Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

MỘT SỐ KỸ NĂNG CƠ BẢN TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.2 KB, 43 trang )

Môn: MỘT SỐ KỸ NĂNG CƠ BẢN TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
BÀI 1: HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP CƠ SỞ.
Câu 1: Nêu khái niệm của hoạt động, lãnh đạo quản lý, phân tích vai trò của hoạt động, lãnh đạo quản lý ở
cơ sở ?
1/ Khái niệm của hoạt động, lãnh đạo quản lý
- Khái niệm hoạt động lãnh đạo:
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động mang tính định hướng, gây ảnh hưởng, tạo dựng niềm tin, thuyết phục người khác
để họ đồng thuận với người lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương hướng tới mục tiêu nào đó. Lãnh đạo tạo
hiệu ứng điều khiển, dẫn dắt người khác dựa trên cơ chế nhận thức, niềm tin, tiêu chuẩn đạo đức, tư tưởng…mà
không mang tính cưỡng bức đối với người khác.
Ví dụ: Đảng lãnh đạo quần chúng không phải bằng sức mạnh của bộ máy bạo lực mà bằng sự đúng đắn
trong các đường lối, chủ trương thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục và sự gương mẫu của Đảng.
Cán bộ LĐ cũng cần có kỹ năng LĐ, nhưng các kỹ năng này khó định hình và khó đào tạo, chủ yếu được rèn
luyện thông qua hoạt động thực tiễn.
- Khái niệm hoạt động quản lý:
Quản lý mang tính kỹ thuật, quy trình, được quy định rõ trong khuôn khổ các thể chế xác định.
Ví dụ: Quản lý hành chính trong các cơ quan của Nhà nước; quản trị trong các doanh nghiệp. Kỹ thuật quản
lý có thể được nghiên cứu và đào tạo. Nhà quản lý sử dụng quyền lực để điều hành người khác.
- Mối quan hệ giữa hoạt động LĐ và hoạt động QL: LĐ và QL có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau.
Điểm chung của hai hoạt động này là đều đạt đến mục đích mong muốn thông qua hành động của người khác. Nói
cách khác, hoạt động LĐ và hoạt động QL là hoạt động điều khiển con người. Điểm khác biệt giữa chúng là ở chỗ
LĐ sử dụng uy tín và sự thuyết phục nhiều nhiều hơn, sử dụng quyền lực ít hơn; quản lý sử dụng quyền lực nhiều
hơn. Quản lý thường theo một quy chế rõ ràng. LĐ không dựa nhiều vào quy chế mà dựa vào sự thuyết phục và
cảm hóa.
Trong thực tế khó tách biệt hai hoạt động này trong con người cán bộ. Cán bộ nào cũng đồng thời thực hiện
cả vai trò LĐ lẫn vai trò QL. Vì thế, người ta thường gọi chung là hoạt động LĐ,QL.
2. Vai trò của hoạt động LĐ,QL ở cấp cơ sở
- Hoạt động LĐ,QL tạo nên sức mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất ý chí và hành động.
Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã, phường, thị trấn, dù khác biệt nhau trên nhiều phương diện, nhưng mỗi cộng


đồng cũng có những lợi ích chung như môi trường trật tự trị an, vệ sinh, cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trương
học…
- Hoạt động LĐ,QL tạo ra môi trường vừa cho phép mỗi người dân được tự do sáng tạo, vừa định hướng
hoạt động của mọi người theo mục tiêu chung
- Hoạt động LĐ,QL cấp cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận khác nhau của đơn vị thành
một hệ thống thống nhất.
- Hoạt động LĐ,QL ở cấp cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững của hệ thống chính trị.
Nhờ có sự LĐ,QL ở cấp cơ sở mà hoạt động của dân cư và các tổ chức trên địa bàn đi vào nền nếp, kỷ
cương, giảm nhẹ nhiệm vụ LĐ,QL, giám sát của cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán
bộ LĐ,QL cấp cơ sở làm tăng uy tín của hệ thống chính trị.
Liên hệ thực tế tập pho trang 36-quyển 16
Câu 2: Nêu những nội dung chủ yếu của hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở? (Gồm 3 nội dung)
1. Hoạch định mục tiêu phương hướng kế hoạch hoạt động của cấp cơ sở
a, Dự báo:
Đồng chí hiểu như thế nào là dự báo? dự báo có phải là tầm nhìn của người LĐ,QL hay không? nội dung của
dự báo là gì? nó có vai trò như thế nào trong hoạt động LĐ,QL ở cơ sở?

Hùng Oanh- TV

1


* Khái niệm dự báo: là phán đoán một cách có căn cứ khoa học xu hướng phát triển xã, huyện, tỉnh, cả nước
trong thời gian trước mắt và lâu dài nhằm cung cấp luận cứ cho việc xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch
hành động của cơ sở.
*Nội dung của dự báo bao gồm:
- Những biến động bên trong, bên ngoài cấp cơ sở theo chiều hướng có lợi và không có lợi.Cụ thể:
+ Phải dự báo về sự thay đổi của môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị ảnh hưởng đến cơ sở như thế nào.
+ Dự báo về sự thay đổi của cấp cơ sở về các phương diện thẩm quyền, nguồn lực, nhiệm vụ, khó khăn, thuận lợi

khi thực thi nhiệm vụ để có kiến nghị đối phó thích hợp.
+ Dự báo về sự thay đổi mục tiêu của cơ sở do sự biến động chung và riêng…
* Vai trò của dự báo:
Dự báo có vai trò quan trọng trong cung cấp căn cứ để lập kế hoạch hoạt động của cơ sở. Chất lượng dự báo tốt,
diện dự báo rộng cho phép cán bộ lập kế hoạch của cơ sở đề xuất được các phương án, mục tiêu sát thực, khả thi
hơn và ngược lại.
b, Xác định mục tiêu:
*Khái niệm:
Mục tiêu là kết quả hành động hoặc trạng thái của cơ sở trong tương lai.
*Phân tích:
- Phân biệt mục tiêu với mục đích: Khác với mục đích, mục tiêu vừa có tính chất định hướng hành động, vừa xác
định rõ các tiêu chí đo lường kết quả của hành động sao cho ở thời điểm cần hoàn thành mục tiêu chúng ta có thể
biết được mục tiêu đã được hoàn thành ở mức độ nào.
- Tính thời hạn của mục tiêu: Mục tiêu còn mang tính thời hạn với điểm bắt đầu và kết thúc theo thời gian cụ thể.
-Vai trò của việc xác định mục tiêu:Xác định mục tiêu đúng là một công việc rất quan trọng và không dễ dàng
trong công việc của cán bộ LĐ,QL. Xác định đúng mục tiêu của cơ sở, tức là mục tiêu đó phù hợp với điều kiện
thực tế, khả thi và sử dụng hiệu quả nguồn lực hiện có để thõa mãn tốt nhất nhu cầu của dân cư, thì tự người dân sẽ
tích cực hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu và ngược lại.
- Phân loại mục tiêu: mỗi cơ sở có một hệ thống các mục tiêu đa dạng theo các mối quan hệ khác nhau:
+ Nếu phân loại mục tiêu theo thời gian thực hiện mục tiêu thì có mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu trung hạn và mục
tiêu dài hạn;
+ Nếu phân loại theo tầm quan trọng của mục tiêu thì có mục tiêu cơ bản, chủ yếu; mục tiêu không cơ bản, thứ
yếu;
+ Nếu phân loại theo phạm vi, tính chất của mục tiêu thì có mục tiêu kinh tế, mục tiêu chính trị, mục tiêu xã hội,
mục tiêu văn hóa, mục tiêu an ninh quốc phòng…
+ Nếu xét theo chủ thể thực hiện mục tiêu thì có mục tiêu của ủy ban nhân dân xã, phường; mục tiêu của Đảng ủy
xã, phường; mục tiêu của Đoàn Thanh niên xã, phường; mục tiêu của chi hội phụ nữ…Vấn đề cần quan tâm là cấp
cơ sở phải thiết lập mối quan hệ ưu tiên và phối hợp giữa các mục tiêu.
c, Lập kế hoạch, chương trình hành động thực hiện mục tiêu.
Bao gồm 2 nội dung:

*Thứ nhất: Xây dựng các chương trình hành động để thực hiện mục tiêu
- Chương trình hành động là tổng thể các nỗ lực của cấp cơ sở đi đôi với tổng nguồn lực và phương thức sử dụng
nguồn lực tương ứng để đạt đến mục tiêu.
Thông thường cấp cơ sở có các loại chương trình hành động theo lĩnh vực (chương trình phát triển kinh tế, chương
trình xây dựng trường học, trạm xá…), chương trình theo mục tiêu phân bổ (như chương trình xóa đói, giảm
nghèo, chương trình phủ xanh đất trồng, đồi trọc, chương trình nước sạch…), chương trình giải quyết vấn đề cấp
bách của địa phương…
*Thứ hai: Lập kế hoạch hành động cho từng mục tiêu, từng bộ phận, cá nhân và theo thời gian (Có 2 loại kế hoạch
cần phải xây dựng):
- Một là: Kế hoạch hoạt động thường kỳ của cơ sở
Kế hoạch thường kỳ là lịch trình thực hiện các chức năng ổn định của cơ sở như kế hoạch 1 năm, kế hoạch 5 năm,
chiến lược cho từng giai đoạn. Đây là dạng kế hoạch sắp xếp hoạt động của cơ sở theo một tiến trình thời gian đi
đôi với sự phân bổ hợp lý nguồn kinh phí và biên chế đủ để hoàn thành nhiệm vụ được giao
Nội dung của các kế hoạch này bao gồm ba phương diện:
+Hành động: Các hoạt động cần hoàn thành trong kỳ kế hoạch được phân bổ theo tiến độ thời gian cụ thể.
Hùng Oanh- TV
2


+Kinh phí: Là kế hoạch phân bổ kinh phí cho các hoạt động đi cùng chế độ chi tiêu, quản lý rõ ràng.
+ Con người: Mỗi hoạt động và kinh phí tương ứng phải giao cho tổ chức và cá nhân cụ thể phụ trách.
- Hai là: Kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu
+ Kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu: là các kế hoạch soạn thảo riêng cho từng chương trình cụ thể. Sau
khi các chương trình hành động đã được phê duyệt thì cán bộ quản lý, căn cứ trên những nhiệm vụ cụ thể do
chương trình đặt ra và sự phân bổ kinh phí tương ứng, sắp xếp nhân sự và thời gian cho từng hoạt động và từng
giai đoạn cụ thể của việc thực hiện chương trình
+Kế hoạch của cấp cơ sở phải được truyền tải cho các bộ phận chức năng và cụ thể hóa thành nhiệm vụ, chỉ tiêu
của các bộ phận đó. Kế hoạch của cấp cơ sở là một bộ phận của kế hoạch cấp trên nên phải phù hợp với kế hoạch,
chương trình hành động của cấp trên nên phải phù hợp với kế hoạch, chương trình hành động của cấp trên và phải
được cấp trên phê chuẩn.

+ Ngoài các kế hoạch chính, cơ sở còn phải lập các kế hoạch dự phòng để đối phó với rủi ro khi chúng xảy ra.
+Căn cứ vào đâu để chúng ta có thể lập kế hoạch?
Căn cứ vào các thông tin từ tình hình thực hiện kế hoạch thời kỳ trước, nhiệm vụ bổ sung trong kỳ tới, chế độ
chính sách theo quy định của Nhà nước và các đoàn thể chính trị, những biến động đã được dự báo và những biến
động rỉu ro…
+Lập kế hoạch thường được sử dụng những phương pháp nào?
Phương pháp lập kế hoạch thường được sử dụng là sắp xếp công việc theo tiến độ thời gian, theo sự phân công
trong cơ cấu tổ chức của cơ sở, theo các yêu cầu công việc, có thể sử dụng một số kỹ thuật như lập sơ đồ, mạng
lưới công việc…
2. Tổ chức thực hiện phương hướng, mục tiêu kế hoạch của cấp cơ sở
a, Huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực: tài chính và vật tư, thiết bị.
-Huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực tài chính: Có 2 nguồn (Do ngân sách cấp trên hoặc do một tổ chức nào đó tài
trợ).
+Cán bộ quản lý, căn cứ dự toán đã được phê duyệt để phân bổ kinh phí cho các lĩnh vực và hoạt động liên quan
đúng với chế độ, chính sách và định mức của Nhà nước
- Huy động, bố trí, sử dụng vật tư, thiết bị:
Việc sử dụng tài sản đã đầu tư thường theo chế độ chính sách của Nhà nước và việc huy động các nguồn lực này
phải theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả với chế độ duy tu, bảo dưỡng và thay thế hợp lý.
b, Thiết lập và củng cố, đổi mới bộ máy tổ chức, quản lý.
* Thiết lập mới bộ máy LĐ,QL.
- Bộ máy LĐ,QL là một chỉnh thể các bộ phận LĐ,QL có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng cùng chung nhau
mục tiêu là LĐ,QL đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Các bộ phận cấu thành bộ máy LĐ,QL gồm cấp LĐ,QL và khâu
LĐ,QL.
+ Cấp LĐ,QL là các nấc thang khác nhau trong hệ thống phân cấp LĐ,QL. Cấp LĐ,QL là kết quả sự phân chia hệ
thống công việc LĐ,QL theo chiều dọc, theo đó cấp trên phụ trách cấp dưới, cấp dưới trực thuộc cấp trên. Cấp cơ
sở là cấp dưới.
+ Khâu LĐ,QL là các bộ phận khác nhau trong một cấp LĐ,QL. Mỗi khâu LĐ,QL chỉ thực hiện một hoặc một số
công việc LĐ,QL. Mối quan hệ giữa các khâu LĐ,QL trong một cấp là quan hệ phối hợp công tác cùng cấp. Số
khâu trong một cấp phụ thuộc vào mức độ phức tạp của các chức năng mà cấp đó phải đảm nhiệm cũng như quy
mô của đối tượng LĐ,QL mà cấp đó phụ trách.

