Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Cảm nhận về tình yêu cuộc sống của xuân diệu trong bài thơ vội vàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.58 KB, 8 trang )

Đề bài: Nghị luận văn học: Cảm nhận về tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng.
Bài làm
Biển cả nghìn năm không ngừng dào dạt sóng. Sóng biển có lúc êm đềm nhưng cũng có khi thét
gào dữ dội. Tâm hồn con người cũng như biển vậy. Thi nhân xúc cảm trước cuộc đời mà viết nên trang.
Con sóng lòng tràn bờ, tràn trên con chữ thành thơ. Đúng như Uy-li-am Uốt – thi sĩ người Anh có câu:
“Thơ ca là sự bộc phát của những tình cảm mãnh liệt”.Thơ ca là điệu hồn tâm hồn, là những xúc cảm
thiêng liêng, mãnh liệt nhất của những người cầm bút. Đó là quy luật sáng tạo nghệ thuật muôn đời. Thi
nhân xúc cảm và khao khát được bộc bạch nỗi lòng, tỏ bày tâm sự. Khi đó, họ tìm đến thơ: “Khi tình cảm
tự tìm tìm cho nó một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ” (Ta-go). Điều này đã được minh
chứng trong rất nhiều các tác phẩm thơ ca Việt Nam và nó thật đúng khi đến với Vội vàng của Xuân Diệu.
Bài thơ “Vội vàng” nói lên niềm khao khát mãnh liệt được tận hưởng cuộc sống, mùa xuân, tình yêu của
một tâm hồn thơ mới tươi trẻluôn rạo rực và yêu tha thiết cuộc đời.
Xuân Diệu thành viên nhóm tự lực văn đoàn, là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài
Thanh). Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện
một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.Ông còn được mệnh
danh là “ông hoàng thơ tình” luôn khát yêu, thèm yêu, muốn được yêu đến say mê và cuồng nhiệt.
Người đọc vẫn bắt gặp những vần thơ với nhịp điệu tha thiết, vội vàng, gấp gáp như một nỗi sợ thời gian
trôi, sợ tình yêu đi mất và sợ tuổi trẻ trôi qua. Bài thơ Vội vàng (viết năm 1938 trước cách mạng tháng
tám) được in trong tập Thơ thơ là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những
cung bậc cảm xúc khác nhau.
Trước hết, tình yêu cuộc sống trần thế da diết của Xuân Diệu được thể hiện qua bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống trong mười ba câu đầu. Mở đầu là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện một ước
muốn kì lạ của thi sĩ, đó là muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Trong làng thơ mới, Chế Lan Viên thấy “tất cả là vô nghĩa”, “tất cả không ngoài nỗi khổ đau”. Không thích
mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn cản bước chân của nó bằng những lá vàng, những cánh hoa
tàn từ mùa thu trước:
Ai đâu trở lại thu trước


Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả cánh hoa tươi muôn cánh rã


Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Xuân)
Nhưng Xuân Diệu lại yêu thích mùa xuân – mong muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Hình ảnh “nắng “, “gió” là
những hình ảnh mang tính chất trìu tượng của thiên nhiên nhưng nhà thơ lại muốn “tắt”, muốn “buộc”
thật là những hành động kì lạ, ngông cuồng chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng lại được quy luật, làm
sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi, mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé
mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới đượm sắc hương này. Nghệ thuật điệp từ
“tôi muốn” kết hợp với điệp cấu trúc “cho màu đừng nhạt”, “cho hương đừng bay” càng thêm khẳng
định khao khát mãnh liệt, táo bạo muốn níu giữ những gì đẹp nhất tinh túy nhất của thiên nhiên, đất trời
đồng thời thể hiện cái tôi cá nhân của tác giả.
Mọi thứ bắt đầu đều mang một lí do đặc biệt. Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi
ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Nhà thơ cảm nhận cuộc đời như một khu vườn mùa xuân
căng đầy nhựa sống. Và khu vườn trong bài thơ cũng vội vàng dâng sắc, tỏa hương, trao mật ngọt. Với
Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và
xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, thơ mộng nhất vậy thì dại
gì mà ta không hưởng vậy nên nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt và vồ vập:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây là cửa cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Các câu thơ nối tiếp nhau với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên
nhiên đậm sắc, hương, thanh. Chim chóc, hoa lá, ong bướm cũng tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt
mà. Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng cảnh vật không tĩnh lặng mà lại náo động linh hoạt với những hình ảnh
liên tưởng độc đáo. “Tuần tháng mật” là tuần đẹp nhất của đôi vợ chồng đắm say, giờ đây trở thành

mùa của ong bướm dập dìu rất đổi lãng mạn. Tiếng chim hót trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao
nhiêu con người yêu cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e
thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật “ánh sáng chớp hàng mi”. Tất cả như cân xứng, chan hoà
làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Qua các nghệ thuật điệp ngữ “này đây”,nhân hóa
“ánh sáng chớp hàng mi” kết hợp với những hình ảnh táo bạo góp phần tạo nên một âm điệu nhịp nhàng
uyển chuyển, liệt kê liên tục mọi cảnh vật, vẻ đẹp khác nhau trong khu vườn mùa xuân từ đó cũng cho
thấy được sự tinh tế khi cảm nhận mùa xuân của nhà thơ và sự khéo léo khi vẽ lại những hình ảnh tuyệt
đẹp ấy bằng thứ sức sống căng tràn, sinh sôi nảy nở. Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất là “tháng giêng” ,
tươi mới nhất là ”mỗi buổi sớm”, để miêu tả cảnh vật khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng trở
nên tinh khôi ,xinh đẹp. Song không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ
thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác, thính giác, đến thị giác. Trước cảnh trần


thế xinh đẹp, tâm hồn của thi nhân càng rạo rực, tha thiết và bâng khuâng, từ đó đã khơi nguồn lên
những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ, nhịp thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn
của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Đây là cách so sánh rất riêng, rất táo bạo, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu mà trước
đây chưa từng có trong thơ ca trung đại. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như
cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng,
vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống
đến si mê, đến cháy bỏng. Đây có lẽ là điểm đặc sắc khác với thơ ca trung đại luôn bị chi phối bởi quan
niệm thẩm mĩ riêng, con người luôn xuất hiện rất mờ nhạt, chìm trong những mô típ quen thuộc. Họ
quan niệm thiên nhiên, đất trời, vũ trụ là cái to lớn, vĩnh hằng, hoàn mĩ nhất. Bởi thế con người có xuất
hiện thì cũng ẩn chìm đằng sau vẻ đẹp của tạo vật “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu
hờn kém xanh” (Truyện Kiều). Nhưng đến “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra trước mắt chúng ta một quan
niệm hoàn toàn mới mẻ về con người. Với ông, trên trần thế này, không có gì đẹp hơn con người. Con
người chính là vẻ đẹp hoàn mĩ của tạo vật, là chủ nhân của cuộc sống tươi đẹp và là chuẩn mực, thước
đo cho thiên nhiên, đất trời.
Tuy nhiên khi đang đắm chìm trong vị ngọt của thiên nhiên, của tình yêu thì Xuân Diệu cũng chua

xót nhận ra sự trôi đi vội vàng, quá hững hờ của thời gian khiến chúng ta không thể nhìn lại được:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Câu thơ bị hẫng hụt chuyển sang một âm điệu bi thương bởi dấu chấm giữa dòng "Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng một nửa”. Thực ra cuộc đời rất ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn thời gian trôi đi không bao
giờ trở lại. Dĩ nhiên những giá trị của hạnh phúc, của cái đẹp sẽ tàn phai, sẽ chết là tất yếu. Đây là cảm
thức có tính nhân loại. Lí Bạch nói: “Người xưa cầm đuốc chơi đùm”. Tô Thức tâm sự:
Cảnh khuya nhưng sợ rồi hoa ngủ
Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng
Nguyễn Trãi băn khoăn:
Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân
Nguyễn Gia Thiều thì thở dài tuyệt vọng:
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một hôm cỏ khâu xanh rì.


Ngay cả bài thơ Vãn cảnh của Hồ Chí Minh cũng chuyên vận trong quỹ đạo ấy. Tuy nhiên khi cá nhân
chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn hỏi trong vũ trụ, thuyết luân hồi thì cái chết chỉ là một sự bắt
đầu của một quá trình. Văn học trung đại có thở than nhưng không phải ngậm ngùi.
Như vậy qua bức tranh thiên nhiên ta đã phần nào thấy được tình yêu cuộc sống rộng lớn,
mãnh liệt của Xuân Diệu và điều đó càng bộc lộ rõ nét hơn qua tâm trạng băn khoăn, nuối tiếc về kiếp
người, thời gian:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Thơ xưa coi con người là một vũ trụ nhỏ trong cái đại vũ trụ rộng lớn của đất trời. Cái tiểu vũ trụ
ấy không biến mất đi trong cái đại vũ trụ mênh mông này. Mà thời gian của vũ trụ là vô cùng, vô tận nên
con người cũng không có nhiều cảm giác lo âu về sự trôi chảy của thời gian. Họ đón nhận nó bằng một
thái độ an nhiên, bình thản:
Xuân qua trăm hoa rụng


Xuân tới trăm hoa tươi
(Mãn giác thiền sư)
Nhưng đến với Thơ mới, trào lưu thơ của sự thức tỉnh ý thức cá nhân, con người có khát vọng được
khẳng định giá trị, khẳng định ý nghĩa đích thực của sự tồn tại. Ở Vội vàng lại dùng chính tuổi trẻ làm
thước đo cho thời gian, Xuân Diệu đã hối thúc, giục giã con người nhận ra một thực tế nhuốm màu bi
kịch: Thời gian của vũ trụ là vô hạn nhưng tuổi trẻ con người thì hữu hạn và quá ngắn ngủi trước đất
trời. Bằng cảm thức tinh tế và mới mẻ ấy, nhà thơ đã hối thúc con người hãy tăng cường độ sống để tận
hưởng khi tuổi xuân, tuổi trẻ vẫn còn. Có lẽ Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên nhìn thấy cái xuân đi trong
xuân đến, cái xuân qua khi xuân thì:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
bởi đơn giản, với ông, cuộc đời sẽ không còn nhiều ý nghĩa khi tuổi xuân đã mất, tuổi trẻ chẳng còn. Với
sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một sự thật đáng buồn "Tuổi trẻ chẳng
hai lần thắm lại" cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày hôm nay đã khác hôm qua, huống
chi năm này với năm khác, nàng xuân thì trường sinh còn tuổi trẻ của mỗi người đều có giới hạn. Khát
khao của người nghệ sĩ càng vô cùng lớn lao thì giới hạn của kiếp người càng trở nên ngắn ngủi, chật
chội. Người đọc cảm nhận được sự lo lắng vì thấy được cái tàn phai héo úa của mùa xuân và tuổi trẻ
ngay trong thời điểm tươi đẹp nhất. Quan niệm đó của nhà thơ xuất phát từ cái nhìn biện chứng về vũ
trụ và cuộc đời, nỗi niềm khắc khoải thời gian vẫn thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Tuy nhiên thực tế
vẫn là thực tế, vũ trụ vẫn chuyển động như vốn dĩ, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Mỗi
khoảnh khắc đều quý giá vô cùng vì đến là đi, không thể lấy lại, không thể lặp lại. Qua đây ta có thể thấy
lời kêu gọi của tác giả muốn thức tỉnh những con người đang tự ru ngủ mình trong quỹ thời gian bốn
mùa không thay đổi. Và đây là một quan niệm mới mẻ của nhà thơ về thời gian.
Tâm trạng tiếc nuối của tác giả khi nhận ra rằng thời gian vẫn cứ luôn dịch chuyển, và tuổi xuân
cũng sẽ trôi đi. Đến đây cái vui rạo rực của phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u
buồn, một nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này:
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Hình ảnh cuộc đời tràn đầy hương thơm, màu sắc, âm thanh và niềm vui sống ở đoạn đầu đã
thay bằng những chi phối buồn thảm ở đoạn hai này, cơn gió lo âu thì thào và hờn giận vì phải bay đi,
chim chóc đang rộn ràng bỗng bặt im tiếng hót, cuộc sống đang náo nức bỗng thảng thốt ngưng lặng vì
nghĩ đến độ phai tàn sắp sửa. Thi sĩ thấy thời gian như ngọn gió, bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở
độ căng mọng nhất cũng là khi đối diện với sự ám ảnh tàn phai của thời gian. Tất cả đều bất ngờ, hụt
hẫng, tiếc nuối. Thời gian có mùi, có vị chia phôi. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một chia lìa, một mất mát,


bao nhiêu sự vật trên thế giới này mỗi khác. Cho nên cả trời đất, sông núi dâng lên một âm thanh duy
nhất- âm thanh của sự chia ly.
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Bức tranh thiên nhiên giờ đây cũng được bao trùm bởi tâm trạng của thi sĩ, đâu còn bức tranh thiên
nhiên tràn đầy ánh sáng, sắc thơm ? Vạn vật thở than ngậm ngùi đưa tiễn phần đời của chính nó. Những
phần đời như thế ra đi không thể nào cưỡng lại nổi tạo thành dòng chảy không ngừng phôi pha, mất
mát, chia lìa. Đó cũng là phai tàn lòng người, kiếp người nên nhà thơ mới than rằng:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Bằng nghệ thuật đối lập, giọng điệu hờn dỗi ngậm ngùi trước quy luật nghiệt ngã của thời gian nhà thơ
đã nói lên tâm trạng bất lực ki ý thức được sự hữu hạn của cuộc đời. Đây cũng chính là cảm nhân về
thời gian mang ý vị triết lí nhân sinh sâu sắc. Đó là chẳng bao giờ thời gian có thể quay trở lại cũng như
chẳng bao giờ tuổi trẻ có thể thắm lại hai lần. Chính vì cuộc sống, thời gian kiếp người quá ngắn ngủi,
nên Xuân Diệu muốn thúc giục mọi người hãy sống vội vàng, đam mê cháy bỏng, sống hết mình để tận
hưởng cuộc đời này thật trọn vẹn và ý nghĩa “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”.
Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt, Xuân Diệu đã ôm ghì lấy
cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên
cuồng nhiệt hối hả.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!



Nếu chọn một đoạn thơ trong đó có cái giọng thơ sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất,
thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập con tim Xuâ Diệu trong
đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành
những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Nếu như ở phần đầu bài thơ, tác giả xưng “tôi” để bộc
bạch, giãi bày tâm trạng thì ở khổ thơ cuối, tác giả lại xưng “ta” để tự mình đối diện với sự sống trên trần
gian. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có ba chữ, lại được đặt ở một vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ là
hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian,
dang rộng vong tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh
sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế vào lòng. Điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ cao
và cũng thật thích đáng. Nhất là mỗi lần điệp đều đi với một động thái yêu thương mỗi lúc một mạnh
mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say - thâu - cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ
rạng” là câu thơ vụng bởi có quá nhiều liên từ “và”, vậy tại sao lại như vậy? Vậy mà đó lại là sáng tác của
một nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng
nói, cái khẩu khí của thi sĩ, thể hiện đậm nét đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể
hiện một cách trực tiếp cái cảm xúc ham hố tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời
của thi sĩ.
Câu thơ:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các
động thái hưởng thụ thỏa thuê: chếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng trào dâng, cao
hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Đây là câu thơ duy nhất trong bài có hình thức là một lời đối thoại, có từ để gọi. Phải chăng suốt từ đầu
bài thơ là những nung nấu, khát khao, đến đây chúng buộc thành lời? Câu thơ là đỉnh cao của cảm xúc
mãnh liệt làm cho người đọc cảm thấy nhà thơ giống như một con ong hút mật muốn hút hết những
mật ngọt của nhân gian. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn chứa hết vũ trụ. Câu kết bài thơ thật đẹp
và rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn, tròn căng hấp dẫn như trái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được “cắn” vào
quả đời ấy để tận hưởng một cách nhục cảm, hết mình mọi hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới
tạo ra kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế.

Có thể nói, “Vội vàng” là bản tình ca về tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt, da diết, chân thành đồng
thời cũng là thông điệp sống đầy ý nghĩa của một hồn thơ yêu đời nồng nhiệt: hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những năm tháng tuổi trẻ quý
giá của đời người. Đây là quan niệm sống tích cực, tiến bộ, không giống với quan niệm sống gấp của giới
trẻ bây giờ. Bởi lẽ nếu sống vội, sống gấp chỉ là sự hưởng thụ cá nhân ích kỉ, thì sống vội của Xuân Diệu là
tận hưởng, tận hiến để không chỉ cá nhân được hạnh phúc, mà cuộc đời cũng lưu giữ được sắc hương.
Tư tưởng đó được gửi gắm qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhị giữa những


hình ảnh, ngôn ngữ thơ độc đáo, đầy sáng tạo cùng giọng điệu say mê, cuồng nhiệt, sôi nổi, thể thơ tự
do, câu thơ vắt vòng, các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ…
Như vậy, Xuân Diệu đã linh cảm được cái ngắn ngủi của đời, chỉ lo sợ không được cùng với thời
gian tồn tại. Lạ thay, chính từ niềm lo sợ ấy, những bài thơ của Xuân Diệu đã sống mãi với thời gian. Bây
giờ, sau khi nhà thơ đã nằm xuống, đọc lại những bài thơ như bài Vội vàng này, ta bỗng nhận ra rằng:
Xuân Diệu mãi mãi trẻ trung; hôm nay và mai sau cũng vậy.



×