Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

tích hợp kiến thức các môn lịch sử, địa lí, gdcd vào giảng dạy đoạn trích đất nước (trích trường ca mặt đường khát vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.69 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu .......................................................................................................... 3
2. Tên sáng kiến: ........................................................................................................ 4
3. Tác giả sáng kiến: ................................................................................................... 4
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ................................................................................... 4
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: .................................................................................. 4
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử....................................... 4
7. Mô tả bản chất của sáng kiến: ................................................................................ 4
7.1. Cơ sở sáng kiến: .............................................................................................. 4
7.1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề........................................................................... 4
7.1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 7
7.1.3. Biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ........................................... 8
* Tích hợp kiến thức môn Lịch sử trong dạy học đoạn trích Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm............................................................................................ 9
* Tích hợp môn Địa lí trong dạy học văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm ................................................................................................................. 11
* Tích hợp môn Giáo dục công dân trong dạy học đoạn trích Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm.......................................................................................... 12
* Tích hợp nội môn trong dạy học văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
.......................................................................................................................... 13
7.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến ................................................................... 38
8. Những thông tin cần được bảo mật (không): ....................................................... 38
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ..................................................... 38
9.1. Với nhà trường: ............................................................................................. 38
9.2. Với giáo viên: ................................................................................................ 38
9.3. Với học sinh: ................................................................................................. 39
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu ...................................................................................................... 39
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả: ................................................................................. 39


10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân .................................................................. 40
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có): ............................................................................................... 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 41

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. CNTT: Công nghệ thông tin
2. DH: Dạy học
3. GV: Giáo viên
4. GDCD: Giáo dục công dân
5. HS: Học sinh
6. THPT: Trung học phổ thông
7. SGK: Sách giáo khoa
8. SGV: Sách giáo viên
9. ĐC: Đối chứng
10. TN: Thực nghiệm

2


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu
Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội,
điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình

cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó
nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn khác. Học môn Ngữ văn sẽ có tác
động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần
giúp học tốt môn Ngữ văn. Cho nên tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính
thực hành giảm lý thuyết, gắn với đời sống.
Hơn nữa, Ngữ Văn cũng là môn học góp phần hình thành nên những kiến
thức cơ bản và quan trọng nhất là hình thành nhân cách con người, chuẩn bị cho
các em một hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn. Đó
cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai.
Thấy được tầm quan trọng của việc dạy và học môn Ngữ văn nói chung và
Ngữ văn lớp 12 nói riêng đồng thời phát huy cao hơn nữa hiệu quả trong giảng dạy
theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa và quan điểm tích hợp là vấn đề cần được
quan tâm nhất hiện nay. Bởi tích hợp là một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại.
Nó giúp học sinh tiết kiệm thời gian học tập mà vẫn mang lại hiệu quả nhận thức,
có thể tránh được những biểu hiện cô lập, tách rời từng phương diện kiến thức,
đồng thời phát triển tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức
linh hoạt vào các yêu cầu môn học, phân môn cụ thể trong chương trình học tập
theo nhiều cách khác nhau. Và vì thế việc nắm kiến thức sẽ sâu sắc, hệ thống và lâu
bền hơn.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, trong quá trình thực hiện chương trình
Ngữ văn lớp 12, tôi thấy tính ưu việt của phương pháp dạy học tích hợp các kiến
thức liên môn này hơn hẳn những phương pháp trước đây được vận dụng. Tính ưu
việt của phương pháp thể hiện rõ qua thái độ, niềm say mê, kết quả tiếp nhận của
học sinh trong từng bài học. Tiếp nối vấn đề đó, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài
“Tích hợp kiến thức các môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân vào giảng dạy
3


đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa
Điềm, Ngữ văn 12)”.

2. Tên sáng kiến:
TÍCH HỢP KIẾN THỨC CÁC MÔN LỊCH SỬ, ĐỊA LÍ, GDCD
VÀO GIẢNG DẠY ĐOẠN TRÍCH
ĐẤT NƯỚC (TRÍCH TRƯỜNG CA “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”–
NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
MÔN NGỮ VĂN 12
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Lê Thị Hải Yến (15/07/1990)
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Lê Xoay – Thị trấn Vĩnh Tường huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 091 555 3832

E_mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Lê Thị Hải Yến – Trường THPT Lê Xoay – Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Giảng dạy văn bản đoạn trích Đất Nước – trích trường ca Mặt đường khát vọng
của Nguyễn Khoa Điềm; Ngữ văn lớp 12.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
- Tháng 11 năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Cơ sở sáng kiến:
7.1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
7.1.1.1. Khái niệm tích hợp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp
có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
4



nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp các
hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự
hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy.
Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh
vực khoa học giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để
chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con
người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại
hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn
có.
Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ
trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào
những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD
môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự
nhiên và xã hội… xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống.
Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc
xác định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình
môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở
những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình DH. Đưa tư tưởng sư
phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp
trong GD và DH sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức
tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn
học, các mặt GD được thực hiện riêng rẽ. Tích hợp là một trong những quan điểm
GD nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ
phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước

trong khu vực Châu Á và trên thế giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong DH
và cho rằng quan điểm này đã đem lại hiệu quả nhất định.
Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết phải
thấy rằng cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại thành của tri
thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ
cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ
5


nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và phối hợp kinh
nghiệm kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Tích hợp trong nhà trường
sẽ giúp HS học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kĩ năng và phương
pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lí trong giải quyết các tình
huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại.
Tích hợp là quan điểm hòa nhập, được hình thành từ sự nhất thể hóa những
khả năng, một sự quy tụ tối đa tất cả những đặc trưng chung vào một chỉnh thể duy
nhất. Khoa học hiện nay coi trọng tính tương thích, bổ sung lẫn nhau để tìm kiếm
những quan điểm tiếp xúc có thể chấp nhận đựợc để tạo nên tính bền vững của quá
trình DH các môn học.
Trong một số môn học, tư tưởng tích hợp được tiếp nhận với các mức độ
thấp và khác nhau như: Lồng ghép - là đưa thêm nội dung cần học tương tự với
môn học chính; tích hợp - là sự kết hợp tri thức của nhiều môn học tạo nên môn
học mới.
Quan điểm tích hợp và phương pháp dạy học theo hướng tích hợp đã được
GV tiếp nhận nhưng ở mức độ thấp. Phần lớn GV lựa chọn mức độ tích hợp “liên
môn” hoặc tích hợp “nội môn”. Các bài dạy theo hướng tích hợp sẽ làm cho nhà
trường gắn liền với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của cộng đồng.
7.1.1.2. Tích hợp trong môn Ngữ văn
Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng
nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao

tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối
tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ
năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan
điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ
năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác
động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc “nội bộ phân
môn”.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng
hoạt động của HS trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy học
tích hợp đòi hỏi GV phải có cách dạy chú trọng phát triển ở HS cách thức lĩnh hội
kiến thức và năng lực, phải dạy cho HS cách thức hành động để hình thành kiến
thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc HS phải tự đọc, tự học để
hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu
trong suốt quá trình học tập ở nhà trường.
6


Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi
nhẹ việc cung cấp tri thức cho HS. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa
bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực
cho HS. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình HS tự ý
thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng
những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý đã đành, mà
còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ
nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn bản, vào những tình huống có ý
nghĩa đối với HS, coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp.
Tóm lại, “Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán
triệt trong toàn bộ môn học: từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong
mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập;
tích hợp trong chương trình, tích hợp trong SGK, tích hợp trong phương pháp dạy

học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách
đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy HS làm trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc
tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ; tìm
mọi cách phát huy năng lực tự học của HS, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng
lòng tin cho HS thì các em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và
như vậy đào tạo mới có kết quả.” (Chương trình THPT môn Ngữ văn - Bộ
GD&ĐT, năm 2002)./.
7.1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy phương pháp giảng dạy truyền thống
giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau tách rời từng phương diện
kiến thức, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem lại cũng chưa cao.
Chính vì lẽ đó, dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của
dạy học hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống
và lôgic. Qua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến
thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức lí thuyết và các kĩ năng
thực hành, đưa được những kiến thức về văn, Tiếng Việt vào quá trình tạo lập văn
bản một cách hiệu quả.
Có nhiều hình thức tích hợp: Kiểu tích hợp giữa các phân môn trong cùng
một bộ môn (chẳng hạn ở môn Ngữ văn có Văn - Tiếng Việt -Tập làm văn). Điều
này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa các phân môn một cách đồng bộ và
7


sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho
nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác và
đều hướng đến mục đích cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
Hình thức tích hợp được các GV vận dụng và hiện đang được đẩy mạnh là
tích hợp liên môn.

Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học với các kiến thức
của các bộ môn khác, các ngành khoa học, nghệ thuật khác, cũng như các kiến thức
đời sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống cộng đồng, qua đó làm giàu thêm
vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học sinh.
7.1.3. Biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
7.1.3.1. Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp môn Ngữ văn THPT
* Xác định đúng nội dung, mục tiêu tích hợp
Để vận dụng phương pháp dạy học tích hợp có hiệu quả, người dạy cần phải
xác định chính xác, đúng đắn mục tiêu, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tích
hợp trong bài dạy.
- Mục tiêu:
+ Khắc sâu kiến thức bài học
+ Thể hiện tính liên kết, mối quan hệ hữu cơ của chương trình
+ Rèn luyện kĩ năng tiếp nhận văn học cho HS
- Nội dung:
+ Các nội dung kiến thức có những điểm liên quan, tương đồng với các bài đã học
+ Các nội dung kiến thức cần đến việc sử dụng kiến thức của các bộ môn khác,
phân môn khác để làm phương tiện, công cụ khai thác.
- Nguyên tắc
+ Căn cứ vào mục tiêu cần đạt của tiết học
+ Căn cứ vào nội dung chương trình (các bài học trước hoặc sau bài cần dạy có liên
quan)
- Phương pháp:
+ Xác định nội dung, phạm vi kiến thức cần tích hợp
8


