái niệm dùng để chỉ việc Đảng sử dụng các phương thức,
biện pháp nhằm đạt được mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng.
Tóm lại, Đảng lãnh đạo MTTQ là việc Đảng định ra các phương hướng có tính
chỉ đạo lâu dài trong tổ chức và hoạt động của MTTQ.

3


sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do
chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền,
Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí,
chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ thống
chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc
tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “MTTQVNlà cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân...” điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ phận
không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
“MTTQVN và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...” Đó là củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới.

Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một sự nghiệp đầy
khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên
càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và
đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM NHẬN THỨC VỀ SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân quản lý đất nước. Sự lãnh đạo
của Đảng được triển khai trên quy mô toàn xã hội với nội dung ngày càng phong phú
và đa dạng. Vì mỗi một lĩnh vực hoạt động có tính đặc thù và quy luật riêng của nó,
đòi hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với tính đặc thù của lĩnh vực
đó, tổ chức đó.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
4


sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đây là một sự nghiệp chưa có tiền
lệ, vô cùng khó khăn và phức tạp, chúng ta phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Để làm
được điều đó, phải giữ vững, tăng cường quan điểm và đổi mới phương thức lãnh đạo,
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, để Đảng mãi mãi gắn bó với dân và huy
động được mọi nguồn lực trong dân.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh
đạo. Vì vậy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận
thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Qua hơn 20 năm đổi mới, ngoài những phần được đề cập trong văn kiện của

các Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã có 4 nghị quyết quan trọng về đại đoàn kết dân
tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất.
Ngày 18-4-1983, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V ra Chỉ thị số 17-CT/TW về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Chỉ thị nêu rõ:
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, MTTQVNlà một tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng
sâu sắc... là sợi dây nối liền các tầng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững chắc của
Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở công nông liên minh dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình
quốc tế diễn biến hết sức phức tạp; cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra nghiêm
trọng ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu bị sụp đổ. Tình hình đó đã tác động tiêu cực vào nước ta, làm nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp trong tâm trạng, tư tưởng và lối sống của một số cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân.
Trước tình hình đó, ngày 27-3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VI) đã ra Nghị quyết về “Đổi mới công
tác vận động quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân”.
Về yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng,
Nghị quyết nêu rõ: Phải làm sao để nhân dân cảm nhận được Đảng bảo vệ lợi ích cho
dân và quyền làm chủ của dân được Đảng tôn trọng và phát huy.
5


Điều cực kỳ quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, theo
tinh thần Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, chính là:
“Đảng phải tiến hành công tác quần chúng bằng chính sức mạnh của bản thân tổ chức
mình, bằng sự gắn bó với dân, gương mẫu, tiên phong của từng đảng viên trong mọi
công việc, thực hiện khẩu hiệu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, thực hiện đại đoàn kết dân tộc ở tầm

cao mới và chiều sâu mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các thế
lực thù địch, đưa dân tộc và đất nước tiến lên theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã chọn, ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị (khóa VII) ra Nghị quyết chuyên
đề 07 - NQ/TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”.
Nghị quyết nêu rõ yêu cầu đại đoàn kết trong tình hình mới và đề ra nhiệm vụ chung
của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay là: Phát huy truyền thống
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam
tán thành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa
bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Trên cơ sở 4 chủ trương, quan điểm lớn nhằm củng cố, tăng cường đại đoàn
kết dân tộc, Nghị quyết nêu rõ nội dung quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQVN trong giai đoạn mới là:
- Với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải
thực hiện đúng vai trò tiền phong của mình; cán bộ, đảng viên của Đảng phải gương
mẫu chấp hành chủ trương, chính sách và pháp luật, gắn bó mật thiết với nhân dân,
thường xuyên tự phê bình và lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân, của Mặt trận.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ
chức thành viên của Mặt trận.
- Các cấp ủy cử phó bí thư hoặc ủy viên thường vụ tham gia Ủy ban Mặt trận
cùng cấp và trực tiếp làm Bí thư Đảng đoàn.
- Đại diện cấp ủy tham gia Ủy ban Mặt trận trình bày các chủ trương của Đảng
và kiến nghị những vấn đề cần thiết với Mặt trận; cùng bàn bạc dân chủ, phối hợp và
6


thống nhất giữa các thành viên; tranh thủ ý kiến của Mặt trận tham gia xây dựng chủ

trương, đường lối của Đảng liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân.
- Quy định thành nền nếp chế độ làm việc của cấp ủy với Đảng đoàn Mặt trận.
Tiếp đó, để động viên mạnh mẽ mọi tầng lớp nhân dân, mọi giai cấp, mọi dân
tộc và tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo ra động lực mới phục vụ công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX đã ra các Nghị quyết số 23-NQ/TW, về “Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”; số 24-NQ/TW “Về công tác dân tộc”; số 25- NQ/TW “Về công tác tôn
giáo”; tiếp theo đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài”.
Để đổi mới quan điểm lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX nhấn mạnh :
- Phải kiên trì thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Củng
cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và trong từng tổ chức đảng. Đảng viên
gương mẫu tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân. Có cơ chế
để động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
- Kết hợp thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng và chế độ hiệp thương
dân chủ trong tổ chức Mặt trận để làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta.
- Khi Đảng có chủ trương, chính sách lớn, đại diện của cấp ủy cần chủ động
trình bày trước hội nghị Mặt trận để mọi thành viên cùng bàn bạc, đóng góp ý kiến
trên tinh thần dân chủ, xây dựng.
- Tiếp tục cụ thể hóa việc phân công trách nhiệm giữa các bộ phận trong hệ
thống chính trị trên lĩnh vực kinh tế - xã hội cho phù hợp với thời kỳ đổi mới. Giao
cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đảm nhiệm một số công việc có liên quan đến
đời sống nhân dân.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn
thể. Sắp xếp, tổ chức lại và hiện đại hóa từng bước hệ thống các trường đoàn thể ở
trung ương. Cử những cán bộ đủ tiêu chuẩn sang công tác ở Mặt trận và các đoàn thể,

theo chủ trương luân chuyển cán bộ, qua đó phát hiện những cán bộ tốt để bồi dưỡng,
đề bạt vào những cương vị lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.
7


Tại Đại hội X, từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của nhiệm kỳ khóa IX, nhận định
về nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, Báo cáo Chính trị nêu rõ: Đảng tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời, phát huy tinh
thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Qua Nghị quyết của các Đại hội Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ
Chính trị từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, có thể thấy sự đổi
mới về lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc gồm các nội dung sau:
1 - Các cấp ủy từ trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức năng
lãnh đạo của mình bằng phương pháp dân chủ, khắc phục lối làm việc quan liêu,
mệnh lệnh.
2 - Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở đều lấy công tác vận động và
chăm lo lợi ích của quần chúng, coi lợi ích thiết thân của họ là động lực của phong
trào, là một nội dung chủ yếu trong hoạt động của các cấp ủy đảng.
3 - Phải lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân sớm đa dạng hóa
các hình thức tập hợp quần chúng cho phù hợp với sự phát triển kinh tế nhiều thành
phần.
4 - Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ
chức thành viên.
5 - Phân công đồng chí trong cấp ủy (phó bí thư hoặc thường vụ) tham gia Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và trực tiếp làm Bí thư Đảng đoàn và nếu được Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc cấp đó tín nhiệm bầu cử thì kiêm Chủ tịch Mặt trận.
6 - Đại diện cấp ủy tham gia Ủy ban Mặt trận có trách nhiệm trình bày các chủ
trương của Đảng và kiến nghị những vấn đề cần thiết với Mặt trận; cùng bàn bạc dân
chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên; tranh thủ ý kiến của Mặt

trận tham gia xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng liên quan đến khối đại đoàn kết
toàn dân. Quy định thành nền nếp chế độ làm việc của cấp ủy với Đảng đoàn Mặt trận.
Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận thực hiện tốt chức năng tập hợp, đoàn kết toàn dân vì
mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và nhiệm vụ giám
sát nhân dân, phản biện xã hội.
7 - Với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo, Đảng thực hiện
đúng vai trò tiền phong của mình: cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành chủ
8


