Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi trong trường mầm non 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.91 KB, 23 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KĨ THUẬT
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 4-5 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON

Quảng Bình, ngày 14 tháng 5 năm 2020

1


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KĨ THUẬT
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 4-5 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON

Họ và tên: Lê Thị Huế
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non Phú Thủy

Quảng Bình, ngày 14 tháng 5 năm 2020

2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ


và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia
đình: "Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai". Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ sau này.Bác Hồ nói: "Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn
hóa". Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự
phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
Như chúng ta đã biết, đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường
hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên
chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn
cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức,
những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu
cực, bạo lực, và lối sống ích kĩ lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân
cách.
Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa
của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần thiết
nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay
để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn.
Là một giáo viên mầm non, sau nhiều năm thực tế trải nghiệm tôi quyết định trình
bày sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi
trong trường mầm non” để nghiên cứu. Đây là một vấn đề đang được quan tâm trong
giáo dục Mầm non hiện nay.
1.2. Điểm mới của đề tài.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống” đối với trẻ, tôi thấy
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý nghĩa.
3


Nhưng làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả? Điều này
quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.

Với đề tài này tôi biết đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều bạn
đồng nghiệp trong ngành. Với đề tài tôi đang viết nó có những điểm mới: Tôi dành sự
quan tâm và hình thành ở trẻ những kỹ năng sống . Giáo dục cách sống tích cực trong xã
hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ
có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết
xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống .
1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:
Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực
nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên mầm non
đang dạy lớp 4-5 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi
trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm
non.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp
Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn
sau:
2.1.1. Thuận lợi :
Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào“ Xây dựng trường học thân thiệnhọc sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng
giáo dục- Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn
kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những
định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình
huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện
sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước
và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa
bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.

4


Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây mới khang trang sạch sẽ nên

thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn
cho trẻ.
2.1.2. Khó khăn:
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn áp đặt trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về
nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá!
Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ,
chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những
đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Đối với giáo viên mầm non
Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều
nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa
tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch
định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức
vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ
tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về
nghề chưa sâu sắc.
Năm học 2019 - 2020 là một năm toàn thế giới phải gồng mình chống chọi với đại
dịch COVID-19 học sinh phải nghĩ học dài ngày nên trong quá trình giáo dục rèn luyện
kỹ năng sống cho trẻ gặp không ít khó khăn.
Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện, tôi đã suy nghĩ, nghiên
cứu tài liệu để dạy trẻ mầm non 4-5 tuổi các kỹ năng sống qua đề tài: “Một số biện pháp
giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non”

* Kết quả khảo sát thực tế lần 1: Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:
TT Khả năng
1


+ Mạnh dạn tự tinh

Số

trẻ

khảo sát
14/41

Đạt
34,2%
5


2
3
4
5
6
7
8

+Kỹ năng hợp tác
+Phát âm rõ lời
+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
+Lễ phép
+Kỹ năng vệ sinh
+Kỹ năng thích khám phá học hỏi
+Kỹ năng tự kiểm soát bản thân


10/41
9/41
8/41
19/41
18/41
20/41
20/41

24,3%
22%
19,5%
46,3%
44%
48,8%
48,8%

Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có biện
pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và yếu còn
ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã suy nghĩ trăn
trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao hiệu quả
cho trẻ mẫu giáo lớn 4 - 5 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao.
2.2. Các giải pháp
2.2.1: Kỹ năng hợp tác:
Hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục
tiêu chung. Một người biết hợp tác sẽ nhận được sự hợp tác. Khi có yêu thương thì có sự
hợp tác. Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, trẻ sẵn sàng chia sẻ với
bạn những suy nghĩ của mình, biết hợp tác với nhau để xây dựng một công trình (Khi
chơi ở góc xây dựng), biết hợp tác với nhau để tạo ra một bức tranh (Khi chơi góc tạo
hình…). Nói tóm lại hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng
hướng về một mục tiêu chung. Tuy nhiên trẻ vẫn làm việc theo nhóm với cách hiểu đơn

giản là gộp bạn lại chứ chưa có sự gắn kết. Vì vậy cô giáo phải cần tổ chức thường
xuyên và đa dạng hóa các hoạt động theo nhóm để trẻ biết tạo ra tinh thần đồng đội, tọa
niềm vui với kết quả đạt được.
Để làm được điều này, tôi thường tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi theo nhóm, trò
chơi dân gian, trò chơi vận động: kéo co, rồng rắn lên mây, chèo thuyền bắt cua các trò
chơi có luật tiếp sức để trẻ thể hiện rõ tinh thần đồng đội giúp đỡ nhau cùng hoàn thành
nhiệm vụ.
Ngoài ra trong giờ hoạt động góc, nhất là góc phân vai, góc xây dựng và góc tạo
hình trẻ cũng thể hiện rõ và tinh thần hợp tác với bạn để xây dựng một công trình, tạo ra

6


một sản phẩm Biết phân công vai chơi, biết cùng nhau làm việc để tạo nên một công
trình, một sản phẩm.
Ví dụ: Khi chơi góc xây dựng “ Vườn hoa mùa xuân” trẻ biết phân công bạn nào làm
kỹ sư trưởng, bạn nào xây hàng rào, bạn nào xây bồn hoa và ai là người trồng hoa…Khi
bạn Tài xây dựng xong hàng rào biết ra giúp đỡ các bạn khác để cùng nhau hoàn thành
tốt công trình xây dựng của nhóm mình.
Ví dụ: Góc tạo hình, khi làm bức tranh xé dán hoa tặng bà tặng mẹ, tặng cô giáo nhân
ngày 20/10: Trẻ biết phân công ai là người xé các bông hoa, ai là người xé những chiếc
lá, ai là người sắp xếp và dán thành bức tranh.
Ví dụ: Góc chơi gia đình: Trẻ biết phân công bạn nào đóng vai bố, bạn nào đóng vai mẹ,
ai đóng vai các con….
Ngoài ra thông qua các câu chuyện, các bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm
việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ ở lứa tuổi này. Khả năng hợp
tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Để giúp trẻ có kỹ năng hợp tác được tốt thì giáo viên cần phải tổ chức những hoạt
động này một cách thường xuyên, giáo dục trẻ biết giúp đỡ nhau trong công việc, hình
thành  cho trẻ một đức tính tốt về tinh thần đồng đội, tạo cho trẻ một lý tưởng sống cao

đẹp trong tương lai.
2.2.2: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy
trẻ:
+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về
cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những
kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học, sử
dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất
khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
7


+ Kỹ năng giao tiếp: cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế
giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị
trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu
khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ
sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố
cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống
qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ
trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn
uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây
tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự
dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn,
ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
2.2.3: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ

năng sống.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ở lứa tuổi mẫu giáo 4-5 tuổi, khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định rất
kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không
được cũng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu
ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát
triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ
thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được
hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện cùng trẻ
khoảng 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp cho
trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết dùng ngôn ngữ
của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay trao đổi cùng cô về
chủ đề đang học. Cuối chương trình cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay nhất sẽ đựơc
8


nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa , một bức tranh vẽ một
con vật hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được thay đổi theo từng chủ
đề). Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ đã có
thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự tin khi kể
“chuyện của mình” cho bạn nghe.
Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm quen
với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 15 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập thực
hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:
Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản thân
như rửa tay, lấy nước uống, mặc quần áo, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một
trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo hơn”,

cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ các
thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10 đến 1, khi
nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội
dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách
mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần
sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập
thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ
chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương
đối tốt.
Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm những câu
chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con người
với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp
với xung quanh.
Ví dụ : Cho trẻ xem đoạn phim về câu chuyện “Món quà của cô giáo”. Tôi trò chuyện
cùng trẻ:
- Vì sao Gấu Xù không nhận quà của cô giáo ? ( Vì Gấu Xù thấy mình có lổi ).
9


- Bạn Cún Đốm đã nói gì với cô giáo ? (Thưa cô lổi tại con, chính con đã bá vai Gấu Xù
làm Gấu Xù ngã vào Mèo Khoang)
- Vì sao Cún Đốm và Gấu Xù vẫn nhận được quà và bé ngoan? (Vì hai bạn đã nhận ra
được lổi của mình)
Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo dục trẻ
cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ luôn có ý thức ứng
xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh.
Chiều thứ 5, tôi tổ chức các hoạt động nhằm dạy trẻ kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây ồn, khi
xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế phải xếp

sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp đôi, tổ chim
non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ thỏ con xếp ngăn dưới…
Nhờ được tham ra và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành
các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc nhằm phát
triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu, tôi cho
trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp xếp như thế nào
cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem
đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ
năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn
thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối
quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ
chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện pháp này,
các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính xác.
2.2.4 : Kỹ năng tự bảo vệ:
Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự thoải mái
nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với con trẻ. Điều này đòi hỏi
mỗi trẻ đều phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ chính bản thân mình.
Bất cứ một sự vật nào hiện ra đều trở thành một đề tài thu hút đối với trẻ. Đó được
coi là cơ hội để mở rộng kiến thức nhưng đồng thời cũng có thể là mối nguy hại khôn
10


lường đối với trẻ. Việc trang bị cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có thể
an toàn hơn và tự tin hơn để khám phá cuộc sống muôn màu.
Kỹ năng bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự việc xung
quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng
bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám
phá thế giới trong phạm vi an toàn.
Trên thực tế, trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi hầu hết trẻ chưa phân biệt được

những gì là nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với mình. Chính vì vậy nên việc giúp
trẻ phân biệt những mối nguy hiểm luôn được tôi quan tâm, lồng ghép vào để giáo dục
trẻ qua những câu chuyện, qua hoạt động học, qua tranh ảnh, video. Để việc giáo dục trẻ
kỹ năng tự bảo vệ được tốt, tôi đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường xảy ra trong
cuốc sống hàng ngày đối với trẻ để lồng ghép vào các thời điểm trong ngày cho thích
hợp. Cụ thể:
Các mối nguy hiểm trong ga đình, trường học: Ổ điện, quạt điện, bếp ga, phích nước
nóng, bàn là…tôi sẽ lồng vào hoạt động khám phá để dạy trẻ. Tôi cho trẻ kể tên về
những đồ dùng trong gia đình nhà mình, sau đó cho trẻ xem tranh về những đồ dùng đó,
hỏi trẻ xem những đồ dùng này các con có được sử dụng không? Vì sao?
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc hỏi trẻ những câu hỏi như vậy sau đó cô giáo dục trẻ
không được lại gần, không được sử dụng những đồ dùng đó thì trẻ sẽ rất mau quên.
Chính vì vậy ngoài việc giáo dục trẻ biết được mối nguy hiểm của những đồ dùng đó sau
khi trẻ được khám phá về đồ dùng gia đình tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi trên màn
hình các trò chơi: “Loại bỏ những đồ dùng gây nguy hiểm cho trẻ”, hay trò chơi “ Hãy
gạch chéo vào đồ dùng mà bé không được sử dụng”.
Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: bắt cóc, lạc đường, những nơi nguy hiểm gần ao
hồ, cột điện, nơi công trường đang thi công…với những mối nguy hiểm này tôi sẽ truyền
đạt cho trẻ bằng các câu hỏi tình huống, cho trẻ xem những đoạn video…cô và trẻ cùng
nhau thảo luận đẻ trẻ hiểu được đó là những mối nguy hiểm mà cần phái tránh xa.
Ví dụ: Tôi sẽ đưa ra tình huống như: Nếu có người lạ cho con ăn kẹo thì con làm như
thế nào? Cho trẻ suy nghĩ, cho trẻ đưa ra ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các câu
hỏi.
11


Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ mẫu giáo trẻ rất thích khi được cho quà và sẽ
không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những
tình huống xấu “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Tôi phân tích, giải thích
cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:

Không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu bắt cóc.
Tôi sẽ dạy trẻ nói “ Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
- Với tình huống: Khi trẻ ở nhà một mình có người đến xin nước uống thì con sẽ làm
như thế nào? Cho trẻ suy nghĩ, tự đưa ra ý kiến của mình từ đó giáo viên có thể gợi mở
cho trẻ để trẻ tư duy tốt hơn. Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Sau đó
cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường hợp này :
Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ. Nếu trong nhà có
người lớn chưa biết là người lạ đến thì gọi ra mở cửa, còn nếu không có ai ở nhà thì hẹn
người đó nhắn lại với con hoặc tối đến gặp bố mẹ.
Bên cạnh đó, Kỹ năng tự bảo vệ bản thân là thật sự cần thiết dạy cho con trẻ, xã hội
đang phát triển dồng nghĩa với với những tện nạn xã hội một nhiều, trang bị cho trẻ
những kỹ năng tự bảo vệ bản thân cính là trang bị cho trẻ những hành trang để trẻ có thể
sống an toàn, lành mạnh hơn. Với trẻ mầm non, kỹ năng sống chưa có một giáo trình
nào cụ thể, chưa được đưa vào như một giờ học chính nên chúng ta cần khéo léo lồng
ghép vào các hoạt động trong ngày, vào các chủ đề, vào các thời điểm trong ngày: Trò
chuyện sáng, hoạt động tập thể ngoài trời, hoạt động học, các bài tập trắc nghiệm, các
bài tập giả định, hoạt động giao lưu. Trang bị cho trẻ những kỹ năng này sẽ giúp trẻ cảm
thấy tự tin, luôn sẵn sàng đối diện và vượt qua các mối nguy hiểm trong cuộc sống.
2.2.5: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Phát triển các kỹ năng
sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của
trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong
sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc
đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả năng
12


định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động

để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp.
Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết lễ
phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ bản
thân và chấp hành quy định của lớp.
Ví dụ : Tôi dạy trẻ biết cất cặp vào giá, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi quy
định…..)
Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích
hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội dung của
từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.
Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi dạy trẻ kỹ năng
sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ gìn, bảo vệ các
bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng
vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn nói phải giơ tay,
chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung chú ý nghe cô…Chính vì
thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ theo sự hướng
dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.
-Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau.
Ví dụ : Qua việc trò chuyện quan sát Cầu trượt. Trẻ nhận biết được một số nguyên nhân
gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ năng tôi dạy trẻ
đó là:
- Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.
- Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt bé cần làm gì?( Vịn hai tay
vào 2 thành của cầu trượt, rồi đẩy người cho trượt xuống. Nếu bạn nào trượt nhanh bị
ngã thì thì bạn chơi cùng nhanh chóng đở bạn dậy hoặc chạy đến gọi cô …)
- Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không
trượt quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Cầu trượt, vịn chắc thanh cầu trượt…)
Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi, chơi mà
học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ tiếp thu một
cách dễ dàng nhất.
13



Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp
( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ năng chăm sóc ( biết
lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học được cách chơi
trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi chơi xong trẻ biết
cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các góc
chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp tôi đã biết
tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi của nhau và
đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ
qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi
văn hoá văn minh như:
- Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
- Cách rót nước, chia thức ăn.
- Chuẩn bị bàn ghế cho bữa ăn ( tự kê bàn ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia
bát…)
- Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống ( Trẻ biết
mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và
hành vi văn hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng
thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…)
Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy
định, biết lau chùi chân trước khi lên sạp, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang
ngủ.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động khác
trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo tình
huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các kỹ năng của
mình.

Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính liên
tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen, thành thuộc
14


tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá nhiều sẽ
làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho trẻ
khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ năng
đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ rất hiệu quả.
Tổ chức văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội dung, hình thức biểu diễn nhằm
huy động sự tham gia của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong
việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ và qua đó tuyên
truyền về hiệu quả giáo dục mầm non
2.2.6: Tổ chức tốt giờ dạy kĩ năng sống cho trẻ.
Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ?
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm
năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như
thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức giờ dạy kĩ năng sống cho trẻ một cách thích
hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất,
ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp
trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc
giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe
trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ
có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc

mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin,
thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu
hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.

15


- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi
với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc
cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2.2.7: Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình
Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường
của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Một số trẻ có khó khăn
trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết
thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát
triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.
Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến
trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ
hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng
trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và
năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các
vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với
nhau.
- Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc
tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào
các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ
học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng
học là phải học cả đời.
- Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc

sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý
thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và
đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
- Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết.
Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần
thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp
16


ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa,
những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng
với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ.
Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi
2.2.3: Kết quả đạt được:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được
một số kết quả trong việc dạy trẻ 4 - 5 tuổi các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết
quả sau:
* Kết quả trên trẻ:
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung
sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình
- 100% trẻ đều được cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò mò,
phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin,
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng
ngày trong cuộc sống của trẻ;
.- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
- Trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn

ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp
gối trước và sau khi ngủ ...
- Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống tôi
đã thu được kết quả sau:
* Kết quả khảo sát đối chiếu lần 1 và lần 2 của lớp tôi như sau:
TT

Khả năng

1
2
3

+ Mạnh dạn tự tinh
+Kỹ năng hợp tác
+Phát âm rõ lời

Số trẻ KS
lần 1
14/41
10/41
9/41

Đạt
34,2%
24,3%
22%

Số trẻ KS
lần 2

39/41
37/41
39/41

Đạt
95,1%
90,2%
95,1%
17


4
5
6
7
8

+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 8/41
+Lễ phép
19/41
+Kỹ năng vệ sinh
18/41
+Kỹ năng thích khám phá
20/41
học hỏi
+Kỹ năng tự kiểm soát bản
20/41
thân
Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ


19,5%
46,3%
44%

38/41
38/41
39/41

92,7%
92,7%
95,1%

48,8%

38/41

92,7%

48,8%

37/41

90,2%

có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc

sống tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì vậy
có thể kết luận rằng với những biện pháp thông thường rlập khuôn, máy móc như thực
trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận dụng sáng
tạo linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc dạy trẻ các kỹ

năng sống sẽ được nâng lên rõ rệt.
* Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở
nhà trừơng. Kết quả trong sáu tháng gần đây đã có 185/250 đạt 74% thư mời lần lượt
các bậc cha mẹ đến dự giờ, tham gia vào các hoạt động dạy, hoạt động tự chọn, trực tiếp
giúp trẻ hoàn thành các bài tập, các yêu cầu của cô, đạt .
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc
dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng
thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp; số lượng phụ huynh học sinh tham
gia đông hơn kết quả lượng phụ huynh dự họp trong cả hai kỳ họp vừa qua ở các lớp đều
đạt trên 80%, đúng đối tượng là cha hoặc mẹ đạt 70%.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ,
thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái
quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con
ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm ở
trẻ nhỏ.
* Về phía giáo viên và nhà trường

18


Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt ra
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ
trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị,
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài , ở mọi lúc

mọi nơi và rất quan trọng vì giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân cách con người mới. Việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi thông qua mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày ở trường mầm non và ở gia đình trẻ. Vì vậy để giáo dục trẻ 4-5 tuổi kỹ năng
sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi trường giáo dục và môi trường xã hội, có ý
thức, hành vi tốt và biết sống thân thiện, có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
Với vai trò là người làm công tác giáo dục tôi nhận thức đúng đắn về vai trò và
tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Qua việc áp dụng những
biện pháp mới, tôi thấy trẻ linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, Nhân cách ý chí tình cảm
của trẻ được hình thành. Bằng sự chủ động linh hoạt vận dụng các nội dung giáo dục kỹ
năng sống vào các hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ thể hiện
được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu giữa bạn bè. Giáo viên sáng tạo hơn trong
việc làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, biết tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải
pháp tối ưu nhằm đem lại kết quả tốt nhất cho trẻ.
Cần khẳng định việc đứa trẻ thích nghi nhanh hay chậm, hình thành những kỹ
năng sống diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc
chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ và góp phần hình thành cho trẻ những hành vi văn
minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của truyền thống con người Việt Nam phù
hợp với mọi chuẩn mực đạo đức xã hội một cách tự nguyện.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
19


Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất lượng
dạy kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi
giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cụ thể như sau:
* Đối với nhà trường:
- Ban Giám hiệu cần có sự chỉ đạo cụ thể, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá rút

kinh nghiệm cho giáo viên và có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên còn những mặt hạn
chế.
- Ban Giám hiệu luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề dạy trẻ kỹ năng sống
để giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ.
* Đối với giáo viên:
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, có óc
sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ hứng
thú và hoạt động một cách tích cực.
- Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong dạy kỹ năng sống cho trẻ
một cách sáng tạo.
- Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa
học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức về kỷ năng sống cho
trẻ.
- Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ và trình độ nhận thức.
- Giáo viên nên có sổ nhật ký để cập nhật thông tin trong từng ngày để bổ sung,
điều chỉnh cho trẻ một cách kịp thời.
* Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà.
- Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi phát huy
được khả năng sáng tạo của trẻ.
20


Trên đây là một số biện pháp dạy trẻ kỷ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi mà tôi đã rút ra
được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách,
phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Với khuôn khổ một bài viết nhỏ, vấn đề chỉ
dừng lại ở một phạm vi hạn chế, chưa thể bao quát hết được tất cả. Đồng thời trong quá

trình viết vẫn còn những thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng của
các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh
nghiệm hay trong quá trình giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

21


Người viết sáng kiến

Lê Thị Huế
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….

22


23



×