+Quan hệ giữa các cấp LĐ,QL gọi là quan hệ dọc. Quan hệ giữa các khâu LĐ,QL gọi là quan hệ ngang.
- Khi xây dựng bộ máy LĐ,QL cấp cơ sở cần tuân thủ các yêu cầu sau đây:
+ Xác định rõ số lượng các khâu LĐ,QL sao cho vừa đủ để thực hiện các chức năng LĐ,QL.
+ Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm cho từng khâu LĐ,QL; trong đó đặc biệt chú ý xác định rõ mối quan hệ
qua lại giữa các bộ phận.
+ Các bộ phận LĐ,QL không được đảm nhiệm các nhiệm vụ chồng chéo lẫn nhau.
+ Cơ cấu các bộ phận và mối quan hệ giữa chúng vừa phải đảm bảo tính ổn định tương đối, vừa phải có tính thích
nghi khi điều kiện thay đổi.
+ Cơ cấu tổ chức LĐ,QL phải đáp ứng yêu cầu hiệu lực, hiệu quả.
- Trong thực tế người ta thường tổ hợp các mối quan hệ LĐ,QL cơ bản (trực tuyến và chức năng) theo nhiều cách
khác nhau để hình thành bộ máy LĐ,QL đơn vị.
Hùng Oanh- TV
3


+Quan hệ trực tuyến là phân chia đơn vị thành các cấp khác nhau, trong đó cấp trên LĐ,QL toàn diện cấp dưới, cấp
dưới chỉ trực thuộc một cấp trên
Ưu điểm: của quan hệ này là tập trung quyền LĐ,QL vào một đầu mối và các tuyến LĐ, QL khá rõ ràng, đơn giản.
Nhược điểm: Đòi hỏi quá nhiều ở cán bộ LĐ,QL trực tuyến, dễ làm họ quá tải và LĐ,QL kém chuyên sâu. (Sơ đồ
1)
- Quan hệ chức năng là phân chia hoạt động của một cấp LĐ,QL cho nhiều khâu khác nhau, mỗi khâu chỉ đảm
nhận một hoặc một số chức năng LĐ,QL nhất định, mỗi đối tượng LĐ,QL bên dưới chịu sự quản lý của nhiều khâu
chức năng bên trên.
+ Ưu điểm: Tính chuyên môn hoá sâu của từng khâu LĐ,QL; do đó có thể bao quát quy mô rộng và năng suất cao.
+ Nhược điểm: phối hợp các khâu chức năng rất phức tạp, dễ có tình trạng chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong hành
động của các khâu chức năng.
Sơ đồ 2
Trên thực tế không có cơ cấu kinh tế thuần trực tuyến hoặc thuần chức năng mà thường có sự kết hợp cả quan hệ
trực tuyến và quan hệ chức năng với nhau gọi là cơ cấu trực tuyến – chức năng.
Sơ đồ 3

Để đáp ứng các yêu cầu phức tạp trong việc ra quyết định LĐ,QL người ta có thể bổ sung thêm các bộ phận tham
mưu cho các khâu trực tuyến và chức năng. Ngoài ra, có thể ghép thêm vào cơ cấu chủ các cơ cấu phụ nhằm thực
hiện các chương trình mục tiêu.
* Củng cố, đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy cũ.
Quy trình củng cố, đổi mới cơ cấu tổ chức LĐ,QL của đơn vị thường trải qua 3 bước:
- Bước 1: Phân tích: nếu muốn sữa chữa một cơ cấu cũ thì trong bước phân tích người ta phải tìm ra được điểm
yếu, điểm mạnh, điểm phù hợp và chưa phù hợp của cơ cấu cũ với yêu cầu mới.
- Bước 2: Thiết kế – tức là xác định cụ thể số cấp, khâu LĐ,QL với quyền hạn và trách nhiệm xác định. Xây dựng
quy chế vận hành đơn vị. Xác định biên chế và tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh.
- Bước 3: Vận hành cơ cấu tổ chức LĐ,QL mới: tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ vào các chức danh. Ban
hành quy chế, vận hành thử, điều chỉnh sai sót và chính thức công nhận cơ cấu tổ chức LĐ,QL mới (phê chuẩn của
cấp có thẩm quyền).
c. Hoạt động đối ngoại
Đối ngoại là gì?
Đối ngoại được hiểu ở đây là thiết lập các mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức ngoài đơn vị. Cấp cơ sở có hai
luồng quan hệ đối ngoại cần chú trọng điều chỉnh.
- Thứ nhất: quan hệ công tác với cấp trên. Đây là mối quan hệ chủ đạo. Cán bộ LĐ,QL cấp cơ sở không những
phải cập nhật thông tin từ cấp trên môt cách nhanh chóng và đúng đắn, mà còn phải tăng cường cung cấp thông tin
cho cấp trên dẫn đến các vụ việc gây hậu quả nghiêm trọng do xử lý chậm hoặc do quá thẩm quyền của cơ sở, hoặc
tự cô lập mình dẫn đến lạc hậu so với tình trạng chung.
- Thứ hai: quan hệ với đối tác. Đối tác ở đây là các cơ quan, tổ chức có quan hệ với cơ sở nhưng không theo hệ
thống dọc. Cơ sở phải tranh thủ quan hệ này để duy trì các mối quan hệ phối hợp hiệu quả trong công việc cũng
như để quãng bá cho đơn vị mình.
d. Điều hành và điều chỉnh hoạt động của cấp cơ sở
- Điều hành công việc hàng ngày.
Hoạt động điều hành này phải theo lịch làm việc đã được cân nhắc kỹ lưỡng khi soạn thảo và phải được thông báo
cho các bên có liên quan. Lịch làm việc phải là sự cụ thể hoá theo thời gian tiến độ thực hiện các kế hoạch đã được
vạch ra. Đồng thời cán bộ LĐ,QL cấp cơ sở cần chú trọng thực thi quy trình kiểm tra chất lượng công việc do đơn
vị đảm nhiệm.
Có hai phương pháp quản lý chất lượng công việc là phương pháp Kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) và

phương pháp ISO . Ngày nay phương pháp ISO được sử dụng phổ biến hơn.
Quy trình điều hành còn bao gồm việc ra các quyết định cần thiết. Yêu cầu của một quyết định quản lý phải rõ ràng
có địa chỉ người thi hành và các điều kiện cần thiết. Cán bộ cấp cơ sở có thể ra quyết định theo thẩm quyền cá nhân
hoặc biểu quyết tập thể.
- Điều chỉnh kế hoạch, chương trình hành động khi cần thiết
Do kế hoạch được xây dựng trên cơ sở dự báo với nhiều tham số chưa thể kiểm soát nên có thể không hoàn toàn
trùng lặp với diễn biến thực tế.
Hùng Oanh- TV
4


Các dấu hiệu nhận biết cần điều chỉnh thường là tình trạng quá tải của đơn vị; tình trạng lãng phí trong đơn vị;
nhiệm vụ, yêu cầu có sự thay đổi lớn, nguồn lực được phát hiện thêm hoặc bị rút bớt đi, môi trường hoạt động chịu
biến động lớn…
Phương pháp điều chỉnh phổ biến là sử dụng kế hoạch dự phòng, kỹ thuật phòng tránh rủi ro.
Nguyên tắc điều chỉnh là luôn luôn hướng tới mục tiêu cơ bản, lâu dài của tổ chức để cân đối lại các hoạt động.
3. Thực hiện kiểm tra, đánh giá, khuyến khích, động viên cấp cơ sở.
a. Xây dựng và điều hành chế độ kiểm tra
Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh hoạt động của đơn vị nhằm đảm bảo mọi việc, mọi con người trong tổ chức
đang thực hiện theo đúng kế hoạch đã vạch ra để đạt được mục tiêu.
Để kiểm tra có kết quả, cán bộ LĐ,QL phải thực hiện 3 công đoạn:
- Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra. Đó là các chỉ tiêu đo lương các công việc, các nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch
của đơn vị.
- Đo lường việc thực hiện theo các tiêu chuẩn đã vạch ra là: giám sát, đo lường hoạt động thực tế trong so sánh với
các tiêu chuẩn đã đặt ra để phát hiện sự sai lệch nhằm hành động điều chỉnh kịp thời.
- Điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và kế hoạch. Thông qua hoạt động đo lường, cán bộ LĐ,QL phát hiện
các sai lệch và tiến hành điều chỉnh chúng một cách hợp lý.
Có hai đối tượng cần kiểm tra là công việc và nhân viên. Kiểm tra công việc là xem xét công việc có được hoàn
thành đúng quy trình, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật, số lượng, chất lượng và tiến độ thời gian hay không.
Kiểm tra nhân viên là xem xét nhân viên có hoàn thành nhiệm vụ được giao hay không, hoàn thành đến mức nào,

nguyên nhân không hoàn thành, thái độ đối với công việc, ý thức tổ chức, kỷ luật…
Có nhiều hình thức kiểm tra như kiểm tra phòng ngừa, kiểm tra theo dấu hiệu sai phạm, kiểm tra định kỳ, kiểm tra
đột xuất, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra giám sát…
Để kiểm tra có kết quả tốt, quá trình kiểm tra phải tuân thủ các yêu cầu sau:
- Kiểm tra phải dựa vào kế hoạch hành động của đơn vị và theo yêu cầu công việc.
- Quá trình kiểm tra phải đảm bảo cung cấp thông tin trung thực, khách quan và theo các tiêu chí đo lường thống
nhất.
- Kiểm tra cần chú trọng những khâu, công đoạn trọng tâm
- Kiểm tra phải linh hoạt, phù hợp với bầu không khí của đơn vị và tiết kiệm.
Để quá trình kiểm tra không gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đơn vị, cần hoà nhập với không khí
của bộ phận bị kiểm tra
b. Xây dựng và điều hành chế độ đánh giá.
Đánh giá là gì?
- Đánh giá là đưa ra phán xét tốt, xấu về một công việc nào đó, một bộ phận hay một con người nào đó. Cơ sở của
đánh giá là yêu cầu đối với công việc, chức năng, nhiệm vụ của bộ phận hay cá nhân.
- Nội dung đánh giá bao gồm:
+ Đánh giá công việc
+ Đánh giá con người
- Phương pháp đánh giá: thường theo tiêu chuẩn, theo thang điểm hoặc theo nhận xét của số đông đồng nghiệp.
- Thẩm quyền đánh giá thường giao cho cán bộ quản lý cấp trên trực tiếp hoặc tập thể nơi cá nhân công tác. Cũng
có thể sử dụng đánh giá của khách hàng, đối tác.
c. Xây dựng truyền thống, văn hoá cấp cơ sở.
Môi trường làm việc ảnh hưởng lớn đến tinh thần và qua đó ảnh hưởng đến hiệu suất công tác của cán bộ, nhân
viên. Cán bộ LĐ,QL cơ sở có trách nhiệm xây dựng môi trường làm việc hiệu quả cho phép không chỉ thu hút và
giữ chân người tài, mà quan trọng hơn là cung cấp môi trường cho họ cống hiến hết năng lực của họ. Môi trường
hoạt động hiệu quả thường phải có các tính chất: đoàn kết, chia sẻ, thân thiện, cảm thông và hỗ trợ lẫn nhau.
Đồng thời cán bộ LĐ,QL cơ sở phải quan tâm xây dựng truyền thống tốt đẹp của cơ quan nhằm tạo dựng niềm tự
hào chính đáng cho những người làm việc trong đơn vị cũng như tạo dựng uy tín với đối tác và quần chúng. Muốn
vậy cán bộ LĐ,QL phải chú trọng củng cố các hoạt động thế mạnh của đơn vị, giáo dục tinh thần vì tập thể của
nhân viên, giữ dìn uy tín của cá nhân và đơn vị…

Cán bộ LĐ,QL cần quan tâm, nhân ái, thương yêu nhân viên và quần chúng. Chỉ có nhân cách tốt, cán bộ lãnh đạo
cơ sở mới có đủ uy tín để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Hùng Oanh- TV

5


Bài 2: PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP CƠ SỞ
Câu 1: Trình bày khái niệm và phân loại phong cách lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý?
Phong cách lãnh đạo là một thành tố cơ bản của văn hoá, khoa học, nghệ thuật lãnh đạo. Khi xem xét những
nghiên cứu về phong cách lãnh đạo ở phương Đông và phương Tây chúng ta dễ nhận thấy có sự khác nhau ở cấp
độ và phạm vi:
- Ở phương Tây, việc nghiên cứu phong cách lãnh đạo chủ yếu tập trung ở cấp độ cá nhân người lãnh đạo,
vì họ quan niệm lãnh đạo là hành vi cá nhân khi tác động và định hướng các hoạt động của nhóm.
- Ở Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Việt Nam…nghiên cứu về phong cách lãnh đạo không chỉ đề cập
đến phong cách lãnh đạo của cá nhân người lãnh đạo mà trước hết chú trọng đến phong cách chung, phong cách
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản cầm quyền (phong cách lãnh đạo lêninnít).
Tuy cấp độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau song khi đề cập đến phong cách của cá nhân người lãnh đạo dù ở
phương Tây hay phương Đông vẫn có nhiều điểm chung, thống nhất.
- Các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước có nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách lãnh đạo; có thể
phân chia thành một số hướng tiếp cận sau:
+ Cách tiếp cận coi phong cách lãnh đạo là tác phong lãnh đạo. Các nhà nghiên cứu theo cách tiếp cận này
cho rằng: Phong cách lãnh đạo là tác phong làm việc của người lãnh đạo, là “tổng thể những phương pháp đặc thù
nhất và ổn định nhất nhằm giải quyết những nhiệm vụ tiêu biểu và những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực
hiện chức năng lãnh đạo”.
Tác phong là sự biểu hiện cụ thể của phong cách, song giữa tác phong lãnh đạo và phong cách lãnh đạo khác
nhau ở chỗ, tác phong chỉ là một bộ phận của phong cách, nó mang tính cá nhân nhiều hơn; còn phong cách có tính
xã hội rộng hơn. Trong thực tiễn chúng ta có thể nhận diện phong cách lãnh đạo thông qua những tác phong cụ thể
của người lãnh đạo – tác phong làm việc.

+ Cách tiếp cận coi phong cách lãnh đạo là cách thức lãnh đạo. Theo cách tiếp cận này, phong cách lãnh đạo
được hiểu là hình thức diễn ra một hành động của người lãnh đạo. Cách hiểu này, không thấy được nội dung bên
trong của phong cách lãnh đạo (những yếu tố thuộc về chủ thể lãnh đạo).
+ Cách tiếp cận đồng nhất phong cách lãnh đạo với biện pháp, phương pháp lãnh đạo. Cách tiếp cận này cho
rằng: phong cách lãnh đạo là hệ thống những biện pháp, phương pháp tác động của người lãnh đạo tới tập thể
nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác lãnh đạo.
Phong cách làm việc của người lãnh đạo được thể hiện thông qua biện pháp, phương pháp. Biện pháp hay
phương pháp là một phần không thể thiếu được của phong cách song trong phong cách còn chứa đựng những nội
dung tâm lý của chủ thể có liên quan đến việc sử dụng biện pháp, phương pháp.
Người lãnh đạo sử dụng biện pháp hay phương pháp lãnh đạo này vì lý do nào?
+ Cách tiếp cận phong cách từ hành vi. Cách tiếp cận coi phong cách lãnh đạo là nội dung (mẫu hành vi) là
cách tiếp cận được nhiều người thừa nhận và có giá trị thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu hành vi, chia phong cách làm ba loại: phong cách lãnh đạo độc đoán, phong cách lãnh
đạo dân chủ và phong cách lãnh đạo tự do và cho rằng phong cách lãnh đạo dân chủ là phong cách lãnh đạo thành
công. Kết luận này được nhiều người thừa nhận và vận dụng trong bố trí cán bộ lãnh đạo.
+ Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ tác động qua lại giữa cá tính và môi trường.
Yếu tố cá tính là những đặc điểm tâm lý của người lãnh đạo (tính cách, khí chất, trí tuệ, xu hướng, trình
độ…). Đây là những yếu tố có tính ổn định tương đối.
Yếu tố môi trường ở đây rất rộng. Nó bao gồm trạng thái hiện tại của tổ chức, đặc điểm tâm sinh lý của cấp
trên, người ngang cấp, cấp dưới; thói quen, truyền thống, bầu không khí tâm lý, trình độ nguồn nhân lực trong tổ
chức; những điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước, hệ thống giá trị đạo đức, hệ tư tưởng… những yếu tố
trên luôn chi phối phong cách của người lãnh đạo.
+ Cách tiếp cận khái quát về phong cách lãnh đạo. Theo cách tiếp cận này người ta nhìn nhận phong cách
lãnh đạo dựa trên những đặc trưng bản chất như:
Phong cách lãnh đạo được coi là nhân tố quan trọng trong lãnh đạo quản lý; nó gắn với kiểu người lãnh đạo,
nghệ thuật lãnh đạo.

Hùng Oanh- TV

6



Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện một khoa học và tổ chức của công tác LĐ,QL mà còn thể hiện chí
hướng, tài năng, tính độc đáo, nghệ thuật tác động, ảnh hưởng của người LĐ đến người khác trong hệ thống quản
lý.
Phong cách LĐ là phong cách cá nhân song nó luôn gắn liền với tính lịch sử, tính giai cấp, hệ tư tưởng, giá
trị đạo đức, tâm lý xã hội, truyền thống của cộng đồng dân tộc.
Trong xã hội XHCN tồn tại phong cách LĐ chung và phong cách LĐ cá nhân. Phong cách LĐ chung là
phong cách của Đảng Cộng Sản cầm quyền, nó định hướng, chỉ đạo cho phong cách LĐ của từng cá nhân người
LĐ.
Không có một phong cách LĐ nào là hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu (nhìn ở góc độ nhân văn và hiệu quả)
cũng không có phong cách LĐ nào duy nhất đem lại thành công trong mọi trường hợp. Phong cách LĐ của cá nhân
cũng không phải là cố định mà nó có thể thay đổi.
Cách tiếp cận này cũng được coi là ý kiến thống nhất của nhiều nhà nghiên cứu về phong cách LĐ. Tuy
nhiên, ngoài sự thống nhất trên vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về phong cách LĐ.
Thông thường, mỗi người LĐ trong quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến người khác luôn có ý thức và
hướng “ưu tiên” nhất định khi lựa chọn mục tiêu, cách thức hay biện pháp, lề lối ứng xử trong quá trình thu thập
thông tin, ra quyết sách hay xử lý một tình huống nhất định. Sự định hướng về mục tiêu, lề lối ứng xử, cách thức
hay phương pháp ra quyết sách…được lặp đi lặp lại trở nên ổn định sẽ tạo nên một mẫu hành vi hay một phong
cách hoạt động.
Vì thế, nói đến phong cách LĐ trong việc sử dụng những loại quyền lực, tri thức, trí tuệ và trách nhiệm được
giao. Việc lựa chọn hành vi (phong cách) của người LĐ như thế nào sẽ liên quan đến sự thành công hay thất bại
của người đó và của cả tập thể. Thành công của nhà LĐ phụ thuộc vào sự phù hợp giữa hành vi của người LĐ
(phong cách) với các thành viên của nhóm và tình huống cụ thể.
=>Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý là mẫu hành vi mà người lãnh đạo quản lý lựa chọn
nhằm tác động một cách có hiệu quả đến đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ
lãnh đạo, quản lý đã đề ra.
Câu 2: Phân tích những biểu hiện đặc trưng trong phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở?
1/ Khái niệm về phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.

Phong cách LĐ của cán bộ LĐ,QL cấp cơ sở là mẫu hành vi mà người LĐ,QL lựa chọn nhằm tác động và
làm ảnh hưởng có hiệu quả đến cấp dưới và quần chúng nhân dân tại cơ sở. Nó được biểu hiện qua các tác phong
làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả và thiết thực, đi sâu đI sát quần chúng, tôn trọng và lắng nghe quần chúng,
khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị, năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong.
2/ Những biểu hiện của phong cách lãnh đạo cấp cơ sở (8 biểu hiện).
(1) Tác phong làm việc dân chủ:
Chúng ta hiểu như thế nào là tác phong làm việc dân chủ?
Tức là luôn “lấy dân làm gốc”, mọi việc phải cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
+ Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách LĐ ở cấp xã, nó sẽ khơi dạy được mọi sự
tham gia nhiệt tình và những đóng góp sáng tạo của quần chúng trong việc tạo ra các quyết định, chỉ thị, trong việc
tổ chức thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở cơ sở có hiệu quả.
+ Người cán bộ LĐ,QL cấp cơ sở phải luôn thực hiện nguyên tắc tập thể LĐ (dân chủ), cá nhân phụ trách
(tập trung) nhằm phát huy sức mạnh của cả tập thể và cá nhân người LĐ,QL.
(2) Tác phong làm việc khoa học
Tác phong làm việc khoa học có nghĩa là gì?
Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của phong cách LĐ cấp cơ sở.
Người cán bộ LĐ,QL hiện nay phải có cả “Đức và Tài”, phải có tầm nhìn đúng; trong công tác phải thông
thạo và có tính chuyên nghiệp, có phương pháp khoa học, sáng tạo trong vận dụng lý luận vào thực tiễn, nhạy cảm
với cái mới. Chứ không còn như thời kỳ trước đây người cán bộ LĐ,QL chỉ cần có lòng nhịêt tình, vừa làm vừa thử
sai, đúng. Lênin nói: “Nhiệt tình cộng với ngu dốt bằng phá hoại”.
Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên đòi hỏi người LĐ,QL phảI có năng lực tổ chức, kỹ năng giao tiếp, am
hiểu con người và biết sử dụng đúng người, đúng việc.
(3) Tác phong làm việc hiệu quả, thiết thực.
Hùng Oanh- TV

7


Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tính hiệu quả, thiết thực là tiêu chí đánh giá tài - đức của cán bộ LĐ,
đánh giá sự phù hợp hay không của phong cách LĐ.

Cơ sở là nơi thực hiện hoá, đưa đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào
cuộc sống, vì vậy đòi hỏi tác phong làm việc của người LĐ, QL cấp cơ sở phải đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực
khi đưa ra các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện.
Quá trình làm việc của người LĐ,QL phải được thể hiện ở sản phẩm cuối cùng là các kết quả đạt được mang
tính hiệu quả và thiết thực. Đồng thời, nhu cầu, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân đòi hỏi tính thiết thực hiệu
quả trong quá trình giải quyết. Chính vì vậy, tác phong làm việc hiệu quả, thiết thực cũng là một đặc trưng cơ bản
của phong cách LĐ cấp xã.
(4) Tác phong đi sâu đi sát quần chúng.
Tác phong đi sâu đi sát quần chúng là như thế nào?
Cấp cơ sở là cấp gần dân, sát dân nên LĐ muốn thành công đòi hỏi người LĐ,QL cấp cơ sở phải có phong
cách đi sâu, đi sát quần chúng.
Muốn hiểu được nhu cầu, nguyện vọng, tâm trạng, tình cảm…của nhân dân đòi hỏi người LĐ,QL phải gần
dân, đi sâu đi sát quần chúng, đặt mình vào vị trí của quần chúng, tránh bệnh quan liêu.
Tác phong đi sâu, đi sát quần chúng là đặc trưng riêng biệt của phong cách LĐ cấp cơ sở. Có đi sâu đi sát
quần chúng mới có được tác phong khoa học, dân chủ; tác phong hiệu quả và thiết thực.
(5) Tác phong tôn trọng và lắng nghe ý kiến quần chúng.
Dân là gốc nước, dân là chủ, mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ, sáng tạo đều từ nhân dân mà ra. Chính vì thế tác
phong tôn trọng và lắng nghe quần chúng không chỉ là đặc trưng cơ bản của phong cách LĐ cấp cơ sở, mà còn là
nguyên tắc làm việc, nguyên tắc ứng xử của người LĐ.
Lắng nghe là một việc làm hết sức quan trọng đối với người LĐ. Bởi vì: thông qua việc lắng nghe từ nhân
dân người cán bộ mới thấu hiểu, nắm rõ tâm tư, nhu cầu, nguyện vọng, tư tưởng, tình cảm…của người dân, từ đó
đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với người dân.
Hiện nay cán bộ LĐ,QL đã biết lắng nghe nhân dân chưa? Lắng nghe như thế nào? Hiệu quả ra sao?
Để rèn luyện tác phong làm việc trên, người LĐ,QL cấp cơ sở phảI luôn ghi nhớ lời dạy cuả Bác Hồ.
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
(6) Tác phong khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị.
(7) Tác phong làm việc năng động, sáng tạo.
(8) Tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong.
(Trang 43,44 SGK)

Câu 2: Trình bày phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở cơ sở ? Liên hệ thực tế
1/ Rèn luyện phong cách lãnh đạo (LĐ) lêninnít (sgk trang 46).
2/ Khắc phục phong cách LĐ quan liêu.
- Phong cách lãnh đạo không tự nhiên mà có, nó cũng không không phải là cái gì cố định, chết cứng mà cần
xem xét nó một cách biện chứng như một quá trình luôn luôn biến đổi, phát triển dưới tác động của những điều
kiện khách quan và yếu tố chủ quan. Sự hình thành, phát triển một phong cách lãnh đạo là một quá trình có chủ
đích, có định hướng, đòi hỏi mỗi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải tự rèn luyện, bồi dưỡng mới có được; đặc
biệt là kỹ năng áp dụng linh hoạt, hợp lý các phong cách, thủ thuật lãnh đạo với một đối tượng cụ thể trong một
tình huống cụ thể.
- Chủ nghĩa quan liêu là căn bệnh cố hữu trong quản lý xã hội. V.I.Lênin đã chỉ rõ: Kẻ thù bên trong tệ hại
nhất của chúng ta chính là căn bệnh quan liêu.
- Phong cách lãnh đạo quan liêu là phong cách tách rời quyền hành khỏi quỳên lợi và nguyện vọng tập thể,
xem thường thực chất sự việc, trốn tránh trách nhiệm, làm việc không theo nguyên tắc và những quy định của pháp
luật đùn đẩy trách nhiệm, hậu quả xấu cho cấp trên hoặc cấp dưới, duy trì đẳng cấp, đặc quyền đặc lợi.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những biểu hiện của phong cách lãnh đạo quan liêu là:
" Đối với người:...Không biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm dân chúng tự giác, tự động
Đối với việc: Chỉ biết khai hội, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp
đỡ, khuyến khích, kiểm tra.
Hùng Oanh- TV

8


Đối với mình: Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đường, làm một nẻo. Chỉ biết
lo cho mình, không biết quan tâm đến nhân dân, đồng chí.
Một vẻ quan liêu nữa là chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn
muốn nhân dân phụng sự mình.
Tham ô, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt "Quan cách mạng".
- Lý luận và thực tiễn cũng chỉ rõ phong cách quan liêu còn có những biểu hiện:

+ Khuynh hướng cứng nhắc, cơ cấu tổ chức nhiều tầng.
+ Kéo dài, ngâm việc trong thực hiện nhiệm vụ, làm việc thiết kế hoạch, thiếu tiến độ, thụ động chờ đợi chỉ
thị cấp trên.
+ Nhỏ nhặt trong quan hệ với người dưới quyền và can thiệp vô căn cứ vào công việc của họ.
+ Đầu óc thủ cựu, giấy tờ phiền phức, nhũng nhiễu dân chúng. Thái độ thờ ơ với yêu cầu thực tế trong quản
lý nhà nước và của cán bộ đảng viên.
- Để khắc phục phong cách quan liêu, trước tiên cần làm rõ nguyên nhân của nó. Nếu xét trong mối quan hệ
với cấp dưới, Hồ Chí Minh cho rằng vì xa cách quần chíng, không hiểu biết quần chúng, không học hỏi quần
chúng và sợ quần chúng phê bình. Nếu xét ở góc độ tâm lý học thì nguyên nhân dẫn đến quan liêu là do tư duy
máy móc, tính nguyên tắc cứng nhắc, sính quyền lực, động cơ, nhu cầu thăng tiến không đúng đắn. Mặt khác, còn
do trình độ chuyên môn, quản lý, trình độ chính trị thấp; hạn chế về năng lực lãnh đạo, quản lý; lập trường chính trị
chưa vững vàng, lệch lạc về quan điểm lãnh đạo, quản lý.
- Muốn khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau:
+ Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hình thành ý thức và tâm lý xã hội chống phong
cách quan liêu không chỉ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý mà trong toàn xã hội.
+ Xây dựng cơ sở pháp lý chống phong cách lãnh đạo quan liêu.
+ Hoàn thiện thể chế lãnh đạo, quản lý trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí chức danh;
quy định sự tương ứng giữa chức vụ, thẩm quyền và trách nhiệm.
+ Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội để khắc phục phong cách quan liêu. Tăng cường vai
trò kiểm soát của nhân dân.
+ Xây dựng văn hóa lãnh đạo, tăng cường thực hiện pháp chế và trật tự pháp luật cho mỗi cán bộ, công chức.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những giải pháp nêu ra ở trên cần được tiến hành đồng bộ, gắn liền với
những nội dung cải cách hành chính, nhất là cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy và quá trình chuyên nghiệp hóa đội
ngũ cán bộ, công chức nói chung và cấp cơ sở nói riêng.
Phong cách lãnh đạo là do tổng thể những phẩm chất nhân cách của người lãnh đạo quyết định phần lớn.
Chẳng hạn, những phẩm chất chính trị cao là cơ sở của phong cách có tính nguyên tắc của Đảng; những phẩm chất
công tác cao quyết định nếp nghĩ và sự thông thạo công việc: năng lực tổ chức tạo ra mối liên hệ thường xuyên với
quần chúng... Chính vì thế để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở ngoài giải pháp khắc phục phong cách quan liêu cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp khác.
3/ Tăng cường rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng – chính trị cho đội ngũ cán bộ LĐ,QL cấp cơ sở.

Những phẩm chất tư tưởng – chính trị là linh hồn sống của người lãnh đạo, có vai trò định hướng cho hoạt
động của người lãnh đạo, là cơ sở của phong cách lãnh đạo có tính nguyên tắc đảng, định hướng xã hội chủ nghĩa,
thống nhất giữa lời nói với việc làm, lý luận với thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần chúng.
Đề cập đến vấn đề này, V.I. Lênin đã nhiều lần nnhấn mạnh: tư tưởng – chính trị là nội dung, là mặt cơ bản
trong phong cách lãnh đạo. Người cho rằng, đường lối chính trị đúng nguyên tắc đảng là đường lối đúng đắn, khoa
học và hiệu quả. Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở một khi có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định
với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ có tầm nhìn, quan điểm đúng trong lãnh đạo, có khả năng chống lại
những biểu hiện tiêu cực của bản thân và của người khác như chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, chủ nghĩa hình thức... Tuy nhiên, muốn có lập trường tư tưởng – chính trị vững vàng, có tầm
tư duy chính trị đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải thường xuyên học tập nghiêm túc lý luận chính trị.
Một khi có tư duy chính trị phát triển người lãnh đạo mới có khả năng nhìn nhận, giải quyết mọi vấn đề trong
nhiệm vụ của mình dưới giác độ chính trị, bằng quan điểm chính trị.
Liên hệ mật thiết với dân chúng, với cấp dưới là đặc điểm cũng là yêu cầu quan trọng nhất trong rèn luyện,
đổi mới phong cách lãnh đạo cấp cơ sở theo hướng dân chủ khoa học và thiết thực. Theo quan điểm của V.I. Lênin
đây là điều kiện chủ yếu nhất và quyết định thành công của bất kỳ hoạt động nào vì thế người lãnh đạo, quản lý
theo Người phải: sống trong đời sống của công nhân, hiểu quần chúng, những nhu cầu thực sự, nguyện vọng, tâm
Hùng Oanh- TV
9


tư của quần chúng trên bất kỳ vấn đề nào và vào bất kỳ thời điểm nào, biết xác định không chút mập mờ trình độ
giác ngộ của quần chúng, đáp ứng một cách ân cần nhu cầu của quần chúng.
Hồ Chí Minh trong nhiều tác phẩm của mình cũng đã nhấn mạnh yêu cầu liên hệ mật thiết với quần chúng
trong công tác của người lãnh đạo, quản lý bởi vì chỉ như vậy mới nắm bắt đúng thực tiễn, mới đưa ra được những
quyết định đúng đắn và phòng ngừa được bệnh quan liêu.
Thực hiện liên hệ mật thiết với quần chúng còn là cơ sở để thực hiện nguyên tắc dân chủ trong lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở; thực hiện yêu cầu chính trị và tư tưởng vô cùng quan trọng để đảm bảo cho quần chúng thực sự
tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đòi hỏi người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở phải biết
kết hợp linh hoạt giữa chế độ dân chủ với chế độ thủ trưởng trong công tác của mình.
4/ Rèn luyện những phẩm chất tâm lý - đạo đức của người LĐ.

Những phẩm chất tâm lý – đạo đức là cơ sở tạo nên cái riêng trong phong cách của người lãnh đạo bao gồm
tính trung thực, độc lập, kiên quyết, cương nghị và linh hoạt, đòi hỏi cao, thái độ ân cần, lịch thiệp, sự nhạy bén,
sáng tạo. Những phẩm chất này được biểu hiện hàng ngày trong hoạt động, trong phong cách làm việc của người
lãnh đạo và gắn liền với hiệu quả làm việc.
Hệ thống những mối quan hệ qua lại giữa người lãnh đạo với quần chúng rất đa dạng và tạo nên nội dung
chủ yếu về tâm lý – đạo đức trong phong cách lãnh đạo. Trong tổ chức, người lãnh đạo không chỉ cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ, nghiêm khắc đối với bản thân, sử dụng hợp lý thẩm quyền được giao mà còn phải luôn chú trọng
tạo dựng uy tín cho bản thân và có ý thức thúc đẩy người khác thực hiện các nhiệm vụ được giao. Trong quan hệ
với cấp dưới, với quần chúng, người lãnh đạo không chỉ dựa trên cơ sở vị trí, sử dụng những mối quan hệ chính
thức mà còn phải chú trọng xây dựng mối quan hệ không chính thức, phải hiểu rõ tâm lý của quần chúng. Thực
tiễn cho thấy nếu người lãnh đạo cấp cơ sở có kỹ năng hiểu biết nhu cầu, tâm lý quần chúng sẽ dễ dàng lựa chọn
được những cách thức phù hợp để động viên hay phê bình, phát huy tinh thần tự giác, tích cực của quần chúng.
Đặc biệt trong những tình huống cụ thể có thể cảm thông, chia sẻ, bỏ qua được một số đặc điểm tâm lý hay trạng
thái tâm lý chưa phù hợp với cấp dưới và quần chúng.
Cùng với sự trưởng thành về mặt tâm lý, trình độ và đạo đức ứng xử của người lãnh đạo nhất là đối với quần
chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nêu ra một số tiêu chuẩn để người lãnh đạo chú ý rèn luyện như: tính
đòi hỏi cao và giữ nguyên tắc; sự tế nhị, lịch thiệp và tự chủ trong giao tiếp; sự khiêm tốn và chân thành.
Ngoài những tiêu chuẩn trên, người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cần thường xuyên rèn luyện đạo đức cách
mạng – cần, kiệm, liêm chính. Biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng mà xã hội trông chờ ở người lãnh đạo là
trong hành động luôn lấy sự nghiệp chung, lợi ích chung làm trọng.
5/ Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ LĐ, QL cấp cơ sở để
rèn luyện, đổi mới phong cách LĐ.
Trong phong cách lãnh đạo những đặc điểm về mặt nghiệp vụ - tổ chức có vị trí hết sức quan trọng vì nó
phản ánh hoạt động của người lãnh đạo.
Để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo theo hướng dân chủ, khoa học, thiết thực đòi hỏi người lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở phải chú trọng rèn luyện để có được quan điểm khoa học, tính tổng hợp, tầm nhìn xa, kỹ năng tổ
chức, kiểm tra và giám sát.
Trong số những yêu cầu cần rèn luyện những phẩm chất trên thì vấn đề hình thành quan điểm quản lý khoa
học, sự thông thạo công việc có vị trí hành đầu. Tất nhiên để có quan điểm đúng, khoa học về con người, về công
tác lãnh đạo trước tiên đòi hỏi phải dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác –

Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phải được học tập nghiêm túc về khoa học lãnh đạo, khoa học quản lý. Từ năm
1920, V.I. Lê nin đã chỉ rõ vai trò quan trọng của khoa học quản lý và khẳng định: làm sao có thể quản lý được nếu
không thông thạo quản lý, nếu thiếu kiến thức đầy đủ, không biết khoa học quản lý. Mặt khác, Người còn chỉ rõ
đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo Lêninnít không chỉ sử dụng sáng tạo những thành tựu khoa học mà còn
thường xuyên tổng kết, nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm thực tiễn. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc
tế hiện nay đòi hỏi người lãnh đạo cấp cơ sở không chỉ có kiến thức, kỹ năng quản lý giỏi mà còn phải biết phân
quyền đúng đắn và hợp lý, biết xây dựng cơ chế phù hợp trong việc ra quyết định và thông qua quyết định quản lý.
Một yêu cầu không thể thiếu được đối với người lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay trong công tác phải
chú trọng rèn luyện kỹ năng đánh giá và sử dụng đúng cán bộ, kỹ năng đổi mới kỹ thuật và đổi mới tổ chức. Toàn
cầu hóa, phát triển kinh tế thị trường đã mở rộng và làm gia tăng tính phức tập và đa dạng của môi trường lãnh
đạo, chính vì thế, để có phong cách lãnh đạo thực sự đổi mới, người lãnh đạo cấp cơ sở cần phải tiếp thu và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo những thành tựu của khoa học lãnh đạo hiện đại; hình thành những kỹ năng lãnh đạo hiện
Hùng Oanh- TV
10


đại; đảm bảo tính hiệu quả trong công tác. Không phải ngẫu nhiên các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng, để lãnh
đạo thành công đòi hỏi người lãnh đạo phải tháo vát, nhạy bén, có kỹ năng diễn tiến về mặt kinh tế, văn hóa...
6/ Rèn luyện, đổi mới phong cách LĐ thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới và hội nhập khu vực quốc
tế.
Để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở của nước ta hiện
nay không chỉ dừng ở cấp độ đổi mới nhận thức hay đổi mới thái độ mà còn đổi mới ở cấp độ hành vi. Theo các
nhà tâm lý học, việc thay đổi các thuộc tính tâm lý hay một đặc điểm cá tính nào đó của nhà lãnh đạo là rất khó
khăn, song thay đổi hành vi, thay đổi phong cách lãnh đạo thì có thể được nếu như có những thời điểm, bối cảnh
phù hợp. Chính vì thế thông thực tiễn đổi mới, thực tiễn hội nhập khu vực và quốc tế cũng là biện pháp có hiệu
quả để rèn luyện, đổi mới phong cách.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, cải cách hành chính, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa
thời gian qua ở Việt Nam cho thấy sự mở rộng, phức tạp và đa dạng hóa môi trường lãnh đạo đã đặt ra yêu cầu cấp
thiết cho người lãnh đạo phải rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo theo các yêu cầu sau đây:
- Người lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành phải kiên trì với định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội

nhập.
- Người lãnh đạo, quản lý phải đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn.
- Phải có tri thức rộng và sâu, khả năng dự báo, dự đoán tốt.
- Phải có các kỹ năng lãnh đạo đáp ứng.
- Phải sử dụng đúng đắn các biện pháp quản lý trong điều kiện dân chủ hóa gia tăng.
- Khả năng thu thập, xử lý thông tin.
- Năng lực tổ chức thực hiện...
Từ thực tiễn đổi mới, hội nhập sẽ giúp cho người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở tự ý thức được sự hạn chế, thiếu
hụt của bản thân để có kế hoạch học tập, rèn luyện. Mặt khác, thông qua môi trường biến đổi, phức tạp đã giúp
người lãnh đạo phải linh hoạt; phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chú trọng luyện đức – tài để đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn.
BÀI 3: KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ.
Câu 1: Nêu khái niệm và các yêu cầu cơ bản của quyết định lãnh đạo, quản lý? Liên hệ thực tiễn.
1. Quyết định LĐ,QL là kết quả của hoạt động LĐ,QL.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau giữa LĐ và QL; nhưng chúng vẫn có sự tương đồng, đó là: cả LĐ và QL
đều phục vụ chung một mục đích, cả LĐ lẫn quản lý gần như đan xen nhau và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, LĐ
luôn đi trước một bước để vạch đường, chỉ lối, có cách nhìn chiến lược.
Hình thức của LĐ và QL chủ yếu là ra các quyết định LĐ,QL bằng văn bản phù hợp với các yêu cầu của
thực tiễn đề ra.
Khái niệm: Quyết định LĐ,QL là sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành
theo một trình tự, thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…;
nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo định hướng nhất định.
2. Các yêu cầu cơ bản của quyết định LĐ,QL cấp cơ sở.
Để ra một quyết định đúng, có tính khả thi, đuợc quần chúng nhân dân ủng hộ; quyết định LĐ,QL cấp cơ sở
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Bảo đảm tính chất chính trị
Quyết định LĐ,QL cấp cơ sở là sự cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn của địa phương cơ sở, là sự
cụ thể hoá các quyết định quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền
cơ sở theo quy định của pháp luật ở địa phương cơ sở. Vì vậy, nghị quyết của đảng bộ cơ sở và quyết định quản lý

của chính quyền cơ sở không được trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Bảo đảm tính hợp pháp
Hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cấp cơ sở được đặt trong khuôn khổ pháp luật, vì vậy các
quyết định LĐ,QL cấp cơ sở phải phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Ban hành quyết định LĐ,QL đúng hình thức và thể thức quy định.
+ Về hình thức: các quyết định LĐ, QL cấp trên phải đúng tên gọi và hình thức thể hiện chủ yếu bằng văn
bản.
Hùng Oanh- TV
11


+ Về thể thức: phải đúng tiêu đề, tiêu ngữ, số, ký hiệu, ngày, tháng, năm ban hành và hiệu lực, chữ ký, con
dấu…
Vi phạm các quy định về hình thức, thể thức có thể dẫn đến hậu quả là làm cho quyết định LĐ,QL trở thành bất
hợp pháp.
- Bảo đảm tính hợp lý: tính hợp lý của quyết định LĐ,QL thể hiện:
+ Quyết định LĐ,QL khi ban hành phải đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân.
+ Quyết định LĐ,QL phải cụ thể và phù hợp đáp ứng được các yêu cầu của đời sống xã hội và đối với các
đối tượng thực hiện.
Một quyết định LĐ,QL phải cụ thể và đáp ứng được các yêu cầu của đời sống xã hội đặt ra và với các đối
tượng thực hiện. Một quyết định LĐ,QL có tính khả thi cao khi được ban hành đúng lúc, phù hợp với yêu cầu
LĐ,QL ở địa phương cơ sở. Tình trạng trì trệ, kéo dài hoặc nóng vội trong nghiên cứu ra quyết định LĐ,QL thì
không những mang lại hiệu quả mà thậm chí còn gây ra những thiệt hại cho Nhà nước, xã hội và công dân phải
gánh chịu.
Quyết định LĐ,QL phải mang tính hệ thống toàn diện. Nội dung quyết định LĐ,QL phải được cân nhắc, tính
hết các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; phải căn cứ vào chiến lược, Nghị quyết của đảng, các mục tiêu
phát triển ngắn hạn, dài hạn của nhà nước. Các biện pháp đề ra trong quyết định LĐ,QL phải phù hợp, đồng bộ với
các biện pháp trong các quyết định có liên quan.
- Bảo đảm kỹ thuật ban hành quyết định LĐ,QL: ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày một quyết định
LĐ,QL phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác, không đa nghĩa.

Câu 2: Phân tích kỹ năng ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo quản lý cấp cơ sở? liên hệ
thực tiễn.
Để ra được các quyết định LĐ,QL đúng đắn, có tính khả thi và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế cần chú ý
tới một số kỹ năng sau:
1/ Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thông tin.
Để ra được một quyết định LĐ,QL phù hợp; cán bộ, công chức lãnh đạo cấp cơ sở cần phải thu thập thông
tin cần thiết, kiểm tra độ tin cậy và chính xác của thông tin.
Thông tin đến với LĐ cấp cơ sở qua nhiều kênh đó là: tiếp nhận từ cấp trên chỉ đạo xuống cơ sở; tự thu thập,
khai thác thông tin bằng cách: điều tra, nắm bắt tình hình thực tiễn ở cơ sở…)
Do vậy, trước khi ban hành một quyết định LĐ,QL cần nghiên cứu nắm vững những thông tin sau đây như:
các nghị quyết, chỉ thị, thông tư, văn bản của cấp trên trực tiếp có liên quan; số liệu điều tra, tình hình thực tiễn tại
cơ sở.
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gần nhân dân và giải quyết những vấn đề thực tế đặt ra ở địa phương. Vì vậy, việc
LĐ cấp cơ sở trực tiếp tìm hiểu thông tin về tình hình thực tế cơ sở là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nắm bắt
thông tin không kịp thời dẫn đến việc ra những quyết định LĐ,QL xa rời thực tế, hiệu lực không cao.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, người cán bộ LĐ cấp cơ sở cũng phảI chú ý tới việc cập nhật
và khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: Internet, báo chí, truyền hình…
Việc khai thác và sử dụng thông tin cho việc ra quyết định ở cơ sở có thể từ các nguồn tin như: Các cán bộ
công chức đã nghỉ hưư, già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố. Nhưng chính bản thân cán bộ LĐ,QL
cấp cơ sở mới là người lựa chọn thông tin cuối cùng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của
người LĐ,QL là một yêu cầu hết sức quan trọng.
2/ Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định.
Các sai lầm cần tránh trong việc soạn thảo và ra quyết định LĐ,QL:
Một là: Không nắm vững các yêu cầu thực tế, giải quyết vấn đề một cách chung chung, không đủ chính xác,
rõ ràng, cụ thể, có thể hiểu và làm khác nhau.
Hai là: quá tin vào tham mưu, người dự thảo, không xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, không lắng nghe hết ý
kiến người tham gia, người phản biện hay quá tin vào những hiểu biết chủ quan của mình đi đến việc ra những
quyết định LĐ,QL một cách phiến diện, chủ quan.
Ba là: Ra quyết định LĐ,QL mang tính chất thoã hiệp, nể nang, dựa dẫm cấp trên một cách thụ động, không
có tính sáng tạo, không tự chịu trách nhiệm.

Bốn là: Ra quyết định LĐ,QL không đúng thẩm quyền, không đủ căn cứ pháp lý; quyết định có nội dung
trùng lặp, chồng chéo ngay trong bản thân quyết định hoặc với các quyết định đã ra trước đó.
3/ Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL.
Hùng Oanh- TV
12


Lập kế hoạch là một khâu trong chu trình LĐ,QL. Trong quy trình tổ chức thực hiện quyế định LĐ,QL cấp cơ sở,
lập kế hoạch là bước đầu tiên trong quy trình tổ chức thực hiện quyết định và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm
bảo hiệu quả thực hiện quyết định trên thực tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện quyết định LĐ,QL phải
được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khâu của chu trình thựuc hiện quyết định.
* Nếu người LĐ có kỹ năng lập kế hoạch thì nó được thể hiện ở các yếu tố sau:
+ Việc tư duy có hệ thống tiên liệu được các tình huống trogn hoạt động LĐ,QL.
+ Biết phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức một cách hữu hiệu hơn.
+ Biết tập trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức.
+ Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức để phối hợp với các nhà LĐ,QL khác.
+ Sẵn sàng ứng phó và giải quyết nhanh chóng với các tình huống đặt ra trong quá trình thực hiện quyết định
LĐ,QL.
+ Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
* Trình tự lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL như sau:
+ Bước 1: Xác định mục tiêu yêu cầu của việc thực hiện quyết định.
+ Bước 2: Xác định nội dung việc thực hiện quyết định.
+ Bước 3: Xác định địa bàn, đối tượng, thời gian thực hiện quyết định.
+ Bước 4: Xác định phương pháp thựuc hiện quyết định
+ Bước 5: Xác định phương pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định
4/ Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định LĐ,QL.
Khi kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL đã được đặt ra thì bất cứ bất cứ đối tượng chịu sự LĐ,QL đều phải
thực hiện nghiêm chỉnh.
Kỹ năng này giúp cho người LĐ kiểm soát được quá trình thực hiện quyết định LĐ,QL đang được diễn ra
thế nào, từ đó

5/ Kỹ năng xử lý tình huống trong LĐ,QL.
Để giải quyết tốt các tình huống trong hoạt động LĐ,QL, người LĐ chú ý những vấn đề sau:
+ Chỉ đạo triển khai giải quyết một cách chủ động theo kế hoạch đã xây dựng trước.
+ Những phát sinh mới nằm ngoài dự liệu cần có ngay những phương hướng giải quyết nhằm ngăn chặn và
xử lý kịp thời những sai phạm phát sinh trong quá trình thực hiện quyết định.
+ Thực hiện đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của Đảng.
6/ Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo
Để thực hiện tốt công tác này người LĐ cần thực hiện đúng các yêu cầu sau:
+ Nắm được các quy định pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo kể cả
về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giảI quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Nắm được các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc thù gắn với thực tế địa phương.
Những kỹ năng cần trau dồi và thực hiện tốt đó là:
+ Kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.
+ Kỹ năng giao tiếp của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ nói chung và tiếp nhận khiếu
nại, tố cáo nói riêng.
+ Kỹ năng phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
+ Kỹ năng xác minh, xem xét và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Bài 4: KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN, THUYẾT PHỤC
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP CƠ SỞ
Câu 1: Phân tích các loại câu mở đầu và câu kết luận cho bài phát biểu trước công chúng của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở? Lấy ví dụ minh họa cho mỗi loại câu đó?
1/ Các loại câu mở đầu:
- Chào hỏi. vd: Chào anh!
- Giới thiệu bản thân: vd: Tôi là NVA-Chủ tịch UBND xã X.
- Giới thiệu sơ lược về vấn đề (nêu ngắn gọn xúc tích những vấn đề mình muốn nói để người nghe có sự
chuẩn bị tâm lý) vd:
2/ Các loại câu kết luận
- Nêu lên những vấn đề trọng tâm (nhắc lại). vd:
- Kích thích yêu cầu mọi người làm theo những lời người phát biểu đã nói. Vd:
Hùng Oanh- TV

13


- cảm ơn họ đã chú ý lắng nghe. Vd:
Câu 2: Phân tích những thủ thuật nhằm tái lập và tăng cường sự chú ý của công chúng đối với bài phát biểu
của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
Trong quá trình trình bày, do tác động của một nguyên nhân khách quan, sự chú ý của người ngheo có thể bị suy
giảm. Trong trường hợp này, người nói phải phát hiện những dấu hiệu đó thông qua việc quan sát thái độ, hành vi
của người nghe và chủ động tìm cách khắc phục. Dựa trên những quy luật tâm - sinh lý, người ra đưa một số kỹ
xảo, thủ thuật sau mà người diễn thuyết có thể sử dụng để tái lập và tăng cường sự chú ý:
+ Cử chỉ, vận động và sự kết hợp chúng với các thủ thuật khác. Chẳng hạn, có thể rời bục giảng tiến gần về
phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục nói.
+ Thủ thuật âm thanh: nói to lên hoặc nói nhỏ đi (gần như nói thầm)
+ Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, băng ghi hình và kết hợp các phương tiện đó
với phương tiện ngôn ngữ.
+ Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt các câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời.
+ Hài hước: Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp gây cười như: chơi chữ, nói lái, nói thiếu,
nói tước bỏ ngữ cảnh, kỹ thuật tương phản hoặc kể một câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi
phục lại sự chú ý.
(bổ sung thêm phần ghi tập oanh)
Câu 3: Phân tích những năng lực cần thiết của người cán bô LĐ, QL ở cơ sở khi thực hiện bài phát biểu trước
công chúng.
(Viết lời dẫn ở phần tập ghi)
Trong quá trình diễn thuyết, người nói tác động đến người ngheo chủ yếu thông qua hai kênh: kênh ngôn ngữ và
kênh phi ngôn ngữ (mối quan hệ người người nghe – người nói cũng được thực hiện bằng kênh này).
- Kênh ngôn ngữ (Có tài liệu gọi là cận ngôn ngữ, tức là những yếu tố đi liền với ngôn ngữ). Khi dùng kênh ngôn
ngữ có thể sử dụng các yếu tố như ngữ điệu, cường độ, âm lượng, nhịp độ lời và sự ngừng giọng...để tạo ra sự hấp
dẫn cho bài nói.
+ Ngữ điệu của lời nói phải phong phú, biến hóa, có sự vận động của âm thanh, tránh cách nói đều đều, đơn điệu,
buồn tẻ.

+ Cường độ lời nói (nói to hay nói nhỏ) cần phù hợp với khuôn khổ kích thước của hội trường, số lượng và đặc
điểm người nghe. Cần điều chỉnh cường độ lời nói đủ để người ngồi xa nhất có thể nghe được.
+ Nhịp độ lời nói (nói nhanh hay nói chậm) do nội dung bài nói, tình huống và không gian giao tiếp, khả năng
hoạt động của tư duy và sự chú ý của người nghe quy định.
+ Ngừng giọng cũng là yếu tố của kỹ năng sử dụng kênh ngôn ngữ trong diễn thuyết. Việc sử dụng kỹ năng ngừng
giọng là để nhấn mạnh tầm quan trọng, tạo ra sự tập trung chú ý của người nghe đối với một vấn đề nào đó.
- Kênh phi ngôn ngữ (có tài liệu gọi là kênh tiếp xúc cơ học hay các yếu tố về hành vi). Kênh này bao gồm các
yếu tố như tư thế, vận động và cử chỉ, nét mặt, nụ cười...chúng là những yếu tố được quy định bởi phong cách và
thói quen cá nhân.
+ Tư thế đứng trước công chúng: phải tự nhiên, linh hoạt. Trong suốt buổi nói chuyện diễn thuyết phải có vài lần
thay đổi tư thế để người nghe không cảm thấy mệt mỏi, nhưng cũng không nên thay đổi tư thế nhiều.
+ Cử chỉ và diện mạo: phải phù hợp với ngữ điệu của lời nói và cảm xúc, với sự vận động của tư duy và tình cảm.
Nét mặt, nụ cười, ánh mắt có thể truyền đạt hàng loạt các cảm xúc: niềm vui hay nỗi buồn, sự kiên quyết hay nhân
nhượng, sự khẳng định hay nghi vấn...mà nhờ nó người nói gieo được lòng tin, sự hào hứng vào tâm hồn, trí tuệ
người nghe.
Các yếu tố trên đây tác động lên thị giác của người nghe và đồng thời có tác dụng nâng cao hiệu quả tri giác thông
tin của họ. Chúng còn được kết hợp phù hợp với tính chất nội dung thông tin và với các yếu tố ngôn ngữ để nâng
cao chất lượng bài phát biểu.
- Một số cách nói thu hút sự chú ý và gây ấn tượng đối với người nghe khi diễn thuyết:
+ Tăng hàm lượng thông tin bằng cách xử lý tốt lượng dư thừa của ngôn ngữ diễn đạt.
+ Tăng sức hấp dẫn của thông tin bằng cách sử dụng yếu tố bất ngờ, cách trình bày độc đáo.
+ Sử dụng một số biện pháp ngôn ngữ như: dùng từ láy, ẩn dụ, câu đảo đổi, câu đối chọi...và các biện pháp tu từ
ngữ âm như: biện pháp hòa bình đối thanh điệu, biện pháp lặp số lượng âm tiết, lặp vần, biện pháp tạo nhịp điệu...
+ Trình bày cái cụ thể xen kẽ cái trừu tượng, trình bày sự kiện xen kẽ các khái niệm, phạm trù quy luật.
Hùng Oanh- TV

14


+ Nắm vững nghệ thuật sử dụng các con số. Có thể sử dụng kỹ năng để làm cho một số nhỏ thành số lớn hoặc

ngược lại làm cho một số lớn thành số nhỏ; hoặc so sánh số đó với số khác để làm bật ý nghĩa của con số đang sử
dụng.
+ Phát biểu theo kiểu ngẫu hứng, thoát ly đề cương.
- Thủ thuật tái lập sự chú ý
Trong quá trình trình bày, do tác động của một nguyên nhân khách quan, sự chú ý của người ngheo có thể bị suy
giảm. Trong trường hợp này, người nói phải phát hiện những dấu hiệu đó thông qua việc quan sát thái độ, hành vi
của người nghe và chủ động tìm cách khắc phục. Dựa trên những quy luật tâm - sinh lý, người ra đưa một số kỹ
xảo, thủ thuật sau mà người diễn thuyết có thể sử dụng để tái lập và tăng cường sự chú ý:
+ Cử chỉ, vận động và sự kết hợp chúng với các thủ thuật khác. Chẳng hạn, có thể rời bục giảng tiến gần về
phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục nói.
+ Thủ thuật âm thanh: nói to lên hoặc nói nhỏ đi (gần như nói thầm)
+ Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, băng ghi hình và kết hợp các phương tiện đó
với phương tiện ngôn ngữ.
+ Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt các câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời.
+ Hài hước: Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp gây cười như: chơi chữ, nói lái, nói thiếu,
nói tước bỏ ngữ cảnh, kỹ thuật tương phản hoặc kể một câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi
phục lại sự chú ý.
- Kỹ năng trả lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại.
+ Việc trả lời các câu hỏi của người nghe là công việc bình thường của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là trong điều
kiện dân chủ hóa và tăng cường các phương pháp đối thoại với quần chúng.
+Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thiết phải trả lời câu hỏi của quần chúng và tạo điều kiện, giành thời gian trong mỗi
lần nói chuyện để họ được hỏi về những vấn đề mà họ quan tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích chưa
rõ.
Các kỹ năng cần thiết khi trả lời câu hỏi:
+ Trả lời rõ ràng, đúng, trúng yêu cầu của câu hỏi.
+ Lập luận có cơ sở khoa học, có căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật lôgíc và phương pháp chứng minh, lời
nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với quan hệ và giao tiếp.
+ Có thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người nghe tự trả lời câu hỏi của mình thông qua việc trả lời câu hỏi gợi ý
của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
+ Có thể trả lời ngay hoặc hẹn vào một thời điểm khác (cuối giờ, cuối buổi, hoặc sang ngày khác nếu còn tiếp tục

nói chuyện) để có thêm thời gian chuẩn bị trả lời. Nếu xét thấy khó trả lời thì tìm cách nói để người hỏi thoải mái,
thông cảm. Không nên trả lời những vấn đề mà mình chưa nắm vững.
+ Nếu người nghe đưa ra nhiều câu hỏi quá thì có thể tìm cách hạn chế bớt phạm vi vấn đề của các câu hỏi.
+ Từ chối những câu hỏi liên quan đến lợi ích quốc gia hoặc hướng dẫn họ gặp những người có trách nhiệm.
Tóm lại: Để trả lời những câu hỏi khó, phức tạp, đỏi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phản ứng nhanh
về cách trả lời và phải thường xuyên tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, có sự hiểu biết rộng, sâu sắc về văn
hóa chung và có kinh nghiệm tốt về văn hóa đối thoại.
Câu 4 : Khái niệm công tác dân vận của Đảng ta? Nêu và phân tích những nội dung cơ bản công tác
dân vận của tổ chức cơ sở Đảng đối với khu dân cư.
* Khái niệm công tác dân vận của Đảng : Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ các hoạt động của
Đảng nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân , được thể hiện bằng việc vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng , chính sách pháp luật của Nhà nước thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các
tổ chức đảng, chính trị- xã hội, vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ.
* Nội dung cơ bản công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng đối với khu dân cư:
Xã , phường là nơi cộng đồng dân cư trực tiếp làm chủ xã hội và cuộc sống gia đình. Để tiến hành công tác
dân vận cần nắm chắc tình hình cấu tạo dân cư, từng hộ gia đình và nêu cao chế độ nhân dân tự quản nhất là ở địa
bàn thôn , ấp, buôn, bản, tổ dân phố.
Để thực hiện tốt công tác dân vận ở khu dân cư, tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các nội dung.
- Tuyên truyền, phổ biến mọi chủ trương, chính sách pháp luật đến mỗi người dân. Khắc phục tình trạng
chủ trương chính sách mới dùng lại ở cấp xã, không xuống tới dân, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng
giáo dân. Bên cạnh việc phát triển hệ thống thông tin, truyền thanh, sách báo, cần phát huy mọi lực lượng đảng
Hùng Oanh- TV
15


viên, đoàn viên, giáo viên, lực lượng vũ trang, an ninh,…và nhất là hoạt động của mặt trận và các đoàn thể làm
công tác tuyên truyền trực tiếp.
- Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; thực hiện tốt các
chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, dân số kế hoạch hóa gia đình; đẩy mạnh các phong trào sản xuất
giỏi, giữ gìn trật tự trị an, khắc phục các tệ nạn xã hội, thực hiện xanh, sạch, đẹp đường phố, xây dựng nông thôn

mới… mục tiêu của các phong trào ở địa bàn dân cư là : Sớm xóa đói giảm nghèo, mọi nhà no ấm, sớm xóa mù
chữ, phổ cập, không ngừng nâng cao dân trí; bảo đảm xóm làng, đường phố đoàn kết, yên vui, mọi gia đình hòa
thuận, hạnh phúc.
- Thực hiện tốt chế độ nhân dân tự quản ở thôn , ấp, tổ dân phố. Phát huy tốt hoạt động của các chức danh
trưởng thôn(ấp), tổ trưởng dân phố, các già làng, trưởn bản, xây dựng và tổ chức hoạt động tốt các tổ chức tự quản
như: tổ hòa giải, tổ an ninh nhân dân, ban thanh tra nhân dân, các loại sinh hoạt truyền thống mang đậm bản sắc
dân tộc.
- Tăng cường lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể, đổi mới tổ chức và các hoạt động trên các hướng: nâng cao
chất lượng đoàn viên, hội viên; mở rộng các hình thức tập hợp đa dạng theo nghề nghiệp, nhu cầu, sở thích và các
hoạt động phong phú, sinh động. Phấn đấu mỗi đoàn thể đều tập hợp được đa số người trong giới của mình, đặc
biệt quan tâm lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cốt
cán của các đoàn thể; tọa điều kiện về cơ sở vật chất và giúp các đoàn thể xây dựng quỹ hoạt động của mình.
Câu 5: bài tập tình huống
- Mô tả tình huống:
Con đường vào thôn A xã B không được thẳng tắp như các thôn khác vì có một đoạn vòng qua bờ ao nhà ông X,
năm 2009 xã thoả thuận với gia đình ông X cắt 1/3 diện tích ao để nâng cấp, làm đường cho thẳng, gia đình ông đã
đồng ý và làm thủ tục cắt phần diện tích đó cho xã.Tháng 10/2011 xã phát động phong trào nâng cấp, làm đường
các thôn, xóm đã tập trung làm, chỉ còn mỗi xóm ông X chưa làm được vì gia đình ông không có điều kiện để tát
ao và kè đá đoạn đường đó, các hộ dân xung quanh nằm trên trục đường rất bức xúc và nói năng rất nặng nề đến
gia đình ông X, rồi cứ cho nước bẩn thải vào ao của ông X. Trong khi, vẫn có đường thoát nước bẩn ra nơi khác và
họ có đơn thư khiếu nại lên UBND xã, đề nghị Chủ tịch xã phải giải quyết để họ có con đường đẹp để tổ chức hội
làng vào tháng tới.
(Nguồn: Học viện hành chính quốc gia: Tiếp dân và dân vận (sách dùng cho giảng viên). Cẩm nang đào tạo chủ
tịch xã, phường, thị trấn, Nxb chính trị quốc gia, HN, 2005.)
- Kịch bản:
Ông X: Đang ngồi ở nhà một mình uống trà
Chủ tịch xã: Cắp cặp đến nhà ông X
- Diễn xuất:
Chủ tịch xã: Chào ông
Ông X: Vâng, Chào anh, anh đến có việc gì đấy?

Chủ tịch xã: Tôi vừa nhận được đơn thư của các hộ xung quanh nhà ông tố cáo về việc ông không thực hiện yêu
cầu của thôn, xóm để cải tạo đường rồi tôi đi thẳng xuống đây luôn.
Ông X: Đúng rồi, tôi cũng đang có đơn để gửi lên yêu cầu anh giải quyết vì chúng nó rất láo, tôi 70 tuổi đầu rồi
mà chúng còn xúc phạm tôi.
Chủ tịch xã: Nhưng ông thấy đấy, ông đã sai rồi còn gửi đơn lên tôi để làm gì nữa, tôi không có trách nhiệm giải
quyết việc họ xúc phạm ông đâu.
Ông X: Anh nói vậy mà nghe được à! (Giọng như quát)
Chủ tịch xã: Ông đừng nói nhiều nữa, tôi là chủ tịch xã, tôi có quyền yêu cầu ông thực hiện ngay việc tát ao, kè đá
để xóm làm đường. (Cao giọng)
Ông X: Nhưng gia đình tôi đang gặp khó khăn
Chủ tịch xã: (ngắt lời ông X), Không nhưng gì hết. Ai mà chả khó khăn, ông không thực hiện thì đừng có trách tôi
vô tình vô nghĩa đấy? Chào ông (đứng lên ra về).
- Yêu cầu: Đồng chí hãy nhận xét cách làm của Chủ tịch xã? Theo đồng chí để thuyết phục ông X chủ tịch xã cần
phải làm gì?
- Kết luận:
(1) Cách làm của ông chủ tịch là chưa phù hợp:
Hùng Oanh- TV

16


+ Không nên vừa nhận đơn xuống gặp thẳng đối tượng mà chưa tìm hiểu về đối tượng, chưa chuẩn bị các thông tin
để cung cấp cho đối tượng
+ Nêu ra ngay vấn đề đối tượng đang bức xúc
+ Thái độ, cử chỉ, giọng nói chưa phù hợp
(2) Để thuyết phục ông X chủ tịch xã cần:
- Chuẩn bị:
+ Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình ông X
+ Chuẩn bị thông tin cần thiết
- Trong cuộc đến thăm:

+ Động viên, khen ngợi gia đình ông X về việc ủng hộ đất làm đường, đề nghị gia đình tiếp tục phát huy tinh thần
đó.
+ Cung cấp thông tin cho ông X về chủ trương làm đường giao thông nông thôn: kinh phí, mục đích, lợi ích...
+ Thái độ cần: Nhẹ nhàng, bình tĩnh, phân tích, thuyết phục
Câu 6: Nêu và phân tích những quy tắc cơ bản của gặp gỡ trực tiếp.
* Khái niệm : Gặp gỡ trực tiếp là quá trình mà cán bộ lãnh đạo , quản lý trực tiếp gặp mặt đối tượng để
tuyên truyền, vận động , thuyết phục về một vấn đề nào đó.
Gặp gỡ trực tiếp là một trong những phương thức có hiệu quả, có tác động rất lớn trong tuyên truyền, vận
động, thuyết phục từng người dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước.
* Phân tích những quy tắc cơ bản trong gặp gỡ trực tiếp: Có 06 quy tắc
- Trước khi gặp gỡ cần chuẩn bị tốt nội dung, tài liệu, nắm vững những thông tin cần thiết về đối tượng
và lập kế hoạch tiếp cận, gặp gỡ.
Cần chọn thời điểm gặp gỡ thích hợp với đối tượng để cuộc gặp gỡ có hiệu quả.
- Bắt đầu quá trình gặp gỡ không nên nêu ra những vấn đề hóc búa, nhạy cảm.
Một cán bộ lãnh đạo , quản lý có kinh nghiệm , am hiểu về tâm lý, có kỹ năng giao tiếp thường bắt đầu
cuộc gặp gỡ với đối tượng từ những vấn đề đơn giản, vấn đề mà đối tượng thích thú, dễ chấp nhận, dễ giải quyết.
Nên bắt đầu ngay vào những điểm đối lập thì sự ngăn cách , bất đồng sẽ ngày càng lớn.
- Khi xuất hiện các quan điểm đối lập phải phân ra mức độ và và tính chất khác nhau để có đối sách
tương ứng.
Phải biết họ phản đối hoàn toàn hay chỉ phản đối một khía cạnh, một phần , một vấn đề; phản đối quyết
liệt , gay gắt hay chỉ qua loa. Phải biết khai thác các quan điểm tương đồng và mở rộng dần sự tương đồng đó, hạn
chế đến mức tối đa sự phản đối. Có thể chia nhỏ vấn đề phản đối thành những vấn đề nhỏ hơn để thuyết phục dần.
- Khi dùng lý lẽ khó thuyết phục có thể thay đổi cách tác động bằng con đường tình cảm hoặc thông qua
các kênh khác. Chẳng hạn , đề nghị đối tượng xem một băng phóng sự truyền hình ngắn hoặc đọc một cuốn sách
nhỏ, một tài liệu ngắn về vấn đề cần vận động, thuyết phục.
- Khi kết thúc cuộc gặp gỡ phải cảm ơn đối tượng đã nghe, đã trao đổi và ủng hộ quan điểm của mình.
Cũng có thể cảm ơn sự giúp đỡ của đối tượng bằng một bức thư hoặc bằng cách gọi điện thoại vào thời điểm sau
đó.
- tài liệu dùng khi gặp gỡ: khi gặp gỡ đối tượng có thể sử dụng tờ rơi , tờ phát, bản tin ngắn , các tài liệu
trực qua để đối tượng đọc, xem, nhờ đó đối tượng thay đổi quan điểm, thái độ nhanh chóng hơn…

BÀI 5 : KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
Câu 1/ Trình bày khái niệm, phân loại thông tin trong LĐ,QL
Thông tin trong LĐ,QL là gì?
- Định nghĩa:Thông tin trong LĐ,QL (gọi tắt là thông tin quản lý) là sự truyền đạt các thông điệp, tin tức có liên
quan đến hệ thống quản lý, được người nhận hiểu rõ ý nghĩa của thông điệp mà người gửi muốn truyền đạt, có tác
dụng giúp thực hiện các mục tiêu LĐ,QL.
* Phân tích định nghĩa:
- Thứ nhất: xét về hình thái vật chất và dưới dạng tĩnh, thông tin quản lý là: những thông điệp, tin tức, có thể là một
sản phẩm hữu hình. (Ví dụ: Một báo cáo, chỉ thị, một cuốn sách, một tập tư liệu hay một bức ảnh); cũng có thể là
một sản phẩm vô hình (Ví dụ: một mệnh lệnh miệng, một tin đồn).
Như vậy, hình thức thể hiện của thông tin rất phong phú, đa dạng. Nói cách khác, mỗi một thông tin đều phải ký
gửi nội dung vào một “vật mang” nhất định.
Hùng Oanh- TV
17


Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, vật mạng thông tin ngày càng đa dạng, phong phú và gắn liền với sự
phát triển của ngành kỹ thuật điện tử và công nghệ thông tin.
- Thứ hai: thông tin luôn gắn liền với sự vận động của nó.
Ví dụ: một báo cáo phải có người tiếp nhận như: đọc hoặc nghe.
Một tài liệu phải có người đọc, một tin đồn phải có người nghe hoặc xử lý.
Do vậy. Thông tin được quan niệm dưới dạng động như một quá trình truyền đạt từ người phát tin đến người nhận
tin.
Sơ đồ: diễn trình thông tin (trang 113)
Diễn trình thông tin bao gồm thông tin truyền xuôi với 6 bước và thông tin phản hồi (thông tin ngược) cũng với 6
bước.
+ Quá trình truyền thông tin xuôi:
. Bước 1: hình thành thông điệp dưới dạng ý tưởng, suy nghĩ ở người gửi thông tin.
. Bước 2: ý tưởng, thông điệp quản lý được mã hoá bằng các hình thức thích hợp. Người gửi thông tin lựa chọn các

hình thức thể hiện ý tưởng khác nhau (Ví dụ: lời nói, chữ viết, ký hiệu, quy ước); sau đó thực hiện việc mã hoá vào
các vật mang thông tin (Ví dụ: lời nói, gọi qua điện thoại, viết lệnh ra giấy).
. Bước 3: Truyền tin: thông tin đã được mã hoá truyền qua môi trường đến người nhận.
. Bước 4: người nhận tiếp nhận thông tin dưới dạng mã hoá, nhưng chưa đảm bảo chắc chắn là người nhận đã hiểu
rõ được thông tin.
Ví dụ: nhận công văn, nghe thông tin qua điện thoại hoặc tại cuộc họp.
. Bước 5: Người nhận giải mã thông tin để hiểu được đúng ý tưởng thông điệp của người gửi.
. Bước 6: sau khi giải mã người nhận mới có thể tiếp nhận được thông điệp.
+ Quá trình phản hồi thông tin
Sau khi người nhận tiếp nhận thông tin, người tiếp nhận thông tin cần phải phản ánh sự tiếp nhận này cho người
gửi. Quá trình này được gọi là thông tin phản hồi và cũng có 6 bước.
Trong quá trình truyền đạt thông tin, luôn có các yếu tố cản trở hoặc làm sai lạc thông tin. Người cán bộ LĐ,QL
phải nắm chắc quá trình truyền tin và các yếu tố cản trở thông tin để đảm bảo thông tin được nhanh chóng, chính
xác, kịp thời.
- Thứ 3: thông tin gắn với các hình thức giao tiếp trong hoạt động LĐ,QL
Chúng
ta
biết,
thông
tin

sự
truyền
đạt
các
hình
thức
giao
tiếp
(Ví dụ: Giao tiếp trực tiếp, gián tiếp và trung gian). Do đó, Tuỳ theo tính chất, đặc điểm, tầm quan trọng của thông

tin mà người cán bộ phảI lựa chọn hình thức truyền đạt thông tin cho phù hợp.
Ví dụ: Nghị quyết của Đảng uỷ xã cần lựa chọn hình thức truyền đạt bằng lời kết hợp bản in nghị quyết tại một
cuộc họp. Còn thông tin đánh giá cán bộ dưới quyền nên được trao đổi trong những cuộc gặp mặt riêng.
@ So sánh thông tin với tin tức
Thông tin quản lý có phải là tin tức hay không?
Giống nhau: Thông tin và tin tức đều là thông điệp, tin tức
Thông tin quản lý khác với tin tức.
Tin tức
Thông tin quản lý
- Phản ánh rộng rãi cho mọi đối tượng mà không cần quan tâm - Dù dưới hình thức nào thì thông tin quản lý
cụ thể là ai, họ đã nhận được hay chưa và họ có hiểu nội dung đòi hỏi cũng phải có người gửi, người nhận và
của thông tin đó hay không.
xử lý thông tin.
Do đó, đòi hỏi người cán bộ LĐ,QL khi tiếp nhận hoặc truyền đạt thông tin luôn phải biết loại bỏ những tin tức
không phảI là thông tin, xác định rõ người gửi và người nhận, đảm bảo quá trình truyền đạt thông tin đến được
người nhận.
2/ Phân loại thông tin quản lý.
Việc nghiên cứu phân loại thông tin quản lý có ý nghĩa rất lớn.
- Về mặt lý thuyết: phân loại thông tin giúp nghiên cứu kỹ đặc điểm, tính chất và khả năng sử dụng của từng loại
thông tin cũng như giúp nhà quản lý cách nhìn nhận có hệ thống, toàn diện về thông tin quản lý.
- Về mặt thực tiễn: phân loại thông tin giúp các cán bộ LĐ,QL nắm vững các hình thức thông tin, ưu, nhược điểm
của chúng và những nguyên tắc sử dụng các hình thức và kênh thông tin khác nhau nhằm đạt hiệu quả quản lý cao
nhất.
Có rất nhiều cách phân loại thông tin quản lý, thông dụng nhất là những cách sau đây:
Hùng Oanh- TV
18


@ Theo hình thức thể hiện của thông tin.
Theo cách này có các thông tin sau:

- Thông tin lời nói: là hình thức thông dụng được sử dụng phổ biến trong các hệ thống quản lý. Theo các công trình
nghiên cứu, có 70% thông tin chỉ thị của cấp trên xuống cấp dưới được thực hiện bằng lời nói.
+ ưu điểm: truyền đạt nhanh, hiệu quả truyền đạt cao
+ Nhược điểm: thiếu chuẩn xác, kém tính pháp lý; nếu chuẩn bị thông tin không kỹ và tổ chức truyền thông tin
không tốt có khi lại phản tác dụng.
- Thông tin chữ viết (văn bản): cũng là hình thức được sử dụng rộng rãi.
+ ưu điểm: rõ ràng, tránh sai lạc và có thể kiểm soát được (giấy trắng, mực đen); người nhận và người gửi đều có
điều kiện nghiên cứu kỹ thông tin; có thể truyền đạt nhanh và thống nhất cho nhiều người ở những địa điểm khác
nhau.
+ Nhược điểm: thông tin thường soạn thảo rất lâu, mất nhiều thời gian, sự tiếp thu thường không đồng đều do trình
độ nhận thức khác nhau, nếu cần xử lý thông tin ngược để đi đến thống nhất sẽ mất nhiều thời gian.
- Thông tin phi ngôn ngữ như: cử chỉ, hành vi, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt…hoặc dùng những phương tiện khác
nhau để truyền tín hiệu thông tin đa dạng như: hình ảnh, sơ đồ, ký hiệu, quy ước hoặc thời gian và không gian cũng
được con người sử dụng như những phương tiện thông tin.
@ Theo chiều của thông tin trong hệ thống quản lý.
Theo tiêu chí này, có thông tin chỉ thị (thông tin xuống dưới) và thông tin báo cáo (thông tin lên trên), thông tin
ngang và đan chéo.
Trong một hệ thống quản lý, thông tin toả đi theo nhiều hướng khác nhau: xuống dưới, lên trên và đan chéo.
- Thông tin xuống dưới là thông tin chỉ thị của cấp trên xuống cấp dưới, thường rất được chú trọng. Nhưng nếu đó
là xu hướng áp đảo trong hệ thống thông tin thì sẽ dẫn đến tình trạng mất dân chủ trong quản lý và gây ra nhiều
hậu quả xấu.
- Thông tin dưới lên là những thông tin báo cáo, góp ý, kiến nghị, khiếu nại, phản ánh…Thông tin dưới lên đảm
bảo tính chất dân chủ của tổ chức. Nhiều người cho rằng: một hệ thống thông tin có hiệu quả phải kết hợp cả hai
chiều: xuống dưới và lên trên.
- Thông tin cũng truyền đi theo chiều ngang, đó là thông tin giữa những người cùng cấp hay ở các cấp tổ chức
tương đương và theo đường chéo bao gồm những người ở các cấp khác nhau mà họ không ở trong các mối quan hệ
trực tuyến với nhau.
@ Phân biệt thông tin chính thức và thông tin không chính thức
Thông tin được chia theo tiêu chí này thành thông tin chính thức và không chính thức.
- Thông tin chính thức: là thông tin được phát đi theo những quy định của tổ chức chính thức. Thông tin chính thức

gắn liền với chức năng của hệ thống quản lý và nó bảo đảm tính thống nhất của hệ thống. Do vậy, thông tin chính
thức mang tính bình đẳng trong truyền đạt và tiếp nhận.
- Thông tin không chính thức là những thông tin được hình thành và lan truyền theo các quan hệ không chính thức.
Do vậy, nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các tổ chức không chính thức bên trong và bên ngoài hệ thống
quản lý.
Trong những thập kỷ gần đây khoa học quản lý rất chú ý đến các tổ chức không chính thức và thông tin không
chính thức.
Thông tin không chính thức có một số đặc điểm rất đáng chú ý:
+ Là dạng thông tin được hình thành và truyền đạt một cách tự nhiên trong tổ chức. Thông tin không chính thức
tạo nên dư luận trong tổ chức. Do vậy, không thể dùng ý chí chủ quan để loại trừ nó.
+ Tốc độ truyền đạt nhanh, thậm chí nhanh hơn kênh chính thức.
+ Sức thuyết phục cao vì nó được truyền đạt rất tự nhiên và thường được truyền đạt trong nhóm có quan hệ tin cậy.
Khi bị cấm đoán, sức thuyết phục của thông tin không chính thức càng tăng mạnh.
+ Dễ bị bóp méo trong quá trình truyền tin
Nếu như thông tin chính thức tạo nên sự thống nhất cho tổ chức thì thông tin không chính thức tạo nên dư luận.
Thông tin không chính thức có vai trò nhất định trong tổ chức (cả lợi và hại) nên người quản lý phải biết sử dụng
thông tin không chính thức phục vụ cho mục đích của tổ chức. Trong trường hợp cần thiết, cũng cần biết sử dụng
những hình thức thích hợp để loại trừ hoặc hạn chế tác động xấu của loại thông tin này.
@ Theo quan hệ với hệ thống
Theo cách phân loại này, có thông tin bên trong và thông tin với bên ngoài.
Hùng Oanh- TV
19


- Thông tin bên trong (thông tin nội bộ) là những thông tin phục vụ cho bản thân công tác quản lý, bảo đảm tính
thống nhất, hiệu quả, hiệu lực của tổ chức. Nhiều thông tin bên trong mang tính chất bí mật với các cấp độ bảo mật
khác nhau.
Nhà nước ta đã có những quy định về chế độ quản lý, sử dụng thông tin mật cần phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật.
- Thông tin với bên ngoài bao gồm: thông tin từ môi trường vào tổ chức và thông tin từ tổ chức ra môi trường.

Trong điều kiện hiện nay, mảng thông tin này ngày càng phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của tổ chức.
Ví dụ: Đối với một doanh nghiệp thì thông tin từ bên ngoài về thị trường, về các đối thủ cạnh tranh, về chính sách,
về sự phát triển của khoa học công nghệ giúp doanh nghiệp xác định đúng chiến lược và sách lược phát triển.
Thông tin từ doanh nghiệp ra môi trường như thông tin quảng cáo, tiếp thị có tác dụng bảo vệ và nâng cao uy tín,
thị phần và hiệu quả của doanh nghiệp.
Hoặc một địa phương muốn phát triển kinh tế cũng cần phải tổ chức nhiều kênh và hình thức thông tin mang tính
quảng cáo, tiếp thị cho địa phương, giới thiệu tiềm năng, lợi thế, thiện chí mời gọi đầu tư
Câu 2: Trình bày các kỹ năng thu thập, xử lý thông tin trong LĐ,QL của cán bộ LĐ, QL ở cơ sở.
1. Kỹ năng thu thập thông tin (sgk 114-120)
2. Kỹ năng xử lý thông tin (sgk 120-126)
Trình bày mqh giữa dữ liệu và thông tin.
Câu 3: Phân tích thông tin luôn gắn liền với quyền lực của người lãnh đạo, quản lý hiện nay.
* Thông tin là gì: Thông tin là những tri thức được sử dụng để định hướng, tác động tích cực và để điều
khiển nhằm duy trì tính đặc thù về chất, hoàn thiện và phát triển hệ thống.
* Thông tin trong lãnh đạo quản lý: Là sự truyền đạt các thông điệp, tin tức có liên quan đến hệ thống
quản lý, được người nhận hiểu rõ ý nghĩa của thông điệp mà người gửi muốn truyền đạt, có tác dụng thực hiện các
mục tiêu lãnh đạo quản lý.
Phân tích :
Hoạt động lãnh đạo quản lý luôn gắn liền với thông tin. Thông tin vừa được coi như hệ thần kinh, vừa được
coi như hệ tuần hoàn của hoạt động lãnh đạo quản lý. Đối với hoạt động của người lãnh đạo , quản lý, thông tin
vừa là đối tượng lao động , vừa là nguyên liệu đầu vào, vừa là hình thức thể hiện sản phẩm lao động.
Để hoạt động lãnh đạo , quản lý có hiệu quả, hiệu lực cao, người cán bộ cần phải có kỹ năng thu thập, xử lý
thông tin.
Vấn đề quan hệ giữa thông tin và quyền lực được C.Barnard nghiên cứu trong tác phẩm Chức năng của
người quản lý. Khi bàn về vai trò của thông tin quản lý, ông cho rằng: thông tin là yếu tố cơ bản giúp duy trì sự
thống nhất giữa mục đích và hành động của tổ chức; dó đó bất cứ một người LĐ nào muốn duy trì quyền lực của
mình và quyền lực của tổ chức, duy trì sự thống nhất hành động của hệ thống, đều phải sử dụng thông tin như một
phương tiện, một công cụ của quyền lực.
Trên bình diện toàn bộ xã hội, người ta đã coi việc nắm giữ thông tin đại chúng là “quyền lực thứ tư” và

trong thời đại hiện nay nhiều khi quyền lực thứ tư của hệ thống truyền thông đại chúng còn mạnh hơn những
quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp, tư pháp trong cơ cấu tam quyền phân lập.
Trong lĩnh vực kinh tế hiện nay, những ngành nào sử dụng thông tin nhiều, sản phẩm có “ hàm lượng
thông tin” cao đều trở thành những ngành có lợi nhuận cao và vai trò ngày càng quan trọng.
Như vậy, trong hệ thống quản lý ,người lãnh đạo nào nắm giữ được hệ thống thông tin, người đó sẽ có
quyền lực.
a/ Thông tin vừa là đối tượng, vừa là nguyên liệu đầu vào, vừa là hình thức thể hiện sản phẩm của
lao động LĐ,QL.
Người cán bộ, khi thực hiện các công việc LĐ,QL trên tất cả các chức năng như: dự báo, kế hoạch, tổ chức, chỉ
huy, điều phối, kiểm tra, đều phải thu thập, xử lý thông tin. Các tư liệu thông tin như: báo cáo, dữ liệu thực tế, chỉ
thị được coi như đối tượng mà người cán bộ phải xử lý hàng ngày.
Nếu quan sát lao động của người cán bộ LĐ,QL như một quá trình xử lý thông tin, ta thấy: đầu vào của quá trình
lao động là những thông tin mà người cán bộ cần xử lý, còn đầu ra của quá trình lao động này là những quyết định,
công văn, chỉ thị, tờ trình cũng là những sản phẩm dưới dạng thông tin.
Chính vì vậy, thông tin vừa được coi như hệ thống tuần hoàn, vừa được coi như hệ thống thần kinh của công tác
LĐ,QL.
Hùng Oanh- TV
20


b/ Thông tin có giá trị ngày càng cao, đóng góp ngày càng nhiều vào giá trị của tổ chức.
Trong thời đại thông tin hiện nay, bản thân thông tin có giá trị ngày càng tăng cao. Trong chiến tranh, ai nắm được
thông tin, đặc biệt là thông tin của kẻ thù, người đó có khả năng chiến thắng. Ngạn ngữ cổ cũng đã có câu: “Biết
địch, biết ta trăm trận trăm thắng”
Ví dụ: ở địa phương, cơ sở thì các thông tin về chăn nuôi, trồng trọt, giống lúa, hoa mầu, thời vụ rất quan trọng
với bà con.
Chính vì vậy, thông tin có giá trị ngày càng tăng nên cán bộ LĐ,QL phảI biết đánh giá, phân loại thông tin. Ví dụ:
có thông tin cần phải tuyên truyền rộng rãi; những cũng có những thông tin phải bí mật. Cần phải xử lý sao cho
có lợi nhất.
BÀI 6: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI Ở CẤP CƠ SỞ.

Câu 1: Phân tích các kỹ năng trong quy trình xử lý điểm nóng chính trị xã hội. Theo đồng chí, trong quy
trình đó, kỹ năng nào là quan trọng nhất.
1- Bước một: Tiếp cận điểm nóng (quan trọng nhất)
Nắm tình hình, phân tích nguyên nhân, mâu thuẫn, nhận dạng điểm nóng: Khi điểm nóng nổ ra, để có căn
cứ cho những giải pháp đúng thì việc nắm tình hình có ý nghĩa quyết định. cần có thông tin chính xác về các mặt:
Số lượng quần chúng tham gia biểu tình, chống đối, thành phần tham gia, đối tượng tham gia, hình thức tổ chức
lực lượng… Họ nêu những yêu sách gì? những yêu sách ấy phải do cơ quan nào giải quyết?...
Ai là người đứng đầu? số lượng những người quá khích? Những âm mưu và thủ đoạn?. Họ có quan hệ và
được sự chỉ đạo của các lực lượng phản động trong nước và ngoài nước hay không?
Phương thức nắm tình hình có thể thông qua chính quyền, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở, dựa vào dân,
bằng nghiệp vụ chuyên mon của cơ quan công an…Cần phải bám sát địa bàn, thông tin kịp thời diễn biến đẻ tổng
hợp lập phương án xử lý.
Trên cơ sở đó, đánh giá nguyên nhân phát sinh điểm nóng: Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhan trực tiếp Sự phân
định nguyên nhân nêu trên chỉ có tính tương đối, vì giữa chúng có quan hệ và chuyển hoá lẫn nhau.
Sau khi phân tích nguyên nhân cần xác định mâu thẫn đó chứa đựng đối kháng hay không đối kháng, mâu
thuẫn nội bộ nhân dân hay mâu thuẫn giữa ta và địch. Nếu xác định sai mâu thuẫn thì toàn bộ nhận thức và hành
động sẽ sai lầm, điểm nóng không được giải quyết mà còn bùng phát lên. Đây là bước có ý nghĩa quyết định, vì nó
cung cấp những căn cứ cho những giải pháp đúng trong quá trình xử lý. Những thông tin cần phải có là: - Tính
chất, quy mô, hình thức đấu tranh , yêu sách của quần chúng. - Lực lượng tổ chức, cầm đầu. - Ai, cấp nào có trách
nhiệm giải quyết những yêu sách của quần chúng.
2- Bước hai: rút ngòi nổ, hạn chế ảnh hưởng xấu và sự lan toả sang nơi khác.
- Thiết lập được sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, phát huy hiệu lực của Htct để giữ vững quyền lực chính
trị.
- Lựa chọn phương thức giải quyết- những lực lượng và phương tiện cần thiết. Phương thức : Tuyên truyền,
thuyết phục hay đàn áp, hoặc kết hợp cả hai phương thức trên. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Việc lựa chọn các phương thức và lực lượng là để giải tán đám đông quần chúng; là để có đối sách với
những người cầm đầu đám đông quần chúng
Để thực hiện bước này, trước hết phải thiết lập được sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, có hiệu lực của hê
thống chính trị để giữ vững quyền lực chính trị trong quá trình xử lý. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Trong quá

trình xử lý điểm nóng, không bao giờ trao quyền cho một lực lượng khác. Lúc này cần phải có người chỉ huy,
người đứng đầu có uy tín, bản lĩnh, có phương pháp đúng và có khả năng sử dụng được các lực lượng của hệ thống
chính trị. Thông thường, nên cử đồng chí đứng đầu cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp, có thể là những đồng chí
thường trực, thường vụ Đảng uỷ.
Tiếp theo là lựa chọn phương thức giải quyết, những lực lượng và phương tiện phù hợp. Cần phải trả lời
các cấu hỏi, có thể giáo dục, thuyết phục hay trấn áp? Dùng các cơ quan bạo lực ( quân đội, Công an) hay lực
lượng quần chúng? Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như thế nào? Cần lưu ý là không để phương tiện
thông tin đại chúng lọt vào tay lực lượng chống đối.
Để giải tán đám đông quần chúng, phải xem xét: nếu yêu sách quần chúng đúng, cần cam kết thực hiện yêu
sách . Đồng thời, tranh thủ lôi kéo, phân hoá răn đe, cô lập người cầm đầu. Trong trường hợp thật cần thiết, phải
dùng lực lượng Công an và quân đội để giải tán đám đông.
Hùng Oanh- TV

21


Đối sách với ngưòi cầm đầu cần thương lượng và sử dụng nghệ thuật thương lượng, kết hợp vạch mặt, cô
lập nếu người cầm đầu là kẻ xấu. Trong trường hợp cần thiết có thể bắt kẻ cầm đầu nhưng bắt phải hợp pháp, hợp
lý, để tình hình không trầm trọng thêm.
Trong quá trình này cần chú ý một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, kiên định nguyên tắc, mềm dẻo linh hoạt về phương pháp, biện pháp (dĩ bất biến ứng vạn biến).
Thứ hai, Cần chọn các giải pháp tốt nhất, sau mới đến các giải pháp ít tốt hơn (thượng sách, trung sách, hạ
sách). Những giải pháp tốt hơn là những giải pháp ít phải sử dụng bạo lực.
Thứ ba, nếu là điểm nóng do mâu thuẫn địch – ta (thù địch) thì kịch bản duy nhất là ta thắng, địch thua.
Nếu là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì chon kịch bản " thắng - thắng" tức là chính quyền cũng thắng mà dân
cũng thắng, mỗi bên đều đạt được những mục tiêu cơ bản trên tinh thần xây dựng .
Thứ tư, phải tuân thủ nguyên tắc hợp pháp, hợp lý, hợp tình.
Thứ năm, trong bất kỳ tình huống nào cũng phải dựa vào sự lãnh đạo cuả Đảng, phải tin dân và phải dựa
vaò quần chúng nhân dân.
3- Bước ba: Khắc phục hậu quả sau khi điểm nóng đã được dập tắc.

Thứ nhất, phải đưa xã hội nơi xảy ra điểm nóng trở lại bình thường: hệ thống chính trị, cơ sở sản xuất kinh
doanh, Bệnh viện, trường học, các dịch vụ công cộng, các công trình phúc lợi xã hội… Thứ hai, phải tập trung sự
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở khắc phục những thiệt hại vè người và của (nếu
có). Thứ ba, tứng bước xác định trách nhiệm của các bên thì tiến hành xử lý vi phạm từ tất cả các phía; củng cố,
thay thế, bổ sung sàng lọc đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
4- Bước bốn: rút kinh nghiệm, dự báo tình hình, áp dụng những biện pháp để điểm nóng không tái
phát.
Khi tiến hành rút kinh nghiệm cần phải đánh giá lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, qua điểm nóng bộc lộ rõ năng
lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ. cũng cần đánh giá lại hệ thống tổ chức quyền lực (bộc lộ những mặt mạnh, mặt
yếu qua điêm nóng).
Đánh giá phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, những thiếu sót bất cập trong chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật Nhà nước. Cần khách quan đánh giá lại cơ sở chính trị - xã hội của Đảng trong quần chúng: 1) Ai là lực
lượng thật sự chống quan liêu tham nhũng? 2) Ai là lực lượng bị kích động, lôi kéo chống chính quyền? Đồng thời
khi tổng kết rút kinh nghiệm cần dự báo tình hình và áp dụng các giải pháp để điểm nóng không tái phát.
Để công tác dự báo có kết quả cần dự báo theo những thông số thu nhập đuợc về các mặt kinh tế-xã hội;
theo những kịch bản nhât định, kể cả những kịch bản xấu nhất. Cũng cần dự báo các phương thức xử lí nếu đỉem
nóng tái phát.
Qua phân tích ở phần trên chúng ta có thể thấy rằng, xung đột xã hội là hiện tuợng trong đời sống xã hội.
Giải quyết, giải toả và quản lí tốt xung đột xã hội không sinh ra những tình huống chính trị-xã hội hoặc điểm nóng
chính trị-xã hội. Mặc dù vậy, các tình huống chính trị- xã hội và điểm nóng chính trị- xã hội, dù không muốn vẫn
sẽ là một hiện tượng tồn tại trong đời sống xã hội và đời sống chính trị, đạc biệt là xẫ hội còn phân chia giai cấp,
còn những khác biệt về lợi ích, còn bất bình đẳng trong quá trình hiện thực hoá các lợi ích, trong thụ huởng những
thành qủa phát triển chung và phúc lợi xã hội. Điểm nóng chính trị- xã hội còn là một hiện tượng gắn liền vói
những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế-xã hội, khi mà sự phát triển vuợt ra ngoài tầm kiểm soát của
Nhà nuớc và xã hội,v.v… Tính chất, qui mô, hình thức biểu hiện, phuơng thức xử lý của các xung đột xã hội, cũng
như các điểm nóng chính trị, xã hội rất đa dạng muôn hình, muôn vẻ. Do vậy, khi có điểm nóng chính trị-xã hội
cần bình tĩnh, tạp trung sự lãnh đạo giaỉi quyết dứt điểm. Khi giải quyết phải phát huy vai trò của các cấp uỷ Đảng,
phải dựa vào quần chúng nhân dân./.
Xử lý tình huống chính trị là một trong những nội dung quan trọng của nghệ thuật chính trị, rất cần thiết cho hoạt
động chính trị thực tiễn, vì nó trang bị phương pháp tiếp cận, nhiệm vụ , nguyên tắc và qui trình xử lí một số tình

huống chính trị; giúp cho cán bộ thêm khả năng chủ động phát hiện các tình huống chính trị, ngăn cản và hạn chế
các tác hại của nó trong thực tiễn.
Câu 2: Phân tích những phương thức cảnh báo và giải tỏa xung đột xã hội
Sgk trang 140-141
Câu 3: Vai trò của dự báo và kịch bản dự báo điểm nóng chính trị xã hội
Tham khảo
1- Một số điểm nóng điển hình:
Hùng Oanh- TV

22


Ở đồng bằng sông Hồng: trước năm 1977 đã có một số điểm nóng xảy ra ở một số địa phương và đã được
xử lý. Từ năm 1977 trở lại đây, ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng một số điểm nóng trở lại, xuất hiện nhiều điểm
nóng mới, nhiều điểm nóng còn tiềm ẩn.
Cho đến nay, 100% các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng đã có điểm nóng xảy ra (11/11 tỉnh).
Ở Miền trung – Tây nguyên: ở miền trung cũng đã xuất hiện một ố điểm nóng chính trị - xã hội, như vụ
Phật giáo ở Huế (25-5- 1993, vụ Nguyễn Văn Lý (Huế). Đặc biệt là hai cuộc bạo loạn chính trị năm 2001 và năm
2004.Từ năm 1990 đến nay, đã có hàng nghìn vụ tranh chấp, khiếu kiện nổ ra và có chiều hướng tăng. Trong đó
nhiều vu có cả đảng viên, cán bộ tham gia.
Ở khu vực Nam bộ: ở Nam bộ cũng xuất hiện nhiều điểm nóng về tôn giáo, vỡ hụi, biểu tình của sinh viên,
tranh chấp, tham nhũng đất đai v.v.. Gần đây nhất là các cuộc đình công trên quy mô lớn của công nhân.
Đáng chú ý là xuất hiện một loại hình điểm nóng mới, điểm nóng môi trường đang gay căng thẳng trong
đời sống xã hội của một bộ phận khá lớn nhân dân. Điển hình là vụ gay ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên
sống Nhiêu Lộc, Thị Vải (Đồng Nai) trên sông Hồng (Phú thọ) liên quan đến các công ty đầu tư nước ngoài.
2- Một số nhận xét khái quát:
Một là, các điểm nóng chính trị - xã hội có số lượng nhiều, quy mô phạm vi ngày càng lớn, điểm nóng xã
hội, chính trị- xã hội, từ một vài hiện tượng đặc biệt, đến nay đã trở thành những hiện tượng khá rộng rãi với các
quy mô khác nhau: xã, liên xã, toàn huyện, toàn tỉnh, sự phân bố rất phức tạo, ở khắp các địa phương, nhiều nhất là
ở vùng đồng bằng sông Hồng. Chúng có thể nổ ra ở xã anh hùng, xã yếu kém, thường nổ ra ở những xã có những

bước phát triển đáng kể về kinh tế, có những phong trào điện, đường, trường trạm, những nơi có quy hoạch giải
phòng mặt bằng xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị…
Hai là, tính phức tạp ngày càng tăng. Từ những khiếu kiện đơn thuần có tính kinh té như: thất thoát trong
xây dựng điện, đường, trường trạm…; tham ô công quỹ, tài chính không rõ ràng, quản lý đất đai…tức là những
vấn đề thuần tuý nông nghiệp, nông dân ở nông thôn, dần dần chuyển sang những vấn đề liên quan đến đề bù giải
phòng mặt bằng, quy hoạch và phát triển đô thị, xây dựng các khu công nghiệp, vỡ hụi, đình công, môi trường…
Tức là những vấn đề của công nghiệp hoá và đô thị hoá, cho đến những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng,
thâm chí vấn đề chính rị, vấn đề dân tộc, vấn đề an ninh quốc gia.
Ba là, mục tiêu " đấu tranh" của quần chúng cũng rất phức tạp. Qua thực tế có thể thấy, có mấy mục tiêu
chủ yếu sau: chống quan lieu tham nhũng, chống những việc làm sai trái của cán bộ,chính quyền cơ sở, đòi hỏi
công bằng dân chủ; có động cơ chính trị rõ rệt, làm suy yếu chính quyền đặc biệt là chính quyền cơ sở, đòi ly khai
(thành lập nước "Đề Ga độc lập" ở Tây nguyên); có động cơ cá nhân, cục bộ không lành mạnh: quấy rối, trả thù vì
lợi ích cá nhân, quyền lợi phe nhóm, dòng họ; có một bộ phận khá lớn quần chúng không có động cơ, mục tiêu cụ
thể, bị lợi dung xúi giục, loi kéo chống chính quyền.
Bốn là, thành phần tham gia điểm nóng chính trị - xã hội không thuần nhất . Đa số là nông dân, ngoài ra
còn có công nhân, có đảng viên cán bộ tốt, có đảng viên cán bộ bất mãn, có cán bộ về hưu, thương binh, có tín đồ,
chức sắc tôn giáo, đồng bào dân tộc.
Năm là, Nội dung của những điểm nóng chính trị - xã hội cũng đa dạng. Về kinh tế liên quan đến đất đai,
tài chinh, đóng góp quá sức của dân, tham ô cong quỹ. Về xã hội liên quan tới vấn đề công bằng . Về chính trị liên
quan đến phản đối, lên án một số cán bộ chính quyền, yêu sách thay đổi chính sách, thay đổi cán bộ, thậm chí có
nơi có biểu hiện chống đối chính quyền địa phương.
3- Một số tính chất cơ bản của các điểm nóng chính trị - xã hội ở nước ta trong thời gian qua.
Từ một số vụ phức tạp có tính chất chính trị rõ rết như vụ bạo loạn ở Tây Nguyên (2001 và 2004), vụ
Nguyễn Văn Lý, đa số các đỉêm nóng chính trị - xã hội ở nước ta thời gian qua không phải là mâu thuẫn đối kháng
mà là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân chậm được giải quyết mà thành. Các điểm nóng chính trị - xã hội ở nước ta
thời gian diễn biến kéo dài, khó giải quyết triệt để do nhiều nguyên nhân khác nhau, về cơ bản, phản ảnh những bất
cập trong một số chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, sự sa sút phẩm chất và năng lực của đội ngũ đảng viên
cơ sở, hiệu quả hiệu lực chưa tương xứng của chính quyền cơ sở và phần nào phản ảnh yêu cầu, nguyện vọng của
nhân dân về công bằng và dân chủ.
a- Nguyên nhân khách quan: Nước ta là một nước nông nghiệp, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư

bản chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền kinh té thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành
CNH, HĐH đất nước, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập. Trong lúc đó, nguồn lực còn hạn hẹp, kinh
nghiệm lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội còn thiếu lại còn phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chién tranh,
ảnh hưởng dai dẳng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thiên tai dịch hoạ (bao vây cấm vận, phá hoại…) đặt ra
Hùng Oanh- TV
23


nhiều thách thức cùng một lúc, chắc chắn sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. Đây là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển, thực
lực phát triển và yêu cầu phát triển của nước ta hiện nay, có thể nói đây là mâu thuẫn cơ bản và cũng là nguyên
nhân cơ bản làm nảy sinh những điểm nóng chính trị - xã hội ở nước ta thời gian qua.
b- Nguyên nhân chủ quan: Sự yếu kém trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, của
Nhà nước nói riêng trong quá trình huy động và phân bổ nguồn lực cho sự phát triển xã hội. Như Đảng cộng sản
Việt Nam đã đánh giá: sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm với đòi hỏi của tinh hình phát triển đất nước, bộ máy
nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả, cồng kềnh. Một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, thoái hoá biến chất. Vi phạm dân
chủ, ở nhiều nơi chưa phát huy được đầy đủ nội lực cho phát triển đất nước. Đây cũng là những nguyên nhân bên
trọng, nguyên nhân sâu xa của các điểm nóng chính trị - xã hội ở nước ta.
Cũng có thể tìm thấy những nguyên nhân trực tiếp, đó là sự yếu kém của chính quyền cơ sở và sự bất binh
của quần chúng nhân dân.
Nguyên nhân trực tiếp: Trong các nguyên nhân trực tiép dẫn đến nảy sinh những điểm nóng chính trị - xã
hội ở nước ta có thể thấy có các nhóm nguyên nhân sau:
- Thứ nhât, nhóm nguyên nhân từ phía quần chúng. Đó là tâm trạng bức xúc, dồn nén vi cảm giác mất mát
thiệt thòi của người nông dân, khi thấy lợi ích ngày càng giảm, vị thế ngày càng thấp, các đóng góp và nghĩa vụ
ngày càng nhiều. Đó là nhận thức của người nông dân còn yếu kém, nhiều hạn chế, văn hoá chính trị chưa cao,
không tìm ra được những hình thức phù hợp để thực hiẹn các quyền dân chủ của mình. Trong khi đó, một số phần
tử bất mãn, tiêu cực, chống đối, ly khai… lợi dụng tâm trạng bất bình của nhân dân kích động để mưu cầu những
lợi ích riêng.
- Thứ hai, nhóm nguyên nhân từ phía cán bộ chính quyền địa phương và cơ sở. Đó là do trình độ chuyên
môn, năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu. Là sự sa sút về ý thức chính trị,
đạo đức và lối sống của một số bộ phận cán bộ cấp xã.

Qua nghiên cứu ở các địa phương, có thể thấy rằng, ở nhiều xã, Chủ tịch, Bí thư, chủ nhiệm, kế toán
trưởng, cán bộ địa chính, trưởng thôn có những sai phạm về quan liêu, tham nhũng với những mức độ khác nhau.
Nhiều nơi, do ý thức chính trị yếu kém, tính cục bộ bản vị… chi phối đã gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng và
chính quyền cơ sở. Ở một số nơi còn có những biểu hiện mất cảnh giác với mâu mưu kẻ địch.
Trong khi đó, trong suốt một thời gain dài, chúng ta đã buông lỏng và vi phạm công tác quản lý kinh tế - tài
chính, nhất là trên các lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân sách, xây dựng cơ bản. Đã vậy, chế độ đãi ngộ cho cán bộ
cấp xã chưa hợp lý. Trước đây khi chưa có lượng, phụ cấp cho cán bộ cấp xã chưa đảm bảo cho họ hết lòng với
công việc. Hiện nay, trả lượng cho " công chức cấp xã" cũng đặt ra nhiều vấn đề.
Một là, làm cho chính quyền cơ sở mất tính tự quản
Hai là, cán bộ chính quyền cơ sở dù được hưởng lượng vẫn lao động ở nhà, vẫn được phân đất làm ruộng
như những người nông dân khác. Vì vậy, thu nhập của họ lai khá cao so với nông dân.
- Thứ ba, nhóm nguyên nhân từ cơ sở chính sách. Nước ta trong đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nên phải thực hiện chuyển đối cơ chế chính sách nhưng còn không đồng bộ. Một số chính sách về nông
nghiệp, nông thôn đã bất cấp nhưng chậm thay đổi. Chính sách, pháp luật đất đai thiếu cụ thể, nhiều bất cập đã gây
ra tình trạng cấp đất, mua bán, chuyển nhượng, tranh chấp đât đai trái phép, thậm chí trưởng thôn cũng tự ý cấp,
bán đất. Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị… còn nhiều bất hợp lý,
thiếu nhất quán v.v.. chuyển đổi mô hình hợp tác xã chưa triệt để, dây dưa. Trong khi đó, chính sách xây dựng phát
triển nông thôn thiếu rõ ràng, mới dừng lại ở các phương châm: " Nhà nước và nhân dân cùng làm"," lấy đất nuôi
công trình", " thu lấy mà chi"…Việc đền bù giải phóng mặt bằng không thống nhất, không nhất quán, không thực
tế. Cơ chế "xin – cho", " chạy dự an" làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Đã vậy, quy định về khiếu nại, tố cáo
chưa khoa học, thống nhất và đồng bộ. Cơ chế giải quyết khiéu kiện không dứt điểm dẫn đến khiếu kiện vượt cấp.
Chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc còn nặng tính chủ quan, áp đặt thiếu thực tế, không hiệu quả.
- Thứ tư, Nhóm nguyên nhân bên ngoài.
Đây là một nguyên nhân không thể bỏ qua. Nhiều thế lực bên ngoài đã, đang thực hiện các chính sách: bao
vây, kiềm chế, phá hoại…đặc biệt một số thế lực lợi dụng vấn đề dan tộc, tôn giáo, nhân quyền để mua chuộc, dụ
dỗ, ly khai, gây chia rẽ giữa các dân tộc, phá hoại sự thống nhất đất nước, đe doạ sự toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia. Những âm mưu này trực tiếp, hay gián tiếp tác động đến tinh thần của nhân dân ở các vùng có điểm nóng
chính trị - xã hội, đặc biệt là các vùng có điểm nóng liên quan đến các vấn đề dân tộc, tôn giáo thời gian qua. Cần
chú ý rằng, sự phân định nguyên nhân có ý nghĩa tương đối, vì cỏ thể nhiều nguyên nhân tới một điểm nóng, cũng
có thể nhiều điểm nóng xuất phát từ một nguyên nhân.

Hùng Oanh- TV
24


Vì vậy cần phải xem xét cụ thể, những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của điểm nóng chính trị - xã hội, để xác
định đúng các nguyên nhân và từ đó có thể để ra các giải pháp xử lý thích hợp.
BÀI 7: ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
Câu 1: Phân tích vai trò, ý nghĩa của đánh giá cán bộ. Hiện nay việc đánh giá cán bộ có những ưu điểm, hạn
chế gì?
1.Vai trò, ý nghĩa của đánh giá cán bộ
Khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (...), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (...) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố
trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo hướng
bố trí số lượng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới. Công tác cán bộ giữ vai trò hết sức quan
trọng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công
tác cán bộ là then chốt của then chốt”.
- Nhận xét, đánh giá cán bộ là việc hệ trọng, là khâu mở đầu có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ, là
cơ sở để lựa chọn, bố trí sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ.
- Đánh giá đúng cán bộ sẽ phát huy được tiềm năng của từng cán bộ và của cả đội ngũ cán bộ. Đánh giá
không đúng cán bộ sẽ dẫn tới bố trí, sử dụng đề bạt, bổ nhiệm sai, gây ảnh hưởng không tốt cho địa phương, cơ
quan, đơn vị.
- Song, đánh giá cán bộ là công việc hết sức phức tạp. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi đất nước
bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế và đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại… Những quan hệ xã hội – chính trị - kinh tế đó trở nên phức tạp và tăng lên gấp bội so với các giai đoạn

cách mạng trước đây. Sự tác động đố đã làm thay đổi sâu sắc hệ thống quan hệ xã hội cũng như các ý thức xã hội.
- Mặt khác, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn, thách thức của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như sự khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên phạm vi thế
giới để tiến công quyết liệt vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Thủ đoạn nguy hiểm của chúng là dùng chiến lược “diễn
biến hòa bình” kết hợp với các thủ đoạn khác tập trung đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào cương lĩnh,
đường lối, vào nguyên tắc tổ chức của Đảng , vào đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kích động chia rẽ Đảng với Nhà
nước, với lực lượng vũ trang và nhân dân.
Do những tác động như vậy đã làm tăng thêm tính chất quan trọng cũng như mức độ khó khăn phức tạp của
công tác nhận xét¸đánh giá cán bộ. Nhận xét, đánh giá cán bộ không những góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ
phát triển vững mạnh toàn diện, mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, ngăn chặn các
phần tử cơ hội, giữ gìn an ninh chính trị nội bộ, làm thất bại âm mưu phá hạo ta từ bên trong của các thế lực thù
địch.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đánh giá cán bộ, Người cho rằng, để nhận xét
được cán bộ tốt thì Đảng phải thường xuyên thực hành đánh giá cán bộ và có phương pháp đánh giá đúng. Người
viết: “Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt khác thì những người hù hóa cũng lòi ra”.
Thực tiễn công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay cho thấy, đánh giá cán bộ là công việc cực ký khó khăn, nhưng
rất hệ trọng, vì vậy, việc đánh giá cán bộ cần phải có nguyên tắc, quy trình, quy chế chặt chẽ, thống nhất trong toàn
Đảng, ở mọi cấp, mọi ngành, bảo đảm cho công tác đánh giá cán bộ đạt độ chính xác cao.
2. Hiện nay việc đánh giá cán bộ có những ưu điểm, hạn chế
a. Ưu điểm:
- Hiện nay đánh giá cán bộ luôn lấy tiêu chuẩn và hiệu quả công việc làm thước đo, bảo đảm nguyên tắc tập
trung dân chủ và đúng quy trình
+ Bản thân người cán bộ tự phê bình, tự đánh giá ưu, khuyết điểm của mình. Đồng thời tổ chức cho cán bộ
đảng viên, quần chúng trong cơ quan đơn vị tham gia đánh giá cán bộ bằng góp ý trực tiếp hoặc ghi phiếu nhận xét
sau đó cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp và cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên trực tiếp quản lý cán bộ nhận xét đánh giá
cán bộ.
Hùng Oanh- TV
25



×