trương, chính sách, pháp luật, gắn bó mật thiết với nhân dân; thường xuyên tự phê
bình và lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân, của Mặt trận.
8 - Xây dựng quy chế định kỳ cấp ủy làm việc với Đảng đoàn Mặt trận.
9 - Kết hợp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ hiệp
thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận để làm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày
càng phong phú hơn.
Những nội dung trên đây xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới
đất nước. Nó được đúc kết từ kinh nghiệm hoạt động của Đảng trong Mặt trận.
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo toàn xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc bao hàm một nội dung
quan trọng nữa là lãnh đạo Nhà nước sớm thể chế hóa các nghị quyết, chủ trương của
Đảng về đại đoàn kết dân tộc, về Mặt trận thành các quy định của pháp luật, thành
chính sách và các chế độ.
Đổi mới quan điểm lãnh đạo của Đảng với Mặt trận gắn liền với sự vươn lên
của cả hệ thống tổ chức Mặt trận, nhất là của những người đảng viên trực tiếp công
tác ở đây. Mỗi đảng viên cộng sản được Đảng trao trách nhiệm làm công tác mặt trận
phải vũ trang cho mình những đức tính cần thiết như: phẩm chất chính trị trong sáng;
sự hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc
phòng, đối ngoại; am hiểu tường tận tính chất, vị trí, vai trò của từng tổ chức thành

viên của Mặt trận; là văn hóa ứng xử đầy tính thuyết phục: nghiêm khắc với mình,
bao dung, độ lượng với người, để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng đã phát triển những quan điểm
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc lên tầm
cao mới, phù hợp với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
hiện nay. Đại hội xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là
đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". (1) Đồng thời Đại hội nhấn mạnh: “Đại đoàn kết
là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
9


chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”
Như vậy, giữa sự lãnh đạo của Đảng với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng. Đây là mối quan hệ giữa Đảng với
dân, mối quan hệ “tin cậy lẫn nhau”, “tín nhiệm lẫn nhau”, “bổ sung cho nhau”. Đảng
chỉ mạnh khi Đảng “gắn bó máu thịt” với dân và sức mạnh của nhân dân được tăng
lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng.
Thực hiện các nghị quyết nói trên, nhiều cấp ủy đã không ngừng quan tâm
công tác dân vận, mặt trận; củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ, điều kiện và
phương tiện cho công tác dân vận, mặt trận. Công tác dân vận của chính quyền thực
sự có chuyển biến mới. Nhiều chính sách, dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, giáo dục, y tế nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân được thực hiện có kết quả.
Quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội từng bước được thể chế hóa và không ngừng phát huy; tiến trình đổi mới từng
bước hệ thống chính trị gắn chặt với tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là
việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, đã góp phần tích cực vào việc

động viên nhân dân và cán bộ phấn khởi tham gia ngày càng chủ động và đông đảo
vào các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh lao động sản xuất, thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng.
Cùng với quá trình đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng không ngừng
được mở rộng về tổ chức và hoạt động thực tiễn với nội dung ngày càng phong phú
và thiết thực, làm giàu thêm tính liên hiệp rộng rãi và tính quần chúng sâu sắc của tổ
chức mình. Vị trí, vai trò của Mặt trận trong xã hội được nâng cao. Mặt trận đã tập
hợp, động viên, thu hút hàng chục triệu đồng bào ở trong và ngoài nước tham gia các
phong trào, các cuộc vận động thi đua yêu nước, nhất là hai cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và “Ngày vì người nghèo”.
Có thể khẳng định, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng
vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ; dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã được mở rộng hơn với nội
dung phong phú, sâu sắc hơn và hình thức đa dạng hơn. Đây chính là nhân tố quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, giữ ổn định chính trị - xã hội
trước tình hình thế giới đầy biến động và khó lường như hiện nay.
10


Cùng với những thành tựu, tiến bộ nêu trên là những vấn đề mới, phức tạp đã và
đang nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Giai cấp công nhân - giai cấp
lãnh đạo cách mạng - tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, đa dạng về ngành nghề
với hơn hai phần ba đang hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Nhiều công nhân đang gặp khó khăn về đời sống do chưa có việc làm
thường xuyên.
Giai cấp nông dân - lực lượng đông đảo nhất của dân tộc, đang trong quá trình
phân hóa nhanh chóng. Đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện, song người
nghèo hiện nay vẫn là nông dân, nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa.
Đội ngũ trí thức phát triển nhanh, ngày càng đông đảo về số lượng và đa dạng

về ngành nghề, song đang thiếu những trí thức đầu đàn, nhất là ở những ngành mũi
nhọn...; tỷ lệ trí thức có trình độ trên đại học so với số dân còn thấp so với các nước
trong khu vực.
Chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức, kinh
doanh đã và đang tạo ra một tầng lớp doanh nhân đa dạng về chế độ sở hữu ngày càng
đông, năng động và sáng tạo, góp phần ngày càng quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cán bộ, đảng viên, công chức bên cạnh số đông công tác, lao động nghiêm túc,
chăm lo sự nghiệp chung và chỉ sống bằng đồng lương nên vẫn gặp nhiều khó khăn, đã
có một bộ phận bằng nhiều nguồn thu nhập khác nhau, trở thành người giàu có; một số
ít trong đó đã lợi dụng địa vị, chức quyền để tham nhũng, vơ vét, gây sự bất bình trong
nhân dân.
Cùng với sự chuyển hóa của các giai cấp, các tầng lớp xã hội là sự chênh lệch
ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa các ngành,
giữa người đương chức và người về hưu... còn xảy ra ở một số nơi.
Tình hình đó làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc tuy đã được củng cố song
chưa bền chặt, chưa vững chắc và đang đứng trước những thử thách mới. Vẫn còn
những nỗi lo trước những tệ nạn xã hội, đặc biệt là trước tình trạng tham nhũng, lãng
phí có nguy cơ lan rộng. Bệnh chạy theo thành tích, báo cáo thiếu trung thực, kỷ
cương, phép nước ở một số nơi bị buông lỏng; đạo đức xã hội ở một số ngành, một số
lĩnh vực bị xuống cấp. Tệ nói không đi đôi với làm gây khó khăn cho việc thực hiện
các chủ trương của Đảng.
11


Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, cả về chủ quan lẫn khách quan. Có thiếu
sót do ta, song còn có cả sự xúi giục, phá hoại của các thế lực thù địch. Điểm nổi bật
của tình hình là do những nguyên nhân chủ quan.
Đổi mới thực sự là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc nhưng chưa có tiền lệ, phải
vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, song trước tình hình đất nước hội nhập quốc tế và thay

đổi nhanh chóng, đây đó còn biểu hiện chủ quan và có phần đơn giản trong việc đánh
giá khối đại đoàn kết toàn dân; chậm phân tích những biến đổi trong cơ cấu giai cấp
xã hội và tâm lý của các tầng lớp nhân dân; chưa kịp thời nắm bắt và nghiên cứu
những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường, những yếu tố mới tác động đến việc tập hợp, đoàn kết nhân dân. Do chưa
nhận thức tới tầm về vai trò của nhân dân trong công cuộc đổi mới, nên tổ chức đảng,
chính quyền ở nhiều nơi còn coi nhẹ công tác dân vận.
Đại hội X của Đảng đã nêu ra 4 quan điểm nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân. Đó cũng chính là những quan điểm chỉ đạo để khắc phục những
hạn chế, thiếu sót nêu trên nhằm đưa đại đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới và
chiều sâu mới.
Đại hội đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương của Đảng, chính sách
của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội thành hiện thực, góp phần xây
dựng sự đồng thuận trong xã hội. Đại hội yêu cầu: “Nhà nước ban hành cơ chế để
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Các cấp ủy và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân;
thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với
Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm... Thực hiện tốt Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Quy chế Dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng
lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị”. Đại hội đòi
hỏi Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động,
khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức trong hoạt động của mình.
Để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ do Đại hội X của Đảng đề ra, thời gian
tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phát huy hiệu quả hơn nữa những việc đã làm
trong thời gian qua; đồng thời, hướng mạnh các hoạt động của mình tập trung làm tốt
12



những nhiệm vụ đã được nêu trong Chương trình hành động của Đại hội VI Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Cụ thể là:
1 - Đổi mới nhiều hình thức và hoạt động cụ thể, hướng mạnh về cơ sở nhằm
phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, ý thức trách
nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân.
2 - Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; chủ động đề
xuất và góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt,
Mặt trận tiếp tục nghiên cứu và thực hiện thật tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
trước hết là tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực xây dựng các
tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
3 - Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hướng về cơ sở, nhằm xây dựng các cộng
đồng dân cư tự quản theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; tổ chức thật tốt các cuộc vận động, nhất là hai cuộc vận động
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và Ngày vì người nghèo,
do Mặt trận phát động; mở rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, coi
trọng phong trào làm kinh tế giỏi với yêu cầu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và
đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2001 - 2010, nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

13


III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN VÀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HỌAT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
- Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân có nhiều vấn đề đặt ra. Vấn đề cơ

bản nhất là nâng cao chất lượng phối hợp, thống nhất hành động giữa MTTQ và các
tổ chức thành viên, thực chất là để thực hiện những chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước và các tổ chức thành viên tự nguyện thành một khối, MTTQ đề ra chương trình
hành động chung, tiến hành hiệp thương dân chủ, các tổ chức thành viên đảm nhiệm
từng phần việc phù hợp với chức năng, khả năng. Khi hoàn thành nhiệm vụ MTTQ tổ
chức tổng kết thực hiện chương trình. Kết quả hoạt động chung của các tổ chức thành
viên tập hợp thành kết quả hoạt động của Mặt trận. Qui chế phối hợp thống nhất hành
động được thực hiện phổ biến ở các cấp. Qua hiệp thương dân chủ và bình đẳng, các
tổ chức thành viên đã bàn bạc chương trình phối hợp và thống nhất hành động theo
nghị quyết đại hội nhiệm kỳ, chương trình hành động hàng năm hay từng công việc
cụ thể. Tuy nhiên, nội dung chương trình phối hợp thống nhất hành động còn dàn trải,
đôi khi không xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, chương trình phối hợp chung chưa
kết hợp được với những nhiệm vụ của các tổ chức thành viên trong một kế hoạch
thống nhất. Hiệu lực pháp lý, sự ràng buộc lẫn nhau chưa chặt chẽ. Vai trò chủ trì
phối hợp của MTTQ, nhất là ở cơ sở còn hạn chế dẫn đến việc phát huy vai trò vị trí
của MTTQ và các thành viên chưa xứng tầm. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng hiệu
quả MTTQ và các đoàn thể nhân dân là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp
thống nhất hành động giữa MTTQ và các tổ chức thành viên.
- Đổi mới tư duy, nhận thức lý luận về Mặt trận Tổ quốc . Xác định rõ vai trò,
tính chất, chức năng, nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nói chung và từng tổ chức
thành viên nói riêng một cách ổn định, thống nhất, cụ thể hơn. Vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật. Xây dựng cơ chế, quy
chế phối hợp chức năng giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội. Trên cơ sở đó, có sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát
lẫn nhau giữa cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị. Hiện nay, vẫn còn
một số tổ chức chính trị - xã hội chưa xác định rõ chức năng cơ bản, nhiệm vụ chủ
14


yếu của mình. Do vậy, trong hoạt động vẫn còn tình trạng chồng chéo, trùng lắp, kém

hiệu quả, nhất là ở cấp dưới, cấp cơ sở.
- Khắc phục tư tưởng, thói quen trông chờ, phụ thuộc vào sự chỉ đạo của các
cấp ủy về chủ trương, phương hướng hoạt động, dựa dẫm vào sự bao cấp về tổ chức
và kinh phí của Nhà nước trong các tổ chức chính trị - xã hội. Có lộ trình để tiến tới
xóa bỏ bao cấp kinh phí (ngân sách) cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội. Hỗ trợ kinh phí cần thiết từ phía Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước giúp Mặt trận
Tổ quốc tạo kinh phí bằng cách đặt hàng thực hiện những chương trình, dự án cụ thể
thường xuyên và không thường xuyên.
Để phát huy tính năng động, sáng tạo, tự chủ của Mặt trận Tổ quốc, cần có cơ
chế, chính sách hợp lý để hạn chế, chấm dứt xu hướng "nhà nước hóa", "hành chính
hóa" của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cũng như xu hướng
"chính trị hóa" của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp một cách tràn lan, tốn kém về
kinh phí mà kém hiệu quả, hoạt động chồng chéo. Xác định rõ ràng, nhất quán loại tổ
chức nào được cấp một phần kinh phí hoạt động, loại tổ chức nào phải hoàn toàn tự
chủ về kinh phí hoạt động.
- Đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, không ngừng
củng cố, kiện toàn, mở rộng tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Phát triển các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân. Chăm lo lợi ích cho thành
viên, hội viên, đoàn viên. Tích cực, chủ động đề xuất, phát động và nhân rộng các
phong trào, hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Phát huy vai trò của
các cá nhân tiêu biểu trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân. Không ngừng đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả thiết thực của các hoạt động. Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò nòng cốt trong xã hội công dân. Vì
vậy, việc xây dựng xã hội công dân sẽ thúc đẩy sự đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội, và ngược lại, sự đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện xã hội công dân ở nước ta, tạo cơ sở
vững chắc cho việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Trong việc xây dựng luật, cần quán triệt các nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xu hướng phát triển


15


của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng, tổ chức phi chính phủ
để tránh lạc hậu.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
Mặt trận Tổ quốc. Đảng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể nhân dân
trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, bằng việc nêu gương,
đi tiên phong của đảng viên trong các phong trào, các cuộc vận động cách mạng.
Đảng lãnh đạo bằng những quyết định của tập thể, bằng cách theo dõi, kiểm tra, cho
ý kiến chỉ đạo, chỉnh đốn các công việc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải trên cơ sở đổi mới,
chỉnh đốn Đảng. Muốn phát huy dân chủ của các tổ chức thành viên thì bản thân
Đảng phải là tấm gương về thực thi dân chủ trong nội bộ Đảng. Đảng phải xây
dựng cho được những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, đủ tín nhiệm để tham
gia lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Trên cơ sở phân tích rõ tính chất, đặc điểm và thực trạng đội ngũ cán bộ của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tiến hành tiêu chuẩn hóa các yêu
cầu đối với đội ngũ cán bộ này và xây dựng hệ thống cơ chế quản lý cũng như chế
độ, chính sách cho phù hợp, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ này, về lâu dài là những
người hoạt động chính trị - xã hội, nhà hoạt động xã hội chuyên nghiệp hoặc bán
chuyên nghiệp, không thuộc hệ thống cán bộ, công chức như hiện nay.
- Tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các trường, trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ của Mặt trận Tổ quốc. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo,
bồi dưỡng theo hướng thiết thực, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của từng loại đối
tượng cán bộ, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp, kém hiệu quả hiện nay.

16



C. PHẦN KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội có vai trò quan
trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nêu rõ: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu
của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt
trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động giữa các thành viên theo chương trình hành động chung. Các đoàn thể nhân
dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên
giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt
cho đoàn viên, hội viên; vừa tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Những năm qua, quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và thực hiện tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ của từng tổ chức, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từ Trung ương tới địa phương đã có nhiều cố gắng
đổi mới về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, bám sát thực tiễn, đẩy mạnh các
chương trình hành động cách mạng và thu được kết quả tích cực, góp phần quan trọng
vào thành tựu đổi mới hơn 20 năm qua.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đã hình
thành hệ thống tổ chức tương đối hoàn chỉnh ở 4 cấp hành chính. Một số đoàn thể theo
điều lệ của mình đã xây dựng hệ thống tổ chức ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị lực
lượng vũ trang, hợp tác xã... Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu, giúp
việc, các đơn vị trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội từ
Trung ương đến địa phương đã được tiến hành một bước; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức
đã bớt cồng kềnh, chồng chéo, chất lượng đội ngũ cán bộ nhìn chung được nâng lên về
trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp công tác... Những tiến bộ đó đã
góp phần thực hiện có hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận và các đoàn thể, đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn đất nước thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới; đáp ứng yêu cầu xây dựng tổ chức vững mạnh;

đáp ứng nguyện vọng của đoàn viên, hội viên. /.

17



×