Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Đề tài tốt nghiệp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp Gia Lộc, Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 64 trang )

Mở Đầu

1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là giá đỡ cho toàn bộ sự sống của con
người. Đất đai là thành phần quan trọng của môi trường sống, nền tảng để
con người định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội, nó không chỉ là
đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được, đặc
biệt đối với ngành sản xuất nông nghiệp. Đất là yếu tố đầu vào có tác động
mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường
duy nhất sản xuất ra những lương thực thực phẩm nuôi sống con người.
Ngày nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế, sự gia tăng dân số cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật đã tạo rất nhiều áp lực lên việc
sử dụng đất đai, khiến cho quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp làm ảnh
hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước, đồng thời làm suy
giảm chất lượng của đất nông nghiệp. Vì vậy việc sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức
sản xuất của đất cho hiện tại và tương lai.
Xã Quang Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương là một xã thuộc vùng đồng
bằng, nằm ở phía nam của huyện Gia Lộc, cách trung tâm huyện Gia Lộc
10km và cách thành phố Hải Dương 20km. Trong những năm gần đây, thực
hiện đường lối của Đảng và nhà nước, nền kinh tế của xã tăng trưởng mạnh
mẽ và liên tục đã góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Nông nghiệp
là ngành kinh tế chủ yếu đem lại việc làm và thu nhập cho người dân trong
thôn, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, tạo cơ sở ổn định xã hội.
Tuy nhiên những năm gần đây, xã đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng


ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Điều này đã
làm cho diện tích đất nông nghiệp của xã đang bị thu hẹp dần. Do đó, cần
phải đánh giá hiệu sử dụng đất nông nghiệp của xã nhằm tìm ra những loại


hình sử dụng đất có hiệu quả, từ đó có những giải pháp sử dụng đất hợp lý
đem lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, hướng
tới nền sản xuất nông nghiệp bề vững.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự phân công của khoa Quản Lý Đất
Đai - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam, được sự đồng ý của UBND xã
Quang Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, dưới sự hướng dẫn của Thạc
sĩ Luyện Hữu Cử e tiến hành thực hiện đề tài : " Đánh giá hiệu quả sử sụng
đất nông nghiệp ở xã Quang Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương "

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá hiệu quả các kiểu sử dụng đất trên địa bàn xã Nghi Diên phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững phù hợp với các điều kiện tự
nhiên kinh tế xã hội và điều kiện đất đai của xã.
- Đề xuất các biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp trong xã.
3. Yêu cầu của đề tài
- Quán triệt quy trình, nguyên tắc và phương pháp đánh giá đất theo FAO, áp
dụng vào điều kiện thực tế của xã Quang Minh để đánh giá hiệu quả sử dụng
của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của xã.
- Nguồn số liệu, tài liệu điều tra thu thập được phải tin cậy, đảm bảo tính
pháp lý và chính xác.
- Đề xuất những giải pháp sử dụng đất mang tính khả thi nhằm phát triển bền
vững đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã Quang Minh.


Chương 1.Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

1.1. Tổng quan về đánh giá đất đai
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản trong đánh giá đất theo Fao
1.1.1.1. Khái niệm về đất đai

Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận như một nhân
tố sinh thái ( FAO, 1976). Trên quan điểm nhìn nhận của FAO thì đất đai bao gồm
tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định
đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất. Như vậy, đất được hiểu như một tổng thể
của nhiều yếu tố bao gồm: (khí hậu, địa hình/địa mạo, đất, thổ nhưỡng, thủy văn,
thảm thực vật tự nhiên, động vật tự nhiên, những biến đổi của đất do hoạt động của
con người.
“ Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm tất cả các cấu thành
của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt như: khí hậu,bề mặt, thổ nhưỡng,
dạng địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư cảu con người,
những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại( san nền, hồ chứa
nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường sá…)
“Đất đai là một vạt đất xác định về mặt địa lí, là một phần diện tích bề mặt của trái
đất với những thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi có tính chất chu kì có thể
dự đoán được của môi trường bên trên, bên trong và bên dưới nó như không khí,
loại đất, điều kiện địa chất, thủy văn, động thực vật, những hoạt động tác động từ
trước và hiện tại của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính này có ảnh
hưởng đáng kể đến việc sử dụng vạt đất đó của con người trong hiện tại và tương
lai”.


Từ các định nghĩa trên, đất đai được hiểu là: Đất đai là một vùng đất có vị trí cụ thể,
có ranh giới và có những thuộc tính tổng hợp của các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã
hội như: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, địa chất/địa mạo, thủy văn, động thực vật và
các hoạt động sản xuất của con người.
2.1.1.2. Khái niệm về đánh giá đất đai
-Đánh giá đất đai là so sánh, đánh giá khả năng của đất theo từng khoanh đất vào độ
màu mỡ và khả năng sản xuất của đất.
-Theo Sôbôlev: đánh giá đất là học thuyết về sự đánh giá có tính chất so sánh chất

lượng đất của các vùng đất khác nhau mà ở đó thực vật sinh trưởng và phát triển.
-Đánh giá đất đai là sự phân chia có tính chất chuyên canh về hiệu suất của đất do
những dấu hiệu khách quan (khí hậu thời tiết, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên, hệ
động vật tự nhiên…) và thuộc tính của chính đất đai tạo nên.
-Đánh giá đất đai chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực một vùng có điều kiện tự nhiên (trừ
yếu tố đất), điều kiện kinh tế xã hội như nhau.
-Theo FAO (1976) đánh giá đất đai là quá trình so sánh đối chiếu những tính chất
vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại hình sử
dụng đất yêu cầu.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc đánh giá đất nông nghiệp được dựa theo các yếu
tố đánh giá đất với những mức độ khác nhau. Mức độ khác nhau của các yếu tố
đánh giá đất được tính toán dựa trên những cơ sở khách quan, phản ánh các thuộc
tính của đất và mối tương quan giữa chúng với năng suất cây trồng trong nhiều
năm. Nói cách khác, đánh giá đất đai trong sản xuất nông nghiệp thường dựa vào
chất lượng (độ phì tự nhiên và độ phì hữu hiệu) của đất và mức sản phẩm mà độ phì
đất tạo nên.
Trong đánh giá đất đai có hai khái niệm sau cụ thể như sau:


- đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai: Là việc phân chia hay phân hạng đất đai thành
các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi hay hạn chế trong sử dụng độ dốc, độ dày
tang đất, đá lẫn, tình trạng xói mòn, ngập úng, khô hạn, …Trên cơ sở đó có thể lựa
chọn nững kiểu sử dụng đất phù hợp.
-đán giá mức độ phù hợp đất đai: là quá trình xác định mức độ thích hợp cao hay
thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị đất đai và tổng hợp cho toàn khu vực
dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng đất với đặc điểm các đơn vị đất đai.
2.1.1.3. Khái niệm về loại hình sử dụng đất ( LUA)
LUA là loại hình đặc biệt của sử dụng đất được mô tả theo các thuộc tính nhất định.
LUT là bức tranh ô tả thực trạng sử dụng đất của một vùng đất với những phương
thức quản lí sản xuất trong các điều kiện kinh tế - xã hội và kĩ thuật xác định. Trong

sản xuất nông nghiệp, loại hình sử dụng đất được hiểu khái quát là hình thức sử
dụng đất đai đai đển sản xuất hoặc phát triển một nhóm cây trồng, vật nuôi trong
một chu kỳ hoặc chu kỳ nhiều năm. Ngoài ra, LUT còn có nghĩa là kiểu sử dụng
đất.
2.1.2 các phương pháp đánh giá đất
Đánh giá đất đai là một trong những nội dung nghiên cứu không thể thiếu
được trong chương trình phát triển nông nghiệp bền vững vì đất đai là nguồn tài
nguyên có hạn,và là tư liệu sản xuất cơ bản nhất của người nông dân. Đất đai đang
đứng trước nguy cơ suy giảm về diện tích cũng như về chất lượng đất.
Vì vậy, việc hình thành các phương pháp đánh giá đất là vô cùng cần thiết.
Hiện nay trên thế giới có 3 phương pháp đánh giá đất chính:
- Đánh giá đất theo định tính: Chủ yếu dựa vào sự mô tả và xét đoán các tính
chất đất đai, đưa vào sắp xếp trong hệ thống đánh giá.
- Đánh giá đất theo phương pháp thông số: Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, các phần mềm máy tính để tìm hiểu mối tương quan giữa các yếu tố là các
thông số để tổng hợp đánh giá.


- Đánh giá đất theo định lượng: Dựa trên mô hình, mô phỏng làm định hướng
để xác định và đánh giá.
2.1.2.1 Đánh giá đất ở Mỹ
Dựa trên hệ thống phân loại đất Soil-Taxonomy, một hệ thống phân loại định
lượng đối với các đặc tính đất trong các tầng chuẩn đoán đặc trưng và mang tính
thực tiễn cao trong quản lí và sử dụng đất
Nguyên tắc đánh giá đất: dựa vào đặc tính và tính chất hiện tại của đất để
phân loại.
Phương pháp này được sử dụng thành công ở Mỹ và sau đó được vận dụng ở
nhiều nước. Cơ sở đánh giá tiềm năng sử dụng đất dựa vào các yếu tố hạn chế trong
sử dụng đất, các yếu tố này được phân thành 2 nhóm sau:
- Nhóm các yếu tố hạn chế vĩnh viễn bao gồm những hạn chế: Không dễ

dàng thay đổi và cải tạo được như độ dốc, độ dày tầng đất, lũ lụt và khí hậu khắc
nghiệt.
- Nhóm những yếu tố hạn chế tạm thời có khả năng khắc phục bằng các biện
pháp cải tạo trong quản lý đất đai như độ phì, thành phần dinh dưỡng và những trở
ngại về tưới tiêu.
Hệ thống đánh giá đất của Mỹ chia thành 8 nhóm:
+ Từ nhóm I -IV: thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
+ Từ nhóm V-VIII: không thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, được dùng
cho các mục đích khác.
Phương pháp đánh giá khả năng sử dụng thích hợp (USDA) tuy không đi sâu
vào từng loại cụ thể đối với sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế xã hội song
rất quan tâm đến yếu tố hạn chế bất lợi của đất và việc xác định các biện pháp bảo
vệ đất, đây cũng chính là điểm mạnh của phương pháp đối với việc duy trì và sử
dụng đất bền vững.
2.1.2.2 Đánh giá đất ở Liên Xô (cũ):
Đánh giá đất dựa trên các đặc tính khí hậu, địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng,
nước ngầm và thực vật. Phương pháp đánh giá được hình thành vào những năm


1950 và sau đó đã được phát triển, hoàn thiện vào năm 1986 để tiến hành đánh giá
và thống kê chất lượng tài nguyên đất đai nhằm phục vụ cho mục đích xây dựng
chiến lược quản lý và sử dụng cho các đơn vị hành chính và sản xuất trên lãnh thổ
thuộc liên bang Xô Viết (cũ). Nguyên tắc đánh giá mức độ sử dụng đất thích hợp là
phân chia khả năng sử dụng đất đai trên toàn lãnh thổ theo các nhóm và các lớp
thích hợp.
Liên Xô (cũ) sử dụng phương pháp đánh giá đất định tính dựa theo học
thuyết phát sinh của V.V.Docuchaev (1846 – 1903). Việc đánh giá phân hạng đất đai
được thực hiện theo 3 bước:
- Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng (so sánh các loại thổ nhưỡng theo tính chất tự
nhiên).

- Đánh giá khả năng sản xuất của đất đai (yếu tố được xem xét kết hợp với
khí hậu, địa hình, độ ẩm).
- Đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh giá khả năng sản xuất hiện tại của đất đai).
Phương pháp đánh giá này có một số hạn chế như quá đề cao khả năng tự
nhiên của đất đai như: khí hậu, địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, nước ngầm và thực
vật,... mà chưa xem xét đầy đủ khía cạnh kinh tế- xã hội của việc sử dụng đất. Mặt
khác, phương pháp này có tính linh động kém vì đánh giá đất đai ở các vùng cây
trồng khác nhau do đó không thể chuyển đổi việc đánh giá đất giữa các vùng khác
nhau (Nguyễn Văn Thân, 1995). Đánh giá đất được thực hiện theo 2 hướng: đánh
giá chung và đánh giá riêng theo hiệu suất của từng loại cây trồng, với các chỉ tiêu
để đánh giá là:
- Năng suất, giá thành sản phẩm.
- Mức hoàn vốn.
- Địa tô cấp sai (phần có lãi ròng).
Kết quả đánh giá mức độ sử dụng đất thích hợp đã chia thành các nhóm và
lớp thích hợp trong sử dụng đất như sau:
- Nhóm đất thích hợp được phân theo điều kiện vùng sinh thái đất đai tự
nhiên, xác định trên phạm vi vùng lớn.


- Lớp đất thích hợp là những vùng được tách ra theo sự khác biệt về loại hình
thổ nhưỡng như điều kiện địa hình, mẫu chất, thành phần cơ giới, chế độ nước.
Trong cùng một lớp sẽ có sự tương đồng về điều kiện sản xuất, khả năng ứng dụng
kỹ thuật cũng như các biện pháp cải tạo và bảo vệ đất.
Trên cơ sở áp dụng hệ thống đánh giá đất đã phân chia khả năng sử dụng đất
đai thành các nhóm và các lớp sau đây:
Nhóm 1: Đất thích hợp cho canh tác gồm có 14 lớp.
Nhóm 2: Đất thích hợp cho đồng cỏ thâm canh gồm có 4 lớp.
Nhóm 3: Đất đồng cỏ cải tạo sau có thể sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp gồm có 7 lớp.

Nhóm 4: Đất đòi hỏi phải được cải tạo cơ bản trước khi đưa vào mục đích sử
dụng sản xuất gồm có 6 lớp.
Nhóm 5: Đất ít thích hợp cho sản xuất nông nghiệp gồm có 2 lớp.
Nhóm 6: Đất không thích hợp cho mục đích sản xuất nông nghiệp gồm có 2 lớp.
2.1.2.3 Đánh giá đất đai ở một số các nước Châu Âu khác
Ở Bungari, việc phân hạng dựa trên cơ sở các yếu tố đất đai được chọn để
đánh giá là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến độ phì nhiêu và sự sinh trưởng và
phát triển của từng loại cây trồng như: Thành phần cơ giới, mức độ mùn, độ dày
tầng đất, các tính chất lý hóa học của đất. Qua đó hệ thống lại thành các nhóm và
chia thành các hạng đất, được phân chia rất chi tiết với 10 hạng (với mức chênh lệch
10 điểm) thuộc 5 nhóm: Rất tốt, tốt, trung bình, xấu, và không sử dụng được.
Ở Anh có hai phương pháp đánh giá đất là dựa vào sức sản xuất tiềm năng
của đất hoặc dựa vào sức sản xuất thực tế của đất.
- Phương pháp đánh giá đất dựa vào thống kê sức sản xuất thực tế của đất:
Cơ sở của phương pháp này là dựa vào năng suất bình quân nhiều năm so với năng
suất thực tế trên đất lấy làm chuẩn.
- Phương pháp đánh giá đất đai dựa vào thống kê sức sản xuất tiềm tàng của đất:
Phương pháp này chia ra làm các hạng, mô tả mỗi hạng trong quan hệ bị ảnh hưởng
bởi những yếu tố hạn chế của đất đối với việc sử dụng trong sản xuất nông nghiệp.


2.1.2.4 Đánh giá đất theo FAO
Vào những năm 70 tình hình suy thoái đất đai diễn ra mạnh mẽ và ngày càng
gia tăng, người ta đã thấy rõ được tầm quan trọng của công tác đánh giá, phân hạng
đất đai là cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất. Và nhận thức được tầm quan trọng
xuất phát từ yêu cầu sử dụng đất nhằm hạn chế và ngăn chặn những tổn thất đối với
tài nguyên đất đai. Các nhà khoa học về đánh giá đất đã nhận thấy cần có những nỗ
lực không chỉ đơn phương ở từng quốc gia riêng rẽ mà phải thống nhất các nguyên
tắc, tiêu chuẩn đánh giá đất đai trên phạm vi toàn cầu. Kết quả là Uỷ ban quốc tế
nghiên cứu về đánh giá đất đã được thành lập tạp Rome (Italia), thuộc tổ chức FAO

và đã cho ra đời bản dự thảo đánh giá đất lần đầu tiên vào năm 1972, đến năm 1976
"Đề cương đánh giá đất đai" (FAO, 1976) đã được biên soạn.
Đề cương đưa ra các nguyên tắc đánh giá đất sau:
- Mức độ thích hợp của đất đai được đánh giá, phân hạng cho các loại sử
dụng đất củ thể.
- Việc đánh giá yêu cầu có sự so sánh giữa lợi nhuận thu được và đầu tư cần
thiết trên các loại đất khác nhau.
- Yêu cầu phải có quan điểm tổng hợp.
- Việc đánh giá phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của
vùng.
- Khả năng thích nghi phải đưa vào sử dụng dựa trên cơ sở bền vững.
- Đánh giá đất có liên quan tới so sánh với nhiều loại hình sử dụng đất khác
nhau, từ đó mới chọn ra được loại hình sử dụng đất tối ưu.
Đề cương đánh giá đất của FAO cũng như các tài liệu hướng dẫn đánh giá đất
cụ thể cho các đối tượng sản xuất nông– lâm nghiệp đều có 3 mức độ đánh giá: sơ
lược, bán chi tiết và chi tiết. Hai phương pháp đánh giá đất được sử dụng là phương
pháp hai bước và phương pháp song song. Tùy theo phạm vi nghiên cứu và điều
kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu mà vận dụng.
Tài liệu này được nhiều nước trên thế giới quan tâm, thử nghiệm và vận
dụng vào công tác đánh giá đất ở nước mình. Đến năm 1983 và những năm tiếp


theo, bản đề cương này được bổ sung, chỉnh sửa cùng với hàng loạt các tài liệu
hướng dẫn đánh giá đất chi tiết cho các vùng sản xuất khác nhau:
-

1983 - Đánh giá đất cho nông nghiệp nước trời.

-


1984 - Đánh giá đất cho vùng đất rừng.

-

1985 - Đánh giá đất cho nông nghiệp được tưới .

-

1989 - Đánh giá đất cho đồng cỏ chăn thả.

-

1990 - Đánh giá đất cho su nghiệp phát triển nông nghiệp.

-

1992 - Đánh giá đất và phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử

dụng đất.
Đánh giá đất theo FAO là sự kết hợp giữa 2 trường phái đánh giá đất trên thế
giới đó là: trường phái đánh giá đất theo phát sinh (Liên Xô cũ) và trường phái đánh
giá đất theo định lượng (Mỹ - Soil Taxonomy). Đồng thời đưa ra những quan điểm
mới trong đánh giá bền vững đất nông nghiệp. Đánh giá được xem xét trên phạm vi
rộng bao gồm cả yếu tố về tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường. Phương pháp
đánh giá đất theo FAO được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và được xem là
phương tiện tốt nhất để đánh giá tiềm năng đất đai.
Phương pháp đánh giá đất của FAO chính là đánh giá độ thích hợp đất đai.
Thực chất của phương pháp trên dựa trên sự so sánh đối chiếu mức độ thích hợp
giữa yêu cầu của một loại hình sử dụng đất nào đó hay một loại cây trồng nhất định
với đặc tính vốn có của đơn vị bản đồ đất đai, gắn với việc phân tích các khía cạnh

kinh tế, xã hội và môi trường có liên quan đến hiệu quả sử dụng đất để lựa chọn
phương án sử dụng tốt nhất. Vì vậy, đánh giá hiện trạng kinh tế- xã hội và môi
trường là một trong các bước chính của đánh giá đất theo FAO.
Như vậy, phương pháp đánh giá đất thích hợp theo FAO đã đề cập đến các chỉ tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường có liên quan đến khả năng sử dụng đất và khả năng
sinh lợi nhuận của chúng. Đây là những thông tin rất có ý nghĩa đối với việc xác
định và lập kế hoạch sử dụng đất

2.1.2.5 Đánh giá đất ở Việt Nam


Từ ngàn xưa, ông cha ta đã có cách phân hạng ruộng tốt, ruộng xấu. Đánh
giá phân hạng ruộng đất là một đòi hỏi của thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Từ thời
phong kiến, các triều đại phong kiến nước ta đã sử dụng đo đạc, phân hạng theo
kinh nghiệm nhằm quản lý đất đai cả số lượng lẫn chất lượng. Năm 1092, nhà lý
tiến ành đo đạc ruộng đất lần đầu tiên và lập danh bạ để đánh thuế đất đai. Đến nhà
hậu lê ruộng đất đã phân chia làm các hạng: nhất đẳng điền, nhị đẳng điền... nhằm
phục việc quân điền và thu thuế ngoài ra trong thời gian này nhà lê cũng ban hành
chính sách quân điền (1429) và chính sách lộc điền (1477) những kiến thức về đất
đai liên quan đến cây trồng được tìm thấy trong (dư địa chí) của nguyễn trãi và một
số công trình nghiên cứu của lê hữu đôn, lê tắc, nguyễn nghiêm. Sau khi lên năm
quyền (1802), nhà nguyễn đã chỉ đạo xây dựng địa bàn thống nhất cho các xã, thôn.
Ruộng đất lúc này đã phân thành 6 hạng (lục hạn thổ) đối với ruộng trồng màu và
thành 4 hạng (tứ đẳng điền) đối với ruộng trồng lúa làm cơ sở cho việc mua bán
cũng như chính sách ban hành ruộng đất
Thời kì pháp thuộc cách phân hạng đất được sử dụng với một số đồn điền
nhằm đánh thuế. 1986, bavie và cộng sự đã tiến hành khảo sát đất vùng trung lào,
trung bộ và đông nam bộ việt nam cuối cùng vào năm 1890 kết quả này được xem
là tài liệu nghiên cưau về đất đầu tiên của việt nam và cả đông dương. Trong thời
gian này có một số công trình nghiên cứu về đất như: báo cáo kết quả của phòng

phân tích Nam Bộ P.Morange 1898-1901, Bei 1902 và một số nhận xét về thành
phần lý, hó học của đất Nam Bộ được công bố thực hiện.
Năm 1954, đất nước ta chia làm hai miền: ở miền bắc cùng với công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc đánh giá đất đai bắt đầu được nghiên cứu chủ yếu
là việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp đánh giá đất của Liên Xô cũ theo trường
phái Đocutriv.
ở thập kỉ 70 Nguyên Văn Thân ( viện thổ nhưỡng nông hóa) đã tiến hành
nghiên cứu phân hạng đất với một số cây trồng trên một số loại đất. Sau đó những


tiêu chuẩn xếp hạng ruộng đất được xây dựng và phát triển ở thái bình năm 19801982
Đầu những năm 1990, nước ta tiến hành nghiên cứu ứng dụng phương pháp
đánh giá đất đai của Fao trong dự án quy hoạch tổng thể DBSCL năm 1990 của
phân viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
Từ năm 1992 đến nay phương pháp đánh giá đất đai của Fao bắt đầu được
thực hiện nhiều ở nước ta. Đánh giá đất đai theo Fao được triển khai rộng khắp ở
nhiều mức độ chi tiết và tỉ lệ bản đồ khác nhau. Từ việc đánh giá đất đai cho 9 vùng
sinh thái Việt Nam của Phạm Dương Hưng, Công Phò, Bùi Thị Ngọc Duy ơ bản đồ
tỉ lệ 1: 250000, tới đánh giá đất cấp tỉnh trên bản đồ 1:100000, 1:50000, cấp huyện
1:25000, và một số dự án nhỏ 1:1000
Đến nay nước ta đã phân chia toàn bộ đất đai thành 6 hạng từ hạng I đến
hạng VI, với 3 cấp độ thích nghi. Rất thích hợp(S1), thích hợp (S2) và thích hợp
( S3),không thích hợp (N). Trong đó chia ra đất không thích hợp hiên tại ( N1) và
đất không thích hợp vĩnh viễn (N2)
Nội dung và phương pháp đánh giá đất của FAO để được vận dụng có kết
quả ở Việt Nam, phục vụ hiệu quả cho chương trình quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới cũng như cho các dự án quy hoạch sử dụng đất ở
các địa phương. Các cơ quan nghiên cứu đất tại Việt Nam đang và sẽ tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng phương pháp đánh giá đất của FAO vào các vùng nông- lâm nghiệp
khác nhau phù hợp với các điều kiện sinh thái, cấp tỷ lệ bản đồ, đặc biệt với điều

kiện kinh tế, xã hội để nhanh chóng hoàn thiện các quy trình đánh giá đất và phân
hạng thích hợp đất đai ở Việt Nam.
.2.2. Quan điểm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1 Khái quát về đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào các ngành của sản xuất nông
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng để nghiên cứu


thí điểm về nông nghiệp.Ngoài tên gọi đất nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất. Đất trồng trọt là đất nông nghiệpđược sử
dụng vào mục đích trồng trọt các loại cây trồng như cây lương thực, cây công
nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm, …
- Khái niệm hiệu quả sử dụng đất:
Quan niệm hiệu quả sử dụng hợp lý đất nông nghiệp: phải nhận biết rõ những nhân
tố có lợi để khai thác phát huy, đồng thời nhận biết những yếu tố bất lợi để phòng
tránh khắc phục.
Sử dụng hiệu quả hợp lý đất trồng trọt tức là:
+

Đưa hết số lượng đất nông nghiệp, lâm nghiệp của đất nước vào mục đích
nông nghiệp, lâm nghiệp.

+

Bố trí các loại cây trồng vật nuôi trên từng vùng phù hợp với các điều kiện đất

đai, thời tiết, khí hậu của vùng đó nhằm thu hồi được khối lượng sản phẩm lớn nhất
trên mỗi ha đất đai.
+ Bố trí các loại cây trồng vật nuôi trên từng vùng cho vừa đảm bảo được hiệu
quả kinh tế cao, bảo vệ đất, chống xói mòn và rửa trôi đất bảo vệ được môi

trường sinh thái của vùng.
+

Có những biện pháp hợp lý trong việc cải tạođất(tưới, tiêu, thau chua, rửa

mặn, bón phân, luân canh, làm đất) nhằm nâng cao độ phì nhiêu của đất bảo
đảm cho sức sản xuất của đất không ngừng tăng lên.
2.2.2. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để phát triển một nền
nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên thế giới.
Nói một cách chung nhất thì hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại.
Kết quả, mà là kết quả hữu ích, là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích
của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu do tích chất mâu thuẫn giữa
nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải xem xét


kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra là bao nhiêu? Có đem lại kết quả
hữu ích hay không? Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả của hoạt động sản xuất
không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công
tác hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó.
Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được kết quả phải là chi
phí lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả lao động xã hội
và được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích thu được với lượng
hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hóa kết quả và tối
thiểu hóa chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên hữu hạn.
Sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ
cấu cây trồng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước trên
thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch
định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn của

nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Sử dụng đất đai có hiệu quả là các hệ thống, các biện pháp nhằm điều hòa mối
quan hệ người– đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi trường.
2.2.2.1 Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế, xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực sản xuất của xã hội
ngày càng trở nên khan hiếm, việc nâng cao hiệu quả là một đòi hỏi khách quan của
mọi nền sản xuất xã hội.
Hiệu quả kinh tế phải đạt được ba vấn đề sau (Vũ Thị Phương Thụy, 2000):
+ Một là: Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật “tiết
kiệm thời gian”, nó là động lực phát triển của lực lượng sản xuất, là điều kiện
quyết định phát triển nền văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua
mọi thời đại.


+ Hai là: Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết hệ
thống. Quan điểm của lý thuyết hệ thống cho rằng nền sản xuất xã hội là một hệ
thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất... Hệ thống là một tập hợp các phần tử có
quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất và luôn vận động. Theo
nguyên lý đó, khi nhiều phần tử kết hợp thành một hệ thống sẽ phát sinh nhiều
tính chất mới mà từng phần tử đều không có, tạo ra hiệu quả lớn hơn tổng hiệu
quả các phần tử riêng lẻ. Do vậy, việc vận dụng khai thác các điều kiện sẵn có,
hay giải quyết các mối quan hệ phù hợp giữa các bộ phận của một hệ thống với
yếu tố môi trường bên ngoài để đạt được khối lượng sản phẩm tối đa là mục tiêu
của từng hệ thống. Đó chính là mục tiêu đặt ra đối với mỗi vùng kinh tế, mỗi chủ
thể sản xuất trong mọi xã hội.
+ Ba là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường nguồn lực sẵn có phục vụ cho lợi ích

của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được
là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của
các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan cần xét cả phần so sánh tuyệt đối và tương
đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của phạm trù kinh tế sử
dụng đất là: Với một diện tích nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất
nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng vật chất về xã hội (Vũ Thị Phương Thụy, 2000).
2.2.2.2. Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng
chi phí bỏ ra (Nguyễn Thị Vòng, 2001).


Theo hội Khoa học đất Việt Nam (2000), hiệu quả xã hội được phân tích bởi
các chỉ tiêu sau:
- Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
- Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng.
- Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
- Góp phần định canh, định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Tăng cường sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là hàng xuất khẩu.
Hiệu quả xã hội là một phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế
và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hóa các chỉ tiêu
biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng các
chỉ tiêu mang tính định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xóa đói giảm
nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của toàn dân.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được xác định
bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Hiện nay,
việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là vấn đề

đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.
2.2.2.3Hiệu quả môi trường
Quá trình sản xuất dưới tác động của các hoạt động sản xuất, quản lý của con
người hệ thống cây trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi
trường. Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: loại hình sử dụng đất phải bảo
vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn sự thoái hóa đất, bảo vệ môi trường sinh
thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%). Đa dạng sinh
học biểu hiện qua thành phần loài (Nguyễn Văn Bộ và Bùi Huy Hiền, 2001).
Hiệu quả môi trường là hiệu quả đảm bảo tính bền vững cho môi trường
trong sản xuất và xã hội. Là vấn đề được nhân loại quan tâm, được phản ánh bằng các
chỉ tiêu kỹ thuật như: cải tạo đất, an ninh môi trường, tỷ lệ che phủ rừng,...


Hiệu quả môi trường được sản sinh do tác động của hóa học, sinh học, vật lý
học,... chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường, của các loại vật chất
trong môi trường. Trong thực tế tác động của môi trường diễn ra rát phức tạp theo
chiều hướng khác nhau. Cây trồng được phát triển tốt khi phát triển phù hợp với
tính chất và đặc tính của đất.
Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả hóa học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ hóa học trong nông nghiệp. Đó là việc sử dụng phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất cho cây trồng sinh trưởng và cho
năng suất cao mà không gây ô nhiễm môi trường đất.
Hiệu quả sinh vật môi trường thể hiện qua mối tác động qua lại giữa cây
trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại trong các loại hình sử dụng đất
nhằm giảm thiểu việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục
tiêu đặt ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt nhất tài
nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử dụng đất để đạt
sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
Tóm lại, trong sử dụng đất cần phải quan tâm kết hợp tới cả ba loại hiệu quả:

kinh tế, xã hội và môi trường để xây dựng những hệ thống cây trồng, những loại
hình sử dụng đất phù hợp với từng điều kiện sinh thái xã hội khác nhau làm sao để
đạt hiệu quả cao nhất mà vẫn bảo vệ được các nguồn tài nguyên, đảm bảo được tính
bền vững lâu dài trong sản xuất.
2.2.3. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ người
- đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào
quy luât phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng ổn định và bền
vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng đất
hợp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới
hiệu quả sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt


động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng
đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất
đai. Với vai trò là nhân tố của sức sản xuất ,các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất
đai được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian
sử dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sủ dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp , hình thành quy mô kinh
tế sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một cách
kinh tế, tập trung thâm canh (Đoàn Công Qùy, 2006).

2.2.4. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất là hết sức cần thiết, nó
giúp cho việc đưa ra những đánh giá phù hợp với từng loại đất, cùng đất để trên cơ sở
đó đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất,…vừa bị chi phối bởi các điều
kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, vừa bị kiềm chế bởi các điều kiện, quy luật kinh
tế- xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy, những điều kiện và nhân tố ảnh hưởng chủ
yếu đến việc sử dụng đất là:
2.2.4.1 Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có rất nhiều yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa,
thủy văn, không khí,… có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Trong các
yếu tố đó khí hậu là nhân tố hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện
đất đai chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng và các nhân tố khác. Do vậy cần đánh giá
đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù
hợp và hướng đầu tư thâm canh đúng.


+ Điều kiện khí hậu: Đây là nhóm yếu tố ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều hay
ít, nhiệt độ cao hay thấp, sự sai khác về nhiệt đô về thời gian và không gian, biên độ
tối cao hay tối thấp giữa ngày và đêm,… trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh yếu có ý
nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và ẩm độ của đất, cũng như khả năng đảm
bảo khả năng cung cấp nước cho các cây, con sinh trưởng, phát triển.
Theo Mác, Điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo
N.Borlang- người đạt giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước phát triển
cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng nhất hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế
giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì
nhiêu của đất (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
+ Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mực
nước biển, độ dốc hướng dốc,…thường dẫn đến đất đai, khí hậu khác nhau, từ đó
ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp. Địa hình và
độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp, là căn cứ cho việc lựa
chọn cơ cấu cây trồng, xây dựng đồng ruộng, thủy lợi canh tác và cơ giới hóa.

Mỗi vùng địa lý khác nhau có sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác. Các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy cần tuân theo các quy luật của
tự nhiên, tận dụng các lợi thế đó nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội
và môi trường.
2.2.4.2 Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác
Biện pháp kĩ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai, cây
trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của các quá trình sản xuất
để hình thành, phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những tác động thể hiện
sự hiểu biết sâu sắc đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể
hiện những dự báo thông minh của người sản xuất (Đường Hồng Dật, 1994). Trên
cơ sở nghiên cứu các quy luật tự nhiên của sinh vật lựa chọn các tác động kỹ thuật,
lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào nhằm đạt được các múc tiêu sử


dụng đất đề ra. Theo Frank Ellis và Douglass, ở các nước phát triển, khi có tác động
tích cực của kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu
cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghiệp sản xuất
tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Cho
đến giữa thế kỷ XXI, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần
đến 30% của năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
2.2.4.3 Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
Nhóm này bao gồm:
+ Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất: Thực hiện phân vùng sinh thái nông
nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên, dựa trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá nhu
cầu của thị trường, gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ
tầng, phát triển nguồn nhân lực và các thể chế luật pháp về bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Đó là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng vật nuôi và khai thác đất một

cách đầy đủ, hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến
hành tập trung hóa, chuyên môn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp.
+ Hình thức tổ chức sản xuất: có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức khai
thác và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế, cần phát huy thế mạnh
của các lại hình sử dụng dất trong từng cơ sở sản xuất, thực hiện đa dạng hóa các
hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp
và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hình thức đó.
+ Dịch vụ kỹ thuật: sản xuất hàng hóa của hộ nông dân không thể tách rời
những tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và sản
xuất. Vì vậy sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển đòi hỏi phải không ngừng
nâng cao chất lượng nông sản và hạ giá thành nông sản phẩm.
2.2.4.4 Nhóm các yếu tố xã hội bao gồm:
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa cũng giống như ngành
sản xuất vật chất khác của xã hội, nó chịu sự chi phối của quy luật cung cầu chịu sự


ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố đầu vào, quy mô các nguồn lực như: đất, lao động,
vốn sản xuất, thị trường, kiến thức và kinh nghiệm trong sản xuất tiêu thụ nông sản
(Vũ Thị Bình, 1993).
+ Hệ thống thị trường và sự hình thành thị trường đất nông nghiệp, thị
trường nông sản (Nguyễn Duy Tính, 1995), 3 yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp là năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị
trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
+ Hệ thống chính sách (đất đai, hỗ trợ, điều chỉnh cơ cấu đầu tư,...)
Sự ổn định chính trị- xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tư của các
chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư.

2.2.5. Quan điểm sử dụng đất sản xuất nông nghiệp bền vững và các tiêu chí đánh
giá tính bền vững

 Quan điểm sử dụng đất sản xuất nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất nông nghiệp bền vững đồng nghĩa với việc phải xây dựng một
hệ thống nông nghiệp bền vững. Nông nghiệp bền vững là mội hệ thống thiết kế để
tạo môi trường bền vũng cho cuộc sống con người. Có rất nhiều quan điểm về hệ
thống nông nghiệp bền vững:
Conway (1987): Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống phải duy trì
được năng suất sinh khối (sinh khối/đơn vị diện tích/đơn vị thời gian) theo thời gian
từ thập kỷ đến thế kỷ.
Okigbo (1991): Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có sản lượng
chấp nhận được hoặc tăng lên, thoả mãn nhu cầu của con người ngày một nâng cao;
một hệ thống có năng suất tăng liên tục, đảm bảo có hiệu quả kinh tế cao và an toàn
sinh thái, thống qua quản lý các nguồn lợi thiên nhiên và đầu tư, với những tổn hại
ít nhất đến môi trường và ít nguy hiểm nhất đối với con người.
FAO: Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống quản lý thành công các
nguồn lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp để thoả mãn những nhu cầu của con


người, trong khi duy trì hoặc nâng cao chất lượng môi trường và bảo vệ các nguồn
lợi thiên nhiên.
Để duy trì được khả năng bền vững đối với đất đai Smyth A.J và J
Dumanski (1993) đã xã định năm nguyên tắc liên quan đến sử dụng đất sau:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất.
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất.
- Bảo vệ tài nguyên và ngăn chặn sự thoái hóa đất và nước.
- Có hiệu quả lâu bền.
- Được xã hội chấp nhận.
Năm nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất bền vững, nếu sử dụng
đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất đai được bảo vệ cho phát triển nông
nghiệp bền vững.
Vận dụng các nguyên tắc đã nêu ở trên, ở Việt Nam một loại hình được coi là

bền vững phải đạt được 3 yêu cầu:
+ Bền vững về kinh tế: Cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt, được thị
trường chấp nhận. Chất lượng sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương,
trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu từng vùng.
+ Bền vững về mặt xã hội: Nâng cao được đời sống nhân dân, thu hút được
lao động, phù hợp với phong tục tập quán của người dân. Đáp ứng nhu cầu nông hộ
là điều cần quan tâm trước nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất,
môi trường,...). Sản phẩm thu được phải thỏa mãn được cái ăn, cái mặc và nhu cầu
sống hằng ngày của người nông dân.
+ Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu
mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái đất.
Ba yêu cầu trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất ở thời
điểm hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên để có
những định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng.


Để duy trì sự sống còn của con người, nhân loại đang phải đương đầu với
nhiều vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn, sự bùng nổ dân số và nạn ô nhiễm và
suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh thái,... Nhiều nước trên thế giới đã xây
dựng và phát triển nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp bền vững.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại vừa
đảm bảo nhu cầu của các thế hệ tương lai (Phạm Vân Đình và cs., 1998). Một quan
niệm khác cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự
thay đổi về tổ chức và kĩ thuật nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người cho hiện tại và cả tương lai (FAO, 1990). Để phát triển nông nghiệp bền
vững ta cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu bền của từng mô hình để duy trì và
phát triển đa dạng sinh học.
 Tiêu chí đánh giá tính bền vững
Để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất cần dựa vào 3 tiêu chí sau đây:
 Bền vững về kinh tế

Ở đây cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình
quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm
chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả,...và tàn dư để lại). Một hệ bền
vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh
được trong cơ chế thị trường.
Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong
nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của
hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn
hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ
người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền
vay vốn ngân hàng.
 Bền vững về xã hội
Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát triển xã hội.


Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan tâm
đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường,...). Sản phẩm thu được cần thoả mãn cái
ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân.
Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống sử
dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã
được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập quán
địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
 Bền vững về môi trường
Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái
hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu
lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép.
Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng đất

bền vững.
Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc
canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm,...).
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất
hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để giúp cho việc định
hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái.
2.3 Tình hình nghiên cứu về đánh giá đất và hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu
Tỉnh Hải dương có diện tích đất tự nhiên là 165.598,54 ha.trong đó đất nông nghiệp
có tổng diện tích là: 104.648,95 ha, chiếm 63,19% so với tổng diện tích đất tự nhiên
của tỉnh. Trong đó:
Đất sản xuất nông nghiệp: 84.415,94 ha, chiếm 80,66% đất nông nghiệp và
50,98% so với tổng diện tích tự nhiên của tỉnh.Đất lâm nghiệp:10.849,80 ha chiếm
10,37% đất nông nghiệp và 6,55% so với tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh.Đất


nuôi trồng thủy sản: 9.288,96 ha chiếm 8,87% diện tích đất nông nghiệp và 5,61%
so với tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh.Đất nông nghiệp khác: 94,25 ha chiếm
0,09% diện tích đất nông nghiệp và 0,06% so với tổng diện tích tự nhiên của tỉnh.
Đất phi nông nghiệp có tổng diện tích: 60.403,01 ha chiếm 36,48% tổng
diện tích tự nhiên của tỉnh
Đất chưa sử dụng với tổng diện tích: 546,58 ha chiếm 0,33% tổng diện tích
tự nhiên của tỉnh.
Từ thực tế cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là hết sức cần
thiết nhằm phát triển nhanh hơn nền kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, huyện Gia Lộc nói
chung cũng như xã Quang Minh nói riêng cần phải chú trọng nghiên cứu và triển
khai có hiệu quả các giải pháp sử dụng đất phù hợp, thiết thực với điều kiện của xã
Quang Minh, huyện Gia Lộc để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước
mắt và lâu dài


PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ

PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Các kiểu sử dụng đất nông nghiệp ở xã Quang Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương.
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: trong khoảng 271,32 ha đất nông nghiệp trên địa bàn xã Quang
Minh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Thời gian: Từ ngày 20/01/2015 đến ngày 20/05/2015.
3.2 Nội dung nghiên cứu
3.2.1 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Quang Minh, huyện
Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.


×