+ Lựa chọn dữ liệu tích hợp
* Chuẩn bị các dữ liệu để tích hợp
Một trong những yếu tố quyết định thành công của việc vận dụng phương

pháp dạy học tích hợp là việc chuẩn bị dữ liệu tích hợp (Dữ liệu được hiểu là các
đơn vị kiến thức cần có để tích hợp). Để việc chuẩn bị dữ liệu tích hợp có hiệu quả,
GV cần xác định mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp cụ thể để tích hợp.
* Sử dụng linh hoạt các hình thức tích hợp: Có ba hình thức tích hợp cơ bản sau:
- Tích hợp ngang: Là hình thức tích hợp liên phân môn và là hình thức tích hợp
theo từng thời điểm. Đối với môn Ngữ văn, GV sử dụng tri thức của các phân môn
Tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học để giải mã văn bản văn học hoặc ngược lại.
- Tích hợp dọc: Tích hợp theo thể loại, đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học. Mục
đích của việc tích hợp này chủ yếu là so sánh, đối chiếu giữa các bài học có cùng
đề tài, chủ đề, các đơn vị kiến thức có quan hệ tương đồng để khắc sâu kiến thức
cho HS, giúp HS nhận ra những điểm giống nhau và khác biệt của các nội dung cần
quan tâm trong bài dạy văn bản văn học.
- Tích hợp liên môn: Đây là mô hình giáo dục khá phù hợp với chương trình dạy
học Ngữ văn tại các trường THPT. Để thực hiện tích hợp môn Ngữ văn với các
môn học khác, GV cần có hiểu biết rộng về nội dung các môn học khác như: Lịch
sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Sinh học, Tiếng Anh… Điều này đòi hỏi GV phải
mở rộng kiến thức, tăng cường trao đổi kiến thức với GV các bộ môn khác.
7.1.3.2. Phạm vi kiến thức vận dụng tích hợp liên môn và biện pháp cụ thể để
giảng dạy đoạn trích “Đất Nước”
Một trong những phương pháp giúp HS hứng thú, say mê học tập văn bản
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là GV và HS vận dụng kiến thức liên môn và
nội môn vào chiếm lĩnh văn bản một cách phù hợp. Sau đây là một số giải pháp cụ
thể:
* Tích hợp kiến thức môn Lịch sử trong dạy học đoạn trích Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm
Mục I. Tiểu dẫn; mục 2. Tác phẩm; mục a. Hoàn cảnh ra đời, GV tích hợp kiến
thức môn Lịch sử lớp 12 (Bài 22. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống
đế quốc Mĩ xâm lược 1965-1973) để giúp HS hiểu rõ hơn hoàn cảnh ra đời bài
thơ.
9



GV dùng máy chiếu cho HS quan sát hình ảnh và hỏi: Em hãy quan sát hình
ảnh và trình bày những hiểu biết của mình về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân
dân ta trong những năm 1965 – 1973?
HS quan sát tranh và dùng những hiểu biết về cuộc kháng chiến chống Mĩ
giai đoạn này để trả lời. GV nhận xét, bổ sung, chốt ý:
+ Sau thất bại của chiến tranh cục bộ, vào đầu năm 1969, Mĩ chuyển sang thực
hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đồng thời mở rộng chiến tranh ra
toàn Đông Dương.
+ “Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới
của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa
lực, không quân, hậu cần của Mĩ và vẫn do cố vấn Mĩ chỉ huy nhằm chống nhân
dân ta. Tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mĩ tiếp tục thực hiện âm mưu
“Dùng người Việt đánh người Việt” để giảm xương máu người Mĩ trên chiến
trường.
+ Một số hình ảnh về vụ thảm sát ở Mĩ Lai – một tội ác của đế quốc Mĩ trên đất
nước ta giai đoạn 1969-1971
+ GV thuật lại lời kể của nhà thơ về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để HS hiểu rõ
hơn về đoạn trích đồng thời tạo tâm thế tiếp nhận và định hướng tiếp nhận cho HS:
“Chương V là một chương lớn. Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền
miên sau Tết. Đó là thời kì máy bay Mĩ đánh phá dữ dội. B52 giội liên tục, làm cho
mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng
hưởng bởi tiếng bom nổ, bởi khói bom và mưa rừng. Có khi viết xong, một trận
bom làm cho bản thảo bay tung tóe, lượm lại trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp.
Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ có việc tuôn
chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè
đang tranh đấu ở trong thành phố. Nên nhân vật của tôi là anh và em. Đó là lời
đằm thắm của một người con trai nói với một người con gái. Chúng tôi, mỗi người
có một số phận khác nhau nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là số phận

đất nước. Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh
hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”.
Ý nghĩa:

10


- Từ biện pháp tích hợp kiến thức Lịch sử vào dạy học bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng, chúng ta thấy rõ hiệu quả bài học như sau:
- Đặt bài thơ trong bối cảnh lịch sử ra đời thì toàn bộ giá trị nội dung, tư tưởng của
tác phẩm mới được bộc lộ một cách đầy đủ và sâu sắc.
- Tích hợp kiến thức Giáo dục công dân: Giáo dục học sinh lòng yêu nước, thái độ
trân trọng, biết ơn trước sự hy sinh, tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm của các
thế hệ cha anh đi trước. Từ đó, hướng HS đến những việc làm cụ thể, thiết thực để
tiếp nối truyền thống dân tộc, góp phần dựng xây đất nước giàu đẹp.
- Biện pháp này giúp cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn, mở rộng kiến thức
liên môn, tránh sự nhàm chán, đơn điệu.
Tuy nhiên trong quá trình vận dụng, GV phải lựa chọn tài liệu phù hợp, đảm
bảo hai tiêu chuẩn: giá trị giáo dục và giá trị văn học. Tài liệu lịch sử không làm
mất đi đặc trưng nội dung văn bản văn học, phân tán sự chú ý của HS vào những
vấn đề đang học.
* Tích hợp môn Địa lí trong dạy học văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm
- Mục II. Đọc – hiểu văn bản; Mục 2. Đoạn 2: Tư tưởng cốt lõi: Đất Nước của
Nhân dân. Khi phân tích đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng đã góp cho đất
nước những núi Vọng Phu…… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”, GV chiếu
hình ảnh về cảnh đẹp non sông và cung cấp thêm thông tin về các địa danh này. Cụ
thể như sau: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đền Gióng, đền thờ các vua Hùng, núi
Bút, non Nghiên, sông Cửu Long, núi bà Đen, núi Bà Điểm, sông Ông Đốc,…
Ý nghĩa:

- Giúp HS có thêm tri thức về các địa danh xuất hiện trong bài thơ. Từ đó
giúp HS hiểu hơn về những sự hóa thân của nhân dân vào dáng hình xứ sở.
- Trải qua thời gian, những địa danh ấy ngày nay trở thành những nơi thu hút
khách du lịch bởi vẻ đẹp tiềm ẩn của nó, góp phần phát triển kinh tế của đất nước.
Vì vậy, việc đưa thêm những thông tin trên vào bài học, không chỉ làm cho bài học
phong phú, sinh động mà còn góp phần đưa bài học gắn với thực tế cuộc sống hiện
nay.
Tuy nhiên để thực hiện được biện pháp liên môn này đòi hỏi GV phải khéo
léo, nắm chắc phương pháp, kiến thức khoa học và thực tiễn.
11


* Tích hợp môn Giáo dục công dân trong dạy học đoạn trích Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm
- Mục II. Đọc – hiểu văn bản; Mục 2. Đoạn 2: Tư tưởng cốt lõi: Tư tưởng Đất
Nước của Nhân dân. Khi nói về lí tưởng, khát vọng của người chiến sĩ Tây Tiến,
GV tích hợp với Giáo dục công dân Lớp 10 (Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc)
GV chiếu câu hỏi lên bảng: từ sự đóng góp, hy sinh của những con người vô
danh, bình dị đối với đất nước, em hãy liên hệ đến tinh thần trách nhiệm, lí tưởng
của thế hệ trẻ ngày nay đối với công cuộc bảo vệ đất nước?
GV phát và yêu cầu HS điền câu trả lời vào phiếu học tập mà mình đã chuẩn
bị sẵn. Câu trả lời của HS có thể hướng đến một số nội dung sau:
Bác Hồ đã dạy: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”. Ngày nay, đất nước đã hoàn toàn thống nhất nhưng chúng ta
vẫn phải luôn cảnh giác, chống lại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù để bảo vệ Tổ
quốc.
Là những công dân trẻ tuổi yêu nước, thanh niên HS chúng ta có trách nhiệm:
- Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Cảnh giác trước mọi âm
mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái

độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước.
- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe
- Tham gia đăng kí nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc
- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa các gia đình thương binh, liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam
anh hùng do nhà trường, địa phương tổ chức.
- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Sống có lí tưởng, hoài bão vì đất nước
Ý nghĩa:
- Việc tích hợp với kiến thức môn GDCD có vai trò rất lớn trong việc giáo
dục HS về trách nhiệm của thanh niên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua
đó, giúp HS định hướng được mình cần làm gì để mai này góp phần xây dựng và
phát triển đất nước. Đó cũng chính là cách GV giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước
ở các em học sinh.
- Khiến cho bài học thêm phong phú, sinh động
12


Lưu ý là khi tích hợp với kiến thức GDCD, GV nên để cho HS suy nghĩ và
trình bày quan điểm của mình. Từ đó đi đến những định hướng đúng đắn nhất.
Kiến thức tích hợp ở đây cần tiêu biểu và sát với nội dung bài học.
* Tích hợp nội môn trong dạy học văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Mục II. Đọc – hiểu văn bản; Mục 1. Đoạn 1: Những cảm nhận mới mẻ của tác
giả về Đất nước
- Khi giảng câu thơ: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn/ Đất Nước
lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” GV chiếu hình ảnh, tích hợp văn
học dân gian (Ngữ văn 6, tập một):
+ Truyện cổ tích Trầu cau: Sự tích thuộc dạng văn học truyền miệng và có nhiều dị

bản. Câu chuyện kể là vào đời vua Hùng Vương thứ tư có hai anh em Tân và Lang
rất thương yêu nhau. Tân sau khi có vợ thì không còn chăm sóc đến em như trước
nữa. Lang lấy làm buồn rầu và bỏ nhà ra đi. Tới bên bờ suối thì Lang mệt quá, gục
xuống chết và hóa thành tảng đá vôi. Tân, không thấy em về, vì thương em nên
quyết đi tìm. Đi đến bờ suối thì Tân mệt lả và chết, biến thành cây cau bên tảng đá
vôi. Vợ Tân không thấy chồng cũng bỏ đi tìm. Nàng tìm đến bờ suối, ngồi dựa vào
thân cau mà chết, biến thành dây trầu không. Trầu, cau và vôi khi quyện lại với
nhau tạo ra sắc đỏ như máu nên sau có vua Hùng Vương đi tuần qua đó, nghe thấy
câu chuyện trên mà dạy cho dân Việt hãy dùng ba thứ vôi, cau và trầu làm biểu
tượng tình nghĩa thắm thiết anh em, vợ chồng. Ngôi đền thờ ba người hiện nay là
đền Tam Khương ở làng Nam Hoa, huyện Nam Đàn (Nghệ An) mà các triều đại
phong kiến vẫn có sắc phong tặng.
+ Truyền thuyết Thánh Gióng: Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có
hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi
không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và
mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba
tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười. Giặc Ân xuất hiện ngoài
bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn
bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi
cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt,
cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên
đường đánh tan quân giặc. Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi
rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ.

13


Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh
của Gióng năm xưa.
- Tích hợp văn học dân gian (Ngữ văn 10, tập một): Khi giảng câu thơ Đất Nước là

nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, GV gợi nhớ cho HS bài ca dao
Khăn thương nhớ ai:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề...”
- Tích hợp văn học dân gian: Khi giảng câu thơ “Đất là nơi chim về/ Nước là nơi
Rồng ở” GV gợi nhắc đến Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên:
Xưa, ở miền đất Lạc Việt có một vị thần thuộc nòi Rồng, tên là Lạc Long
Quân. Trong một lần lên cạn giúp dân diệt trừ yêu quái, Lạc Long Quân đã gặp và
kết duyên cùng nàng Âu Cơ vốn thuộc dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao
phương Bắc. Sau đó Âu Cơ có mang và đẻ ra cái bọc một trăm trứng. Sau đó, bọc
trứng nở ra một trăm người con. Vì Lạc Long Quân không quen sống trên cạn nên
hai người đã chia nhau người lên rừng, kẻ xuống biển, mỗi người mang năm mươi
người con.
Người con trưởng theo Âu Cơ, được lên lên làm vua, xưng là Hùng Vương, đóng đô
ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Khi vua cha chết thì truyền ngôi cho

14


con trưởng, từ đó về sau, cứ cha truyền con nối đến mười tám đời, đều lấy hiệu là

Hùng Vương.
- Tích hợp với kiến thức văn học hiện đại: Khi giảng các câu thơ: “Em ơi em/ Đất
nước là xương máu của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho
dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời”, GV liên hệ đến những câu thơ có
cùng cảm hứng:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 thì làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì còn chi Tố quốc?
(Thanh Thảo)
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
(Tố Hữu)
Nguyễn Khoa Điềm có lần tâm sự:“điều may mắn với tôi là được sống trong những
năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn”.
- Mục II. Đọc – hiểu văn bản; Mục 2. Đoạn 2: Tư tưởng cốt lõi: Tư tưởng Đất
Nước của Nhân dân GV tích hợp với văn học dân gian:
+ Giảng những câu thơ: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những
núi Vọng Phu….. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” , GV gợi nhắc đến các câu
chuyện cổ tích: Sự tích núi Vọng Phu, Sự tích hòn Trống Mái,…
+ Các dòng thơ : “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi/ Biết quý công cầm vàng
những ngày lặn lội/ Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài
lâu” được lấy ý từ những câu ca dao quen thuộc:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em ngủ, anh ngồi anh ru.
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
Cách thức tổ chức dạy học tích hợp đoạn trích Đất nước (Trích trường ca

Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
15


GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết 27: Đọc văn
ĐẤT NƯỚC
(TRÍCH “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”)
- Nguyễn Khoa Điềm I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức: Sau bài này, giúp học sinh hiểu:
1.1. Môn Ngữ văn:
- Thấy thêm một cái nhìn mới mẻ về đất nước qua cảm nhận của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân
dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.
- Nắm được một số nét đặc sắc về nghệ thuật: giọng thơ trữ tình- chính luận, sự vận
dụng sáng tạo nhiều yếu tố của văn hoá và văn học dân gian làm sáng tỏ thêm tư
tưởng “Đất nước của Nhân dân” .
1.2. Môn Địa lí:
- Nêu được vị trí một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của đất nước.
1.3. Môn GDCD:
- Trách nhiệm của thanh niên trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
1.4. Môn Lịch sử
- Hiểu về truyến thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân qua
những chiến công trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
1.4. Văn hóa – khoa học
- Vận dụng tích hợp kiến thức nhiều ngành khoa học như: văn hóa, du lịch,...
2. Kĩ năng:
- Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng của thể loại thơ trữ tình – chính luận.

- Kĩ năng vận dụng kiến thức các môn Địa lí, Lịch sử, GDCD để chiếm lĩnh tri thức
bài học một cách sâu sắc nhất.
3. Tư duy, thái độ:
- Bồi dưỡng tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc.
- Trân trọng những địa danh lịch sử, danh nhân lịch sử và văn hóa.
- Giáo dục tính cẩn thận, tinh thần say mê học tập.
4. Định hướng phát triển năng lực:
16


4.1. Năng lực chung: Năng lực tự học, giải quyết vấn đề, sử dụng CNTT, hợp tác,
giao tiếp.
4.2. Năng lực chuyên biệt: tư duy tổng hợp vấn đề, năng lực cảm thụ văn học, năng
lực phân tích ngôn ngữ, năng lực đọc – hiểu văn bản,…
II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- GV nêu vấn đề, phát vấn kết hợp với diễn giảng.
- Hoạt động song phương tích cực giữa GV và HS
III. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Giáo viên:
+ Các thiết bị, đồ dùng dạy học, học liệu sử dụng trong dạy học như SGK, máy
chiếu, tranh ảnh minh họa, giáo án.
+ Các ứng dụng CNTT trong việc dạy và học, dùng máy chiếu để trình chiếu các
tranh ảnh và tài liệu minh họa
+ Các kiến thức về địa lí, lịch sử Việt Nam, GDCD, mĩ thuật,...
- Học sinh:
+ Soạn nội dung bài học
+ Tìm những tác phẩm có cùng tư tưởng chủ đề về hình tượng đất nước trong giai
đoạn 1945-1975.
+ Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu về đất nước trong chiến tranh...
+ Tri thức về địa lí, lịch sử Việt Nam...

IV. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP:
1. Tổ chức: (1 phút)
Lớp 12A3:
Lớp 12A6:
2. Kiểm tra bài cũ: không
3. Bài mới
Đất nước là một đề tài chẳng bao giờ cũ nhưng cũng không còn mới trong
văn học nghệ thuật. Riêng giai đoạn 1945-1975, kho tàng thơ VN đã được tiếp
nhận khá nhiều tác phẩm hay : Đất nước –Nguyễn Đình Thi, Tổ quốc bao giờ đẹp
thế này chăng-Chế Lan Viên, Những người đi tới biển-Thanh Thảo…Tuy vậy, mỗi
nhà thơ lại có một góc nhìn riêng gắn với những quan niệm và những trải nghiệm
riêng của mình về đất nước. Với những trải nghiệm riêng của mình, Nguyễn Khoa
Điềm đã đóng góp một cái nhìn mới về đất nước qua đoạn trích “Đất nước”
Hoạt động của thầy và trò
Kiến thức cần đạt
Hoạt động 1 : GV hướng dẫn I- TÌM HIỂU CHUNG
17


HS tìm hiểu chung:
- GV yêu cầu HS trình bày ngắn
gọn những hiểu biết về tác giả
Nguyễn Khoa Điểm
- GV yêu cầu HS tiếp tục dựa
vào phần tiểu dẫn để trình bày
hiểu biết về đoạn trích “Đất
Nước”
- HS dựa vào SGK trình bày
- GV thuật lại lời kể của nhà thơ
về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm

để HS hiểu rõ hơn về đoạn trích
đồng thời tạo tâm thế tiếp nhận
và định hướng tiếp nhận cho HS:
“Chương V là một chương lớn.
Tôi viết chương này trong những
ngày mưa triền miên sau Tết. Đó
là thời kì máy bay Mĩ đánh phá
dữ dội. B52 giội liên tục, làm cho
mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng
tôi ngồi trong hầm và viết, cảm
xúc được cộng hưởng bởi tiếng
bom nổ, bởi khói bom và mưa
rừng. Có khi viết xong, một trận
bom làm cho bản thảo bay tung
tóe, lượm lại trang còn trang
mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết
rất nhanh, như cảm xúc đã dồn
tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ có
việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về
những điều giản dị của chính tôi,
về tuổi trẻ và các bạn bè đang
tranh đấu ở trong thành phố.
Nên nhân vật của tôi là anh và
em. Đó là lời đằm thắm của một

1. Tác giả
a. Tiểu sử
- Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu
truyền thống yêu nước và tinh thần cách
mạng.

- Học tập và trưởng thành trên miền Bắc, tham
gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ ở miền
Nam.
b. Phong cách sáng tác
- Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén .
- Giọng thơ trữ tình chính luận .
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Hoàn thành ở chiến
khu Trị -Thiên 1971, in lần đầu năm 1974 .
- Tích hợp kiến thức về lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1969-1971 khi Mĩ tiến hành chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt
Nam:
+ Sau thất bại của chiến tranh cục bộ, vào đầu
năm 1969, Mĩ chuyển sang thực hiện chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đồng thời
mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.
+ “Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức
chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ,
được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ
yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân,
hậu cần của Mĩ và vẫn do cố vấn Mĩ chỉ huy
nhằm chống nhân dân ta. Tiến hành “Việt
18


người con trai nói với một người
con gái. Chúng tôi, mỗi người có
một số phận khác nhau nhưng
đều gắn kết trong một số phận

chung là số phận đất nước. Đất
nước với các nhà thơ khác là của
những huyền thoại, của những
anh hùng, nhưng với tôi là của
những con người vô danh, của
nhân dân”.

Nam hóa chiến tranh”, Mĩ tiếp tục thực hiện
âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”
để giảm xương máu người Mĩ trên chiến
trường.
+ Một số hình ảnh về vụ thảm sát ở Mĩ Lai –
một tội ác của đế quốc Mĩ trên đất nước ta giai
đoạn 1969-1971:

b. Nội dung: thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm
chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ
mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh
chống đế quốc Mĩ xâm lược
c. Nghệ thuật: mang đậm phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
3. Đoạn trích :
a. Vị trí: Trích chương V của trường ca .
b. Cảm hứng chủ đạo: tư tưởng “Đất Nước
19


của Nhân dân”.
c. Bố cục: Hai phần
- Phần I : 42 câu đầu : Những cảm nhận mới

mẻ của tác giả về Đất nước.
- Phần II: 47 câu cuối: Tư tưởng cốt lõi: Đất
nước của Nhân dân.
Hoạt động 2 : GV hướng dẫn
HS đọc hiểu văn bản
- GV gọi HS đọc đoạn trích. GV
nhận xét và hướng dẫn HS cách
đọc: cần đọc bằng giọng tha
thiết, trầm lắng, trang nghiêm
GV giúp HS nắm được trình tự
triển khai mạch suy nghĩ và cảm
xúc của tác giả: đoạn trích là
những suy ngẫm của tác giả về
đất nước, tự đặt ra và trả lời
những câu hỏi: đất nước có từ
bao giờ?, đất nước là gì?, ai đã
làm nên đất nước?

- GV đọc lại 9 câu thơ đầu, HS
lắng nghe và trả lời câu hỏi : chín
câu thơ đầu đã trả lời câu hỏi gì
về đất nước?
- Nguyễn Khoa Điềm đã cảm
nhận về đất nước qua những hình

II- ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Đoạn 1(42 câu đầu): Đất nước được cảm
nhận từ nhiều phương diện lịch sử văn hoá dân
tộc, chiều sâu của không gian, chiều dài của
thời gian.

a) Chín câu đầu : Đất nước có từ bao giờ
- Một đoạn thơ ngắn nhưng gợi dậy biết bao nét
văn hóa và văn học dân gian quen thuộc:
+”ngày xửa ngày xưa” : câu mở đầu các truyện
cổ dân gian
+miếng trầu : gợi nhớ tục ăn trầu của người
Việt và truyện cổ tích Trầu cau cảm động
+trồng tre đánh giặc : truyền thuyết Thánh
gióng đánh giặc ngoại xâm…
+Tóc mẹ thì bới sau đầu : phong tục búi tóc
thành cuộn sau gáy của người dân Việt
+gừng cay muối mặn: gợi nhớ thói quen tâm lí
tình cảm.
- Tích hợp văn học dân gian (Ngữ văn 6, tập
một):
+ Truyện cổ tích Trầu cau: Sự tích thuộc
dạng văn học truyền miệng và có nhiều dị bản.
Câu chuyện kể là vào đời vua Hùng Vương thứ
tư có hai anh em Tân và Lang rất thương yêu
nhau. Tân sau khi có vợ thì không còn chăm
20


ảnh nào? Những hình ảnh ấy làm
cho em liên tưởng đến những nét
văn hóa dân gian nào quen
thuộc?

-Nhận xét về cách sử dụng
những chất liệu văn hóa, văn học

dân gian của Nguyễn Khoa
Điềm?
Nhà thơ không chỉ ra một bài
nào cụ thể, không trích nguyên
văn những câu trọn vẹn mà chỉ
dẫn ra, gợi ra một vài hình ảnh,
từ ngữ tiêu biểu, để từ đó mở ra
cho người đọc những trường liên
tưởng sâu rộng về đời sống dân
tộc qua hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước
- Trong cảm nhận của Nguyễn
Khoa Điềm, đất nước hiện lên
thật đằm thắm, nghĩa tình như
thế nào?
- GV gợi mở : theo em, Nguyễn
Khoa Điềm đã trả lời cho câu hỏi
“đất nước có tự bao giờ như thế
nào? Đâu là điểm mới trong cách
tìm về cội nguồn đất nước của
ông?
- GV trích hai đoạn thơ của
Nguyễn Đình Thi và Chế Lan

sóc đến em như trước nữa. Lang lấy làm buồn
rầu và bỏ nhà ra đi. Tới bên bờ suối thì Lang
mệt quá, gục xuống chết và hóa thành tảng
đá vôi. Tân, không thấy em về, vì thương em
nên quyết đi tìm. Đi đến bờ suối thì Tân mệt lả
và chết, biến thành cây cau bên tảng đá vôi. Vợ

Tân không thấy chồng cũng bỏ đi tìm. Nàng tìm
đến bờ suối, ngồi dựa vào thân cau mà chết,
biến thành dây trầu không. Trầu, cau và vôi khi
quyện lại với nhau tạo ra sắc đỏ như máu nên
sau có vua Hùng Vương đi tuần qua đó, nghe
thấy câu chuyện trên mà dạy cho dân Việt hãy
dùng ba thứ vôi, cau và trầu làm biểu tượng
tình nghĩa thắm thiết anh em, vợ chồng. Ngôi
đền thờ ba người hiện nay là đền Tam Khương
ở làng Nam Hoa, huyện Nam Đàn (Nghệ An)
mà các triều đại phong kiến vẫn có sắc phong
tặng.

+ Truyền thuyết Thánh Gióng: Vào đời vua
Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ
chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng
là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm
bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to,
về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một
21


Viên để HS so sánh nhận ra điểm
mới trong cách tiếp cận đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm
+ Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp
hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn

sớm chiều
 cảm nhận đất nước ở những
đường nét hoành tráng của không
gian, với giọng điệu ngợi ca đầy
tự hào
+ Hỡi sông Hồng tiếng hát 4000
năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng
Chưa đâu!Và ngay cả trong
những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và
đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước
hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào
cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên
sóng Bạch Đằng.
 Cảm nhận về đất nước qua
những trang sử hào hùng, giọng
điệu hào sảng, hùng tráng
Cả 2 đoạn thơ trên, các tác giả
đã tự tạo ra một khoảng cách
nhất định để chiêm nghiệm về
đất nước, nhìn đất nước ở tầm
vóc kì vĩ, lớn lao

cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên
ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng

biết nói cười. Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi,
cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh
giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu
cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà
con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu
bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt,
cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc.
Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre
bên đường đánh tan quân giặc. Giặc tan,
Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi
bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng
năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ,
những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những
dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

+ Các câu ca dao: tay bưng đĩa muối chén
gừng/gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
22


GV so sánh với NKD để thấy :
NKD cảm nhận đất nước ở tầm
gần, quan sát đất nước ở muôn
mặt đời thường để phát hiện ra
một khuôn mặt mới của đất nước
: dung dị, đời thường, thậm chí
có phần lam lũ nhưng cũng

không kém phần cao cả. Đất
nước không ở đâu xa mà là
những gì giản dị, thân thiết trong
cuộc sống hàng ngày của mỗi
con người

Có xa nhau đi nữa ba vạn 6 nghìn ngày mới xa
- Tích hợp kiến thức về văn hóa:
+ Phong tục tập quán: tục búi tóc sau gáy của
phụ nữ Việt, tục ăn trầu

+ Nền văn minh lúa nước:

Đất nước hiện hình từ trong những câu
chuyện “ngày xửa ngày xưa mẹ kể , miếng trầu
bà ăn, những dãy tre làng, việc bới tóc của mẹ,
tình cảm ân nghĩa thủy chung gừng cay muối
mặn, đến cái kèo, cái cột, hạt gạo…  đất
nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân
quen nhất trong đời sống hàng ngày của mỗi
con người Việt Nam

23


 Cội nguồn đất nước : đất nước có từ thưở xa
xưa, bắt đầu cùng với sự ra đời của những nét
phong tục rất đẹp : ăn trầu, búi tóc sau đầu…,
lớn lên, trưởng thành cùng với quá trình đấu
tranh chống giặc ngoại xâm

 Cội nguồn đất nước không phải được nhìn
từ sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son
lịch sử chói lọi mà được phát hiện từ trong
chiều sâu văn hóa và văn học dân gian-điểm
mới trong cách tìm về cội nguồn đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm.
Với những câu thơ trải dài, trầm lắng, giọng
thơ tâm tình, sử dụng rất tài tình và hiệu quả
những chất liệu văn hóa văn học dân gian
Nguyễn Khoa Điềm làm hiện lên một đất nước
trong chiều sâu văn hóa phong tục thật dung dị,
gần gũi.
4. Củng cố, dặn dò:
- HS nắm nội dung bài học.
- Học thuộc phần I của đoạn trích “Đất Nước”.
- Hoàn thành các câu hỏi trong phần hướng dẫn đọc bài.
- Chuẩn bị phần II của đoạn trích.
5. Rút kinh nghiệm
- Nội dung:
- Phương pháp:
- Phương tiện:

24


Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết 28: Đọc văn
ĐẤT NƯỚC
(TRÍCH “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”)

- Nguyễn Khoa Điềm (tiếp theo)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức: Sau bài này, giúp học sinh hiểu:
1.1. Môn Ngữ văn:
- Thấy thêm một cái nhìn mới mẻ về đất nước qua cảm nhận của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân
dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.
- Nắm được một số nét đặc sắc về nghệ thuật: giọng thơ trữ tình- chính luận, sự vận
dụng sáng tạo nhiều yếu tố của văn hoá và văn học dân gian làm sáng tỏ thêm tư
tưởng “Đất nước của Nhân dân” .
1.2. Môn Địa lí:
- Nêu được vị trí một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của đất nước.
1.3. Môn GDCD:
- Trách nhiệm của thanh niên trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
1.4. Môn Lịch sử
- Hiểu về truyến thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân qua
những chiến công trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
1.4. Văn hóa – khoa học
- Vận dụng tích hợp kiến thức nhiều ngành khoa học như: văn hóa, du lịch,...
2. Kĩ năng:
- Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng của thể loại thơ trữ tình – chính luận.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức các môn Địa lí, Lịch sử, GDCD để chiếm lĩnh tri thức
bài học một cách sâu sắc nhất.
3. Tư duy, thái độ:
- Bồi dưỡng tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc.
- Trân trọng những địa danh lịch sử, danh nhân lịch sử và văn hóa.
- Giáo dục tính cẩn thận, tinh thần say mê học tập.
4. Định hướng phát triển năng lực:
25



×