Tải bản đầy đủ (.docx) (172 trang)

Vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.05 KB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

PHẠM PHƢƠNG LAN

VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

PHẠM PHƢƠNG LAN

VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
&

chủ nghĩa duy

vật lịch sử Mã số: 62
22 80 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Đoàn Quang Thọ

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đoàn Quang Thọ. Các trích dẫn và các
số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào.
TÁC GIẢ

PHẠM PHƢƠNG LAN

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................5
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu..................................................... 5
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án..................................................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án........................................................6
7. Kết cấu của luận án........................................................................................6

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.................................................................................. 7
1.1 Các công trình nghiên cứu có liên quan đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam.........................................................................................................7
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của Nhà nước đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam..................................... 15
Tiểu kết chương 1................................................................................................23
CHƢƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA VÀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM........................................... 25
2.1. Lý luận chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam..................25
2.1.1. Thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.................25
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.........................28
2.1.3. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam..................32
2.2. Lý luận chung về Nhà nước và vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam...................................................... 42
2.2.1. Lý luận chung về Nhà nước và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.......................................................................................................42
2.2.2. Lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam........................................................................46
2.3. Những nhân tố tác động tới vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam...............................................................55

ii


2.3.1. Những nhân tố bên trong Nhà nước................................................... 55
2.3.2. Những nhân tố bên ngoài Nhà nước...................................................61
Tiểu kết chương 2................................................................................................66
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT
NAM VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÓ.................................68
3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian qua.....................................................68
3.1.1. Về xây dựng qui hoạch, kế hoạch, đầu tư, phân bổ các nguồn lực đáp
ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa............................................................................... 69
3.1.2. Về hoạch định cơ chế, chính sách, luật pháp nhằm thu hút các nguồn lực

trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 81
3.1.3. Về đảm bảo và giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; đồng thời
ngăn ngừa những mặt tiêu cực nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam............................................................................... 87
3.1.4. Về kiểm tra, kiểm soát, quản lý quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam............................................................................................. 95
3.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được và những hạn chế về việc thực
hiện vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam thời gian qua..................................................................................100
3.2.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được về thực hiện vai trò của nhà
nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua........100
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế về việc thực hiện vai trò của nhà
nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.............................. 107
Tiểu kết chương 3..............................................................................................114

iii


CHƢƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NHÀ
NƢỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................................116

4.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.........................116
4.2. Nâng cao năng lực tổ chức, quản lý của Nhà nước đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.............................................119
4.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực

quản lý của nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.......129
4.4. Đổi mới cơ chế, chính sách tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa........................................................................134
4.5. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, các doanh nghiệp và toàn
dân trong việc thực hiện cũng như phản biện xã hội về tổ chức, quản lý của
Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa..........................139
4.6. Mở rộng hợp tác quốc tế, học tập kinh nghiệm các nước nhằm nâng cao vai
trò của nhà nước Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. . 141

Tiểu kết chương 4..............................................................................................146
KẾT LUẬN......................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng
ta đã khẳng định sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa và coi đây là nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra cơ sở vật chất

- kĩ thuật hiện đại. Qua các nhiệm kì đại hội, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm
và ngày càng hoàn thiện nhận thức về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đến
Hội nghị giữa nhiệm kì khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 1-1994),
Đảng ta khẳng đinh: “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải khắc phục, những
thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đƣa đất nƣớc
chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bƣớc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” [26; tr.22]. Đây là Hội nghị đánh dấu bước
ngoặt trong nhận thức và quan điểm của Đảng - đặt ra nhiệm vụ công nghiệp hoá
phải đi đôi với hiện đại hoá. Đảng ta cho rằng, với những “tiến bộ về kinh tế, xã
hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ
chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới”
[26; tr.26-27]. Chính vì vậy, Đảng rất quan tâm đến việc xác lập chiến lược, nội
dung, lộ trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bằng sự nỗ lực của mình, Nhà nước không chỉ hiện thực hóa quan điểm,
đường lối lãnh đạo của Đảng mà đã khẳng định vai trò quyết định của nhà nước
trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dưới sự
quản lý của Nhà nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được
những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội ngày càng được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không

1


ngừng được cải thiện, tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc giải quyết có hiệu
quả những vấn đề xã hội nảy sinh. Ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo
dần được giải quyết; các khu công nghiệp, nhà ga, sân bay, cảng biển, các khu
đô thị v.v… dần được chú trọng xây dựng, phát triển và quy hoạch ngày càng

hợp lý hơn. “Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm.
Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện
đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp
tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn có tiến bộ. Cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh
học hóa được chú trọng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn
mới” [42; tr.84-85]. Khoa học - kĩ thuật và công nghệ hiện đại ngày càng được
ứng dụng nhiều hơn trong các ngành, nghề, các khu vực sản xuất. Cơ cấu lao
động xã hội đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tăng tỷ trọng lao động trong
các ngành công nghiệp và dịch vụ; chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện,
phục vụ tốt hơn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; đất nước có thêm lực mới để
tăng tốc và hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời
gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần được khắc phục. Đó là, thiếu tính
qui hoạch tổng thể, tính thống nhất trên phạm vi cả nước; vẫn còn tình trạng
buông lỏng trong quản lý của Nhà nước khiến cho “tính địa phương” phá vỡ
“tính chỉnh thể” trên qui mô quốc gia; việc xây dựng cảng biển, sân bay, nhà ga,
khu công nghiệp, cụm công nghiệp vì những nguồn lợi trước mắt mang lại cho
địa phương mà chưa tính đến hiệu quả và lợi ích “tối thượng” cho quốc gia.
Đồng thời, trong quá trình tổ chức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Nhà nước chưa tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết
2


tình trạng ô nhiễm môi trường; chăm lo và bảo đảm lợi ích thiết thân của người lao
động; khai thác và sử dụng các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người; tệ nạn

xã hội vẫn có chiều hướng gia tăng...“Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sản xuất công
nghiệp thấp so với tiềm năng,…thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với
mức chuẩn của một nước công nghiệp, so với các nước phát triển trong khu vực
còn khoảng cách lớn. Sự chênh lệch giữa các vùng, miền, các bộ phận dân cư còn
lớn” [42; tr.87]. Phần lớn sản xuất công nghiệp là hoạt động gia công lắp ráp, chủ
yếu sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các ngành, các lĩnh vực,
các sản phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao chiếm tỷ lệ thấp, tốc độ tăng
chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Hầu hết
các ngành kinh tế, kể cả một số ngành được coi là chủ lực, chưa xác lập được vị trí
trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và
trong từng ngành còn chậm. Về cơ bản vẫn chưa hình thành được các ngành công
nghiệp có tính nền tảng cho nền kinh tế. Những khiếm khuyết trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã bộc lộ sự phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường.

Những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng
và vai trò tổ chức, quản lí của Nhà nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của
toàn dân, trong đó Nhà nước là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã trực tiếp tổ chức, quản
lý quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng việc: xây dựng quy hoạch, kế
hoạch, phân bổ nguồn lực; hình thành cơ chế, chính sách, luật pháp; bảo đảm mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn những tiêu cực nảy sinh; quản lý, kiểm tra,
kiểm soát quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của Nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều
thiếu sót, hạn chế, thậm chí là sai lầm cần nhanh chóng khắc

3



phục, sửa chữa. Việc nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực trạng thực hiện vai
trò của nhà nước nhằm phát huy vai trò tích cực của nhà nước đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là một vấn đề đã và đang đặt ra.

Xung quanh vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
tính tất yếu, đặc điểm, thực chất, mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai
trò của nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lượng cao; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ môi trường; phát triển
văn hóa dân tộc… trong sự nghiệp đó. Tuy nhiên, dưới góc độ triết học chưa có
một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống và thể hiện cái nhìn tổng quát
về vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam. Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Vai trò của Nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” làm luận án Tiến sĩ Triết
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, luận án đi sâu phân
tích thực trạng thực hiện vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và đề ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò của
Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
-

Làm rõ những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.


-

Phân tích thực trạng thực hiện vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và nguyên nhân của thực trạng đó.

4


-

Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của Nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam bắt đầu từ khi Đảng cộng sản Việt Nam xác định
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 1- 1994) cho đến nay.
4. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận
Cơ sở lý luận mà luận án vận dụng :
-

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa


cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với chính trị; về nhà nước
và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
-

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về Nhà nước và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc,
phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp khái quát hóa, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống...

5


5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
-

Góp phần làm rõ lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
-

Phân tích thực trạng thực hiện vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian qua và nguyên nhân của nó.
-


Đề ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-

Luận án có ý nghĩa nhất định về lý luận vai trò của Nhà nước đối với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
-

Có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên cứu về vai trò

Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm
4 chương 13 tiết.

6


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Những năm qua, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò
của Nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã thu hút sự quan
tâm của nhiều cá nhân và tập thể với nhiều công trình nghiên cứu. Những công
trình này đã được nghiên cứu từ nhiều giác độ: kinh tế chính trị, triết học, kinh tế
học, lịch sử các học thuyết kinh tế, chính trị học, giáo dục học, xã hội học...


Liên quan đến đề tài luận án, từ nhiều công trình nghiên cứu, có thể khái
quát một số nội dung chủ yếu sau:
1.1 Các công trình nghiên cứu có liên quan đến công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam
Xung quanh vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã có nhiều
tác giả quan tâm, nghiên cứu, đi sâu phân tích tính tất yếu, nội dung, đặc điểm, thực
chất, mô hình, phương thức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam;
đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong nhận
thức của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong những công trình nghiên cứu của mình,
mỗi tác giả, đều có cách tiếp cận riêng và bàn luận một cách đa chiều, thể hiện cách
nhìn đa dạng, phong phú về những vấn đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có
thể kể đến các công trình nghiên cứu là: “Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Ngô Đình Giao (chủ
biên) [46] đã đề cập đến một số vấn đề cấp thiết, quan điểm và việc lựa chọn
phương hướng tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; các
bước và các quá trình của khuynh hướng này. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra và
luận giải một số biện pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp, tạo vốn, quản lý,
tổ chức trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp, xây dựng. Tác giả Trần Đình Thiên trong tác phẩm "Công

7


nghiệp hóa ở Việt Nam - phác thảo và lộ trình" [118] đã đưa ra quan niệm của
mình về công nghiệp hóa “là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp dựa trên
nền tảng kỹ thuật thủ công, mang tính hiện vật, tự cung - tự cấp thành nền kinh
tế công nghiệp - thị trường”. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng, trong xu hướng
toàn cầu hóa kinh tế, để vượt qua tình trạng chậm phát triển, công nghiệp hóa ở
Việt Nam không thể thực hiện tuần tự như các nước đi trước mà phải thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền công nghiệp

hiện đại; phát triển kinh tế thị trường và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Trong tác phẩm “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do Nguyễn Trọng
Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (chủ biên) [15] đã tập hợp nhiều bài
viết của các tác giả và được nghiên cứu ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Các bài viết đều nhấn mạnh đến việc
Công nghiệp hóa ở Việt Nam cần ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong điều
kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trên thế giới để rút ngắn so
với các nước đi trước, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất và phải
được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển. Đồng thời, các tác giả
còn đưa ra những giải pháp thúc đẩy quá trình này, đặc biệt trong thời kỳ hội
nhập quốc tế. Tác giả Đỗ Hoài Nam trong cuốn sách “Mô hình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa: con đường và bước đi”
[94] đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Việt Nam, phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong thực tiễn đổi mới của Việt Nam, xác định những nét chính của mô hình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hội nhập của Việt Nam. Tác giả
Ngô Quang Minh với bài: “Quá trình nhận thức của Đảng về mô hình, mục tiêu,
con đường và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta” [92] đã có cái
nhìn khá mới mẻ khi cho rằng, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất rộng,
bao gồm cả chuyển dịch cơ cấu kinh tế và áp dụng rộng rãi những tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại vào các ngành kinh tế, là thay đổi cả
8


cách thức tổ chức sản xuất của nền kinh tế. Tác giả Lê Quang Phi đã bàn đến
vấn đề“Đổi mới tư duy của Đảng vềcông nghiêpp̣ hóa , hiêṇ đaị hóa ởnước ta”
[105]. Trong tác phẩm này , tác giả khẳng định yêu cầu khách quan đổi mới tư
duy của Đảng vềcông nghiêpp̣ hóa, hiêṇ đaịhóa đất nước, phân tich́ cơ sởlýluâṇ
và thực tiễn quá trình công nghiệp hóa ở nước ta từ năm 1976 đến năm 1985,
bước phát triển nhâṇ thức của Đảng vàsư p̣điều chinhh̉ nôịdung, bước đi của công

nghiêpp̣ hóa. Đồng thời, tác giả luận bàn yêu cầu khách quan phải đổi mới tư của
Đang vềcông nghiêpp̣ hoa , hiêṇ đaịhoa đất nươc tư 1986 đến nay, làm rõ những
̉h̉

yếu tốtac đôngp̣ đến đổi mơi tư duy cua Đang vềcông nghiêpp̣ hoa
̉́
đất nước từ năm 1986 đến nay. Bên cạnh đó, tác giả phân tích sự đổi mới tư duy
của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiêṇ đaịhoa rut ngắn hiêṇ nay , nhưng
vấn đềly luâṇ ̉́
công nghiêpp̣ hoa , hiêṇ đaịhoa rut ngắn hiêṇ nay
̉́
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam, tác giả Ngô Tuấn Nghĩa có bài “Mô hình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới - Thành
tựu, hạn chế và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện” [96]. Tác giả cho rằng,
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã
được tiến hành song song với quá trình dịch chuyển cơ chế từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã đưa lại
kết quