Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.58 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN ANH TUẤN

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Hà Nội – Năm 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN ANH TUẤN

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60 34 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS Nguyến Mạnh Tuân

Hà Nội – Năm 2012



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nguyên nghĩa

DNQD TW

Doanh nghiệp quốc doanh trung ƣơng

DNQD ĐP

Doanh nghiệp quốc doanh địa phƣơng

DNNN

Doanh nghiệp nhà nƣớc

DN ĐTNN

Doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài

HHDV

Hàng hóa dịch vụ

GTGT

Thuế GTGT


NSNN

Ngân sách nhà nƣớc

QLNN

Quản lý nhà nƣớc

TNCN

Thuế TNCN

TNDN

Thuế TNDN

TTĐB

Thuế tiêu thụ đặc biệt

UBND

Ủy ban nhân dân

i


DANH MỤC BẢNG

STT


Số hiệu

Nội dung

bảng

Kết quả thanh tra, kiểm tra tại trụ sở ngƣời nộp

Trang

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2 Kết quả thực hiện thu ngân sách so với kế hoạch.

3

Bảng 2.3

4

Bảng 2.4

5

Bảng 2.5 Thu NSNN từ doanh nghiệp nhà nƣớc


64

6

Bảng 2.6 Thu NSNN từ doanh nghiệp nhà nƣớc.

66

thuế.

Kết quả thực hiện thu ngân sách theo lĩnh vực
quản lý và theo sắc thuế.
Thu NSNN từ doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài.

ii

55
58
61

62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở
nƣớc ta đòi hỏi Nhà nƣớc phải sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ,
chính sách tài chính, tiền tệ, đặc biệt là chính sách thu, chi NSNN. Mặt khác

thông qua sử dụng các công cụ này mới có thể quản lý thống nhất nền tài
chính quốc gia, động viên toàn bộ nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu của cuộc đổi mới đất nƣớc. Ngân sách nhà nƣớc ở tầm quốc gia
và địa phƣơng bao giờ cũng đƣợc các cấp chính quyền và các cơ quan chức
năng quan tâm đặc biệt, coi đó là một công cụ rất quan trọng để điều tiết nền
kinh tế vĩ mô. Hơn nữa để duy trì bộ máy hoạt động của chính quyền các cấp
và phát triển kinh tế xã hội thì đòi hỏi phải có nguồn ngân sách đáp ứng cho
việc đó.
Nguồn ngân sách của nƣớc ta đƣợc hình thành từ nhiều kênh khác nhau,
và một trong những kênh quan trọng nhất là hoạt động thu thuế nội địa. Việc
thu thuế nội địa đƣợc giao cho ngành thuế các cấp từ trung ƣơng đến địa
phƣơng. Ngành thuế nhà nƣớc đƣợc tổ chức qua 3 cấp từ tổng cục thuế, cục
thuế đến chi cục thuế; đƣợc xác định rõ quyền hạn trách nhiệm và sự phân công
cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế ngành dọc cấp trên và chính quyền từng cấp
trong tổ chức lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách chế độ thuế
chung cả nƣớc và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc song hành lãnh đạo.
Cùng với ngành thuế cả nƣớc thì ngành thuế tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm qua đạt đƣợc những thành tựu to lớn, nguồn thu ngân sách ngày
càng tăng, không những đảm bảo đƣợc những yêu cầu chi thiết yếu của bộ
máy QLNN và đầu tƣ phát triển ở địa phƣơng mà còn điều tiết ngân sách về
trung ƣơng. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay hoạt động quản lý thu thuế trên
1


địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Thu ngân
sách vẫn chƣa bao quát hết các nguồn thu trên địa bàn, vẫn còn tình trạng
thất thu, nguồn thu ngân sách còn hạn chế …
Tăng cƣờng quản lý thu ngân sách nhằm động viên đầy đủ và hợp lý
các nguồn thu vào NSNN, tạo nguồn lực tài chính mạnh mẽ cho địa phƣơng
chính là yếu tố có tính quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2010 – 2015 mà Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động quản lý thu thuế trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc” là nhằm góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, ở nƣớc ta đã có một số đề tài khoa học, luận văn
và các công trình nghiên cứu của một số tác giả đã đề cập đến vấn đề này ở
nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau. Mỗi công trình đều có mục đích,
phƣơng pháp tiếp cận riêng về thuế và quản lý thu thuế nhƣ: Luận văn thạc sĩ
“ Quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” của tác giả Trịnh
Văn Ngọc, năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Đổi mới công tác quản lý thu thuế
trên địa bàn tỉnh Hà Giang” của tác giả Tô Minh Huệ, năm 2003; “Giải pháp
tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục
thuế quận Hai Bà Trưng” của tác giả Nguyễn Mỹ Phúc – Trƣờng Đại Học
Kinh Tế Quốc Dân, năm 2003.
Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc chƣa có đề tài khoa học, luận văn
nào đề cập đến vấn đề quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Chính vì vậy,
trong luận văn Thạc sỹ của mình, tác giả sẽ đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề: lý
luận cơ bản về thuế, quản lý thu thuế; Phân tích thực trạng về hoạt động quản lý
thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới và
tăng cƣờng hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
2


3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới và
hoàn thiện hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời
gian tới. Vận dụng lý luận về thuế, quản lý thu thuế để phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó đề
xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm tăng cƣờng hoạt động quản lý thu

thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới, đáp ứng nguồn lực để
thực hiện chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị, tích lũy vốn cho đầu tƣ,
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Trong luận văn này, đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn là hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Chủ thể
của hoạt động quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc là Cục thuế tỉnh
Vĩnh phúc.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu hoạt động
quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc qua các năm từ 2009 đến 2011
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin để nghiên cứu các vấn đề một cách toàn diện, hệ thống, khoa học.
Vận dụng các phƣơng pháp nhƣ so sánh, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp thống kê để xem xét vấn đề kinh kế, tài chính
trong trạng thái đồng một cách có hiệu quả. Từ các sự kiện, các số liệu trong
quá khứ sẽ phân tích phát hiện để có ý kiến cho hiện tại và đƣa ra một sô giải
pháp cho tƣơng lai, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt đồng quản lý thu thuế
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian sắp tới.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ lý luận về thuế và quản lý thu thuế,
và vai trò của thuế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng.

3


Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý thu thuế, chỉ ra đƣợc những kết
quả đạt đƣợc, hạn chế và nguyên nhân của nó trong công tác quản lý thu thuế
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cƣờng hoạt động quản lý

thu thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu kham khảo,
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THU THUẾ
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
VĨNH PHÚC
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

4


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THU THUẾ
1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng và đặc điểm của thuế
1.1.1 Khái niệm
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời
cũng là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của một nhà nƣớc. Lịch sử phát triển của xã hội loài
ngƣời đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nƣớc. Để duy trì sự tồn tại của mình,
Nhà nƣớc cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trƣớc hết là chi cho việc
duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng, thuộc phạm
vi lãnh thổ mà Nhà nƣớc đó đang cai quản; chi cho các công việc ban đầu
thuộc chức năng của Nhà nƣớc nhƣ: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng
và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về
sự nghiệp, về xã hội trƣớc mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, Nhà nƣớc thƣờng
sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và
dùng quyền lực Nhà nƣớc bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức

quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức
tự nguyện, không mang tính ổn định và lâu dài, thƣờng đƣợc Nhà nƣớc sử
dụng có giới hạn trong một số trƣờng hợp đặc biệt, để bổ sung cho những
nhiệm vụ chi đột xuất hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thƣờng
xuyên, Nhà nƣớc dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập
của mình cho Ngân sách Nhà nƣớc. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động
tập trung nguồn tài chính cho đất nƣớc.
Hình thức Nhà nƣớc dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của mình - chính là thuế.
5


Về quan hệ giữa Nhà nƣớc và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế
của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản
vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước"
Thuế luôn gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống Nhà nƣớc,
đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống Nhà nƣớc.
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc Nhà nƣớc bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên
khoa học về thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ
nghĩa tƣ bản. Các lý thuyết về thuế đƣợc xây dựng trên các học thuyết kinh tế
dựa trên cơ sở một nền kinh tế thị trƣờng.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, tùy theo mức độ thị trƣờng hoá các quan hệ
kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết
vào hệ thống chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học
thuyết này hay học thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối
kháng và điều quan trọng nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các
quốc gia là tìm ra những ứng dụng hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức
năng và nhiệm vụ của thuế trong cơ chế thị trƣờng mà không quá chú trọng
vào trƣờng phái lý thuyết nhất định.
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới

vẫn chƣa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác dộ nghiên
cứu có nhiều khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đƣa ra khái niệm về
thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình
muốn khai thác hoặc tìm hiểu, chƣa phản ánh đầy đủ bản chất chung của
phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế đƣợc quan niệm rất
đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp
của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá..." .Và với quan
điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì quyền lực Nhà
nƣớc. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một Nhà nƣớc
có giai cấp (một giai cấp giành đƣợc quyền thống trị) thì thuế thực ra là khoản
6


đóng góp bắt buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp
không phải là giai cấp cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để
bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cai trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công
dân và sẽ bằng nhiều cách để tránh thuế và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ
trợ rất nhiều cho các nhà kinh tế có quan điểm xã hội trong việc củng cố lập
trƣờng đấu tranh giai cấp.
Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, đƣợc nhìn nhận
trên các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả ngƣời Anh
Chrisopher Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tƣợng chịu thuế đã
cho rằng : "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải
và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên
việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
Một khái niệm khác về thuế tƣơng đối hoàn thiện đƣợc nêu lên trong
cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá nhƣ
sau: "thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao
bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ,
mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào

cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi
phạm pháp luật". Trong các quan điểm này, ngƣời ta chỉ nhìn nhận thuế trên
giác độ các đối tƣợng nộp thuế và đối tƣợng chịu thuế, không nói đến việc sử
dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể hiện việc đánh thuế nhƣ là một nghĩa vụ
công dân của các doanh nghiệp và hộ gia đình với đất nƣớc mà mình đang
kinh doanh hoặc đang sinh sống. Các quan điểm này cũng chỉ phù hợp với
giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định lúc đó.
Trên giác độ phân phối thu nhập, ngƣời ta định nghĩa: Thuế là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm
hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
7


Trên giác độ ngƣời nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc
mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật
định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước
sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang
khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Ở nƣớc ta, đến nay cũng chƣa có một khái niệm thống nhất về thuế.
Theo từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền
hay hiện vật mà ngƣời dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu
nhập, nghề nghiệp,... buộc phải nộp cho Nhà nƣớc theo mức quy định.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan
niệm của từng góc độ khác nhau, nên chƣa thật đầy đủ và chính xác đƣợc bản
chất của thuế. Đến nay, tuy chƣa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhƣng
các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ đƣợc bản chất của thuế thì
định nghĩa về thuế phải nêu bật đƣợc các khía cạnh sau đây:

- Nội dung kinh tế của thuế đƣợc đặc trƣng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà
nƣớc với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
- Những mối quan hệ dƣới dạng tiền tệ này đƣợc nảy sinh một cách
khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính
chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nƣớc;
- Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nƣớc các khoản thuế
đã đƣợc pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển xã hội, việc quy định thuế phải đƣợc
sử dụng chung cũng là một vấn đề cần xem xét. Có những loại thuế đƣợc thu
chỉ nhằm một mục đích định trƣớc và trao cho một số đối tƣợng quy định.
8


Dù trải qua nhiều giai đoạn và đƣợc nhận định trên nhiều giác độ khác
nhau, nhƣng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hƣớng cổ điển vẫn còn
đang đƣợc áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trƣờng, điển
hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze đƣa ra trong Giáo trình Tài chính
công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đƣa ra một khái
niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay nhƣ sau: Thuế là một
khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt buộc phải
thực hiện theo luật đối với Nhà nƣớc; không mang tính chất đối khoản, không
hoàn trả trực tiếp cho ngƣời nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu
chi tiêu công cộng.
1.1.2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế
Các nhà kinh tế học thƣờng đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà
nƣớc và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà
nƣớc tập trung đƣợc một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy
ngân sách Nhà nƣớc và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phƣơng diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nƣớc đặt ra thông

qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật
không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ
của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật
thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nƣớc. Chính vì
vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và
có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trƣờng, với sự thay đổi phƣơng thức can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động
kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh
tế - xã hội. Vai trò của thuế đƣợc thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
9


- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nƣớc:
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách
hình thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công
cộng, đó là ngân sách Nhà nƣớc. Ngân sách Nhà nƣớc đƣợc tập hợp từ nhiều
nguồn thu khác nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công
cộng. Trong tất cả các nguồn, thông thƣờng số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng số thu ngân sách Nhà nƣớc. Đây là nguồn thu ổn định nhất
đƣợc kế hoạch hoá tốt trên cơ sở dự báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh
tế của đất nƣớc trong một năm. Hầu nhƣ mọi khoản chi tiêu của ngân sách
Nhà nƣớc đều dựa vào sự đóng thuế của ngƣời dân. Vì vậy, xã hội có trách
nhiệm phải tôn trọng ngƣời nộp thuế, những ngƣời thông qua hành vi của
mình đóng góp tài chính cho Nhà nƣớc một cách trực tiếp và gián tiếp.
- Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trƣờng là có sự chênh
lệch lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ trong xã hội.
Kinh tế thị trƣờng càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng

lớp dân cƣ ngày càng có xu hƣớng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một
đất nƣớc là thành quả của sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong
xã hội đều có những đóng góp nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát
triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về
quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cƣ và gây ra bất ổn xã hội. Chính
vì vây, Nhà nƣớc cần phải can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập, của cải
của xã hội. Thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nƣớc sử dụng để tác động
trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ đƣợc thực hiện một
phần thông qua thuế gián thu mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc biệt.
Loại thuế này có đối tƣợng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu
dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hoá, dịch vụ này thông thƣờng chỉ có những
10


ngƣời có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng
nhiều, qua đó điều tiết bớt một phần thu nhập của họ.
Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng
thuế suất luỹ tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu
nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
- Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra,kiểm soát các hoạt động sản
xuất, kinh doanh
Vai trò này đƣợc xuất hiện trong quá trình tổ chức thực hiện các luật
thuế trong thực tế. Để đảm bảo thu đƣợc thuế và thực hiện đúng các quy định
của các luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải
bằng mọi biện pháp nắm vững số lƣợng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ đƣợc phép kinh
doanh cũng nhƣ các định mức chi tiêu đặc thù và các phƣơng thức hạch toán
riêng có. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những khó
khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi biện pháp tháo gỡ. Đồng thời,

cũng qua công tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật đƣợc nhiều kiến thức quản
lý kinh tế để phục vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm soát sau này. Nhƣ vậy,
qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện
các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà
nƣớc về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Thuế góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
Thuế trong cơ chế thị trƣờng không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách Nhà nƣớc, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ
chức, cá nhân khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất
nƣớc, họ đƣợc quyền thụ hƣởng và cung ứng những lợi ích công cộng nhất
định và đƣợc tạo thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ trƣơng kinh tế đất nƣớc, mà Nhà nƣớc có thể
11


dùng thuế để tác động, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh ở một số
ngành, vùng để khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển nhằm tạo ra một
cơ cấu hợp lý hơn.
1.1.3. Chức năng của thuế
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn
có của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên, thuế cũng có những đặc trƣng, hình
thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ
tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của
thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
- Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính hay chức năng
phân phối thu nhập:
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu
nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, xuất

phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nƣớc phải ban hành và tổ chức
thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nƣớc
từ đó mới đáp ứng đƣợc nhu cầu chi ngày càng tăng phụ thuộc vào các công
việc Nhà nƣớc đảm nhiệm.
Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nƣớc có thể sử dụng
nhiều hình thức khác nhau nhƣ: phát hành thêm tiền; phát hành trái phiếu để
vay trong nƣớc và ngoài nƣớc; bán một phần tài sản quốc gia; thu thuế....
Trong các hình thức nêu trên thì thuế là công cụ chủ yếu và có vai trò quan
trọng nhất. Vì so với các hình thức huy động khác, sử dụng công cụ thuế có
những ƣu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối lại có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn.
Đối tƣợng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế
và các hoạt động khác có làm phát sinh hành vi điều tiết thuế.

12


- Phƣơng thức huy động của thuế là sử dụng phƣơng pháp chuyển giao
thu nhập bắt buộc. Chính vì vậy, nguồn thu từ thuế đƣợc đảm bảo tập trung
một cách nhanh chóng, thƣờng xuyên và ổn định.
- Thông qua thu thuế, một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân trong nƣớc tạo ra, đã tập trung vào Nhà nƣớc để đảm bảo nhu cầu chi
tiêu công cộng và thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội.
- Tính ƣu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ khác còn
thể hiện ở chỗ: thuế kết hợp hài hoà giữa phƣơng pháp cƣỡng bức và kích
thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các đối tƣợng nộp thuế tới chất
lƣợng sản xuất và hiệu quả kinh doanh.
Nhà nƣớc ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính

quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nƣớc.
Cũng nhƣ pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh
quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nƣớc.
Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để
thu ngân sách Nhà nƣớc.
Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn có công dụng là phƣơng tiện huy động
nguồn lực tài chính cho Nhà nƣớc. Ngƣời ta gọi công dụng này là chức năng
huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế. Đây là chức năng cơ bản của
thuế, đặc trƣng cho thuế ở tất cả các dạng Nhà nƣớc, trong tiến trình phát triển
của xã hội. Về mặt lịch sử, chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính
là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân sự ra đời của thuế.
Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế
mà các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc đƣợc hình thành, để đảm bảo cơ sở
vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nƣớc. Chính chức năng này đã
13


tạo ra những tiền đề để Nhà nƣớc tiến hành tham gia phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Do đó chức năng này còn
đƣợc gọi là chức năng phân phối của thuế.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nƣớc đòi hỏi phải tăng
cƣờng chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung
nguồn lực của thuế ngày càng đƣợc nâng cao. Thông qua thuế, một phần đáng
kể tổng sản phẩm quốc nội đƣợc tập trung vào Ngân sách Nhà nƣớc. Thuế trở
thành nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nƣớc của
tất cả các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng. Hiện nay ở hầu hết các nƣớc trên
thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế và phí
thƣờng chiếm tới trên 90% tổng số thu Ngân sách Nhà nƣớc.
Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề

khách quan cho sự can thiệp của Nhà nƣớc vào nền kinh tế. Trong quá trình
thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế đã tự
động làm xuất hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế.
- Chức năng điều tiết
* Điều tiết kinh tế
Nền kinh tế thị trƣờng, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng
những khuyết tật vốn có của nó. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp
của Nhà nƣớc vào quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trƣờng. Nhà nƣớc
thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô bằng cách đƣa ra những chuẩn
mực mang tính định hƣớng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy
để hƣớng các hoạt động kinh tế - xã hội theo các mục tiêu Nhà nƣớc đã định
và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện trong
khuôn khổ luật pháp.
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong
quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của
thuế, nhƣng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới
14


đƣợc nhận thức đầy đủ và sử dụng rộng rãi và gắn liền với vai trò điều tiết vĩ
mô nền kinh tế của Nhà nƣớc.
Nhà nƣớc thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội bằng
nhiều biện pháp nhƣ giáo dục chính trị tƣ tƣởng, hành chính, luật pháp và
kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nƣớc cũng sử dụng nhiều
công cụ để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhƣ các công cụ tài chính, tiền
tệ, tín dụng. Trong đó, thuế là một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính và là một
trong những công cụ sắc bén nhất đƣợc Nhà nƣớc sử dụng để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Nhà nƣớc thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy
định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tƣợng chịu thuế

và đối tƣợng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có
tính đến khả năng của ngƣời nộp thuế. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà
nƣớc không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh
hay không kinh doanh, mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể
trong việc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh của mình.
Dựa trên cơ sở xác định mục tiêu và đối tƣợng ảnh hƣởng đến sự tăng
trƣởng của nền kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể, Nhà nƣớc điều chỉnh thuế
để tạo ra những thay đổi trong nền kinh tế quốc dân theo hƣớng mong muốn
bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh
thổ; lƣu thông tiền tệ; giá cả; tiền lƣơng; phân phối thu nhập; các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại; bảo vệ môi trƣờng ... Nhƣ vậy, nội dung điều chỉnh của
thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm hầu hết các quá trình
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dƣới đây là một số nội dung điều tiết cơ bản của
thuế đối với nền kinh tế quốc dân:
- Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế
Đây là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sử dụng công
cụ thuế điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trƣờng thì sự phát
15


triển theo chu kỳ là điều không thể tránh khỏi. Theo chu kỳ, thị trƣờng sẽ phát
triển, đến một thời điểm cung vƣợt cầu, mọi hoạt động của nền kinh tế sẽ bị
đình trệ và bƣớc vào suy thoái. Để đảm bảo tốc độ tăng trƣởng ổn định, Nhà
nƣớc đã sử dụng thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng
hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà nƣớc có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những
điều kiện ƣu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng
đầu tƣ và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đƣa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng nhanh chóng. Ngƣợc lại, trong thời kỳ phát triển quá mức, có
nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tƣ, Nhà nƣớc
có thể giữ vững nhịp độ tăng trƣởng theo mục tiêu đặt ra. Để có thể điều tiết

chu kỳ kinh tế hiệu quả, thông thƣờng các Nhà nƣớc dựa vào việc áp dụng
các loại thuế có mức độ ổn định tự động cao, điển hình là thuế đánh trên thu
nhập theo biểu thuế lũy tiến. Tuy nhiên, cũng có Nhà nƣớc dùng biện pháp
điều chỉnh chính sách cho từng thời kỳ bằng cách hạ hay tăng thuế suất đánh
vào những hoạt động chủ yếu để tác động đến toàn bộ nền kinh tế.
- Thuế góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý
Trong từng giai đoạn phát triển nền kinh tế nhất định, mỗi quốc gia có
một cơ cấu kinh tế hợp lý nhất định, nhằm khai thác tốt nhất nguồn tài
nguyên của mình trên cơ sở lợi thế so sánh tuyệt đối. Trong điều kiện kinh tế
hội nhập quốc tế, việc bố trí cơ cấu ngành cũng còn phụ thuộc vào việc lợi thế
so sánh tƣơng đối của kinh tế trong nƣớc và với các quốc gia khác có quan hệ
thƣơng mại. Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ đƣợc phó mặc
toàn bộ cho các quy luật thị trƣờng diễn biến tự do, theo quy luật tỷ suất lợi
nhuận bình quân, mà còn đòi hỏi phải đƣợc điều chỉnh bởi Nhà nƣớc, để phù
hợp với định hƣớng phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Bằng việc ban hành
hệ thống chính sách thuế, Nhà nƣớc sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh
thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng
cụ thể. Thông qua đó Nhà nƣớc có thể thúc đẩy sự phát triển của những
16


ngành kinh tế quan trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trƣởng giữa chúng, đảm
bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc điều
chỉnh cơ cấu phải đƣợc xem xét rất thận trọng. Bởi lẽ, thuế sẽ làm méo mó
các quan hệ kinh tế khi áp dụng. Việc xác định điều chỉnh không đúng, sẽ tạo
cơ hội tăng trƣởng của các ngành kinh tế kém hiệu quả và kém cạnh tranh,
làm cho hợp lực của toàn bộ nền kinh tế bị triệt tiêu ít nhiều.
- Điều chỉnh tích luỹ vốn
Đây là một nội dung quan trọng của điều chỉnh thuế. Tham gia hoạt động
sản xuất, kinh doanh trong thị trƣờng, tất cả các nhà đầu tƣ đều mong muốn

chiếm hữu và bổ sung vốn từ lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Đây luôn là mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị
trƣờng. Để góp phần hạn chế tăng trƣởng nóng của các nền kinh tế, làm giảm
hiệu quả sử dụng tài nguyên; hoặc để thúc đẩy nền kinh tế đang trì trệ, Nhà
nƣớc cần sử dụng thuế để điều chỉnh sự tích luỹ, tạo sự thay đổi trong chu kỳ
kế tiếp. Trong nền kinh tế thị trƣờng, việc đầu tƣ của các doanh nghiệp Nhà
nƣớc không đƣợc xem là hoạt động chi tiêu Chính Phủ. Do đó, tăng thuế đồng
nghĩa với việc tăng chi tiêu Chính Phủ và giảm cơ hội tích lũy vốn của các
doanh nghiệp (kể cả của doanh nghiệp Nhà nƣớc). Sự phát triển nền kinh tế
luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tƣ cơ bản, để phát triển nền kinh tế quốc
dân, Nhà nƣớc cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh
nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tƣ. Việc thay đổi các chính sách thuế của
Nhà nƣớc có thể ảnh hƣởng đến quy mô và tốc độ tích luỹ vốn và, do đó tác
động đến quá trình đầu tƣ phát triển kinh tế.
- Bảo hộ nền sản xuất trong nước
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trƣờng, tất yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
trên thị trƣờng nội địa. Đặc biệt, khi một đất nƣớc đã tham gia hội nhập kinh
tế tài chính quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trên thị trƣờng
17


toàn cầu. Trong quá trình cạnh tranh này, sẽ có doanh nghiệp phát triển,
nhƣng cũng có những doanh nghiệp lụn bại. Việc phát triển hay phá sản của
các doanh nghiệp hoàn toàn do hiệu quả hay hậu quả của các hoạt động kinh
doanh bản thân doanh nghiệp mang lại. Những ngành sản xuất kém hiệu quả
sẽ dần đƣợc thay thế bởi những ngành sản xuất hoạt động có hiệu quả hơn.
Những nhà đầu tƣ kém cỏi dù trong nƣớc hay nƣớc ngoài sẽ nhƣờng chỗ cho
những nhà đầu tƣ có khả năng quản lý và tiềm lực tài chính hơn. Những vùng
kinh tế phát triển sẽ thay thế dần những vùng kinh tế chậm phát triển để hợp

lực thành sức mạnh của cả nƣớc. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và thu
hút đầu tƣ đó, một yếu tố thúc đẩy không kém phần quan trọng là can thiệp
của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc có định hƣớng phát triển nhất định cho các vùng
kinh tế, để tránh sự mất cân đối theo ngành, vùng, tạo nên sự phát triển bền
vững và ổn định. Nhà nƣớc về mặt nào đó cũng phải có trách nhiệm hơn với
các nhà đầu tƣ là các công dân của mình, để giúp họ có thể kinh doanh có
hiệu quả ngay trên đất nƣớc của họ. Vì vậy, xu thế bảo hộ cho các nhà đầu tƣ
trong nƣớc, cũng nhƣ khuynh hƣớng bảo hộ những ngành nghề sản xuất
truyền thống của dân tộc là một yêu cầu tất yếu buộc mọi Nhà nƣớc đều phải
quan tâm.
Khi chƣa tham gia hội nhập kinh tế, để thực hiện đƣợc chính sách bảo hộ
này, các Nhà nƣớc có thể áp dụng nhiều giải pháp và chính sách khác nhau.
Có thể sử dụng các biện pháp cấm đoán, áp dụng hạn ngạch, giảm thuế, miễn
thuế.... Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến
khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ƣu đãi,
miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và
phát triển của các doanh nghiệp. Thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích
sản xuất trong nƣớc và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập
khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập
18


trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa
xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khi đã tham gia hội nhập, nhiều giải pháp phi thuế
lẫn thuế đều bị cấm áp dụng, nếu không muốn bị áp dụng các biện pháp đối
kháng hoặc trả đủa. Trong bối cảnh hội nhập, chỉ việc sử dụng công cụ thuế
một cách hợp lý, mới có thể bảo hộ đƣợc các doanh nghiệp nội địa phù hợp
với yêu cầu chung.
* Điều tiết tiêu dùng

Nhà nƣớc trong vai trò hƣớng dẫn xã hội đến những giá trị tốt đẹp, phải
định hƣớng các khuynh hƣớng tiêu dùng. Nhà nƣớc hƣớng dẫn tiêu dùng có
thể bằng nhiều biện pháp kể cả hành chính, xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, giải
pháp hữu hiệu nhất có thể áp dụng trong một đất nƣớc cởi mở, dân chủ theo
nền kinh tế thị trƣờng là áp dụng chính sách thuế. Việc áp dụng các mức thuế
gián thu phân tầng nhƣ thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt... sẽ làm giảm cầu với những hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nƣớc cho là cần
hạn chế hoặc nên ƣu đãi. Thông qua điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu mà gây nên áp lực tăng giá hàng nhập khẩu, giảm khả năng
cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nƣớc, từ đó điều chỉnh khối lƣợng hàng
hoá đƣa ra thị trƣờng và đƣa vào để thực hiện bảo hộ nền sản xuất trong nƣớc
và bảo vệ lợi ích của thị trƣờng nội địa. Mặt khác, tác động đánh thuế nhập
khẩu cũng gây nên phản ứng của ngƣời tiêu dùng trong nƣớc tạo nên sự lựa
chọn của họ trong tiêu dùng. Ngoài ra ngƣời ta còn sử dụng công cụ thuế để
kích thích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hay ít nhất là giảm đến
mức thấp nhất tính kém hiệu quả của sản xuất trong nƣớc. Chẳng hạn, trong
trƣờng hợp cần hạn chế xuất khẩu những hàng hoá mà giá cả của chúng bị ấn
định bởi giá cả bất lợi của thị trƣờng thế giới, gây thiệt hại cho sản xuất trong
nƣớc, trƣờng hợp này có thể sử dụng thuế xuất khẩu để kích thích chuyển các
nguồn lực từ sản xuất hàng xuất khẩu sang sản xuất hàng hoá tiêu dùng nội
địa. Việc phân tầng các mức thuế gián thu này, phù hợp với các nguyên tắc
19


thị trƣờng, dù cho mức độ hội nhập của quốc gia đó cao hay thấp. Điều cần
chú ý là tránh phân biệt đối xử với hàng hoá, dịch vụ trong và ngoài nƣớc kể
cả trên việc áp dụng thuế suất nhập khẩu hay thuế nội địa, vì việc này vi phạm
các cam kết quốc tế khi đã tham gia hội nhập.
* Điều tiết xã hội
Hệ thống chính sách thuế trong nền kinh tế thị trƣờng hội nhập đƣợc áp

dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cƣ, trong và ngoài nƣớc nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã
hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự phân hoá giàu nghèo trong một nền kinh tế hội nhập sẽ có nguy cơ
diễn ra cao hơn. Điều này do một bộ phận ngƣời lao động có điều kiện thích
nghi với các ngành nghề chiếm ƣu thế trong giai đoạn hội nhập. Nhƣng ngƣợc
lại cũng có một bộ phận ngƣời lao động bị thải ra ngoài vì không đáp ứng kịp
các yêu cầu của hội nhập. Sự phân hoá này về lâu dài vẫn duy trì và mở rộng,
cho dù thu nhập tuyệt đối của toàn xã hội đƣợc nâng cao. Đây chính là động
lực để ngƣời lao động năng nổ, cải thiện kỹ năng và nâng cao trình độ tay nghề.
Nhƣng đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra những hố ngăn cách xã hội. Thực
hiện chính sách công bằng theo quan điểm cào bằng sẽ làm triệt tiêu động lực
làm việc của ngƣời lao động, ngƣợc lại sẽ làm cho mâu thuẩn xã hội ngày càng
tăng cao, ảnh hƣởng đến sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Trong bối cảnh
đó, thuế, đặc biệt là các loại thuế thu nhập giữ vai trò quan trọng trong việc
thực hiện công bằng và làm giảm khoảng cách phân hoá giàu nghèo.
Hiện nay, xu hƣớng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm
pháp luật thuế theo hƣớng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống
thuế và thuế suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu hƣớng chung đó không làm triệt
tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc trong
điều kiện nền kinh tế thị trƣờng.

20


Khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các
khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế cần phải đƣợc cắt giảm để tăng tổng cầu và
việc làm. Trong thời kỳ nền kinh tế lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các
khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế lại đƣợc gia tăng để giảm tổng cầu và hạn
chế sự gia tăng của nền kinh tế. Nghĩa là, trên phƣơng diện nào đó, thuế cũng

đƣợc dùng để mở rộng hoặc thu hẹp các cơ hội việc làm.
1.1.4.Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về
thuế nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà
nƣớc, đƣợc sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho
mục đích công cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác nhƣ
phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản
của thuế trong kinh tế thị trƣờng nhƣ sau:
- Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phƣơng thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trƣờng, về nguyên tắc,
thuế là một khoản trích nộp dƣới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp
thuế bằng hiện vật đã tồn tại từ thời xa xƣa hoặc khác với chế độ giao nộp sản
phẩm trong nền kinh tế phi thị trƣờng. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính
là sự khác biệt cơ bản và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trƣờng và
thuế trong các nền kinh tế khác. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi
hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát triển, và ngƣợc lại, việc bắt buộc nộp
các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
thị trƣờng bằng cách đòi hỏi ngƣời nộp thuế trong trƣờng hợp không có tiền
phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để thanh toán nợ thuế.
Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi
trong hệ thống chính sách thuế đƣơng đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình
thức này dƣới dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy,
nhƣ khi đào đƣợc cổ vật phải nộp thuế cho Nhà nƣớc với một tỷ lệ hiện vật
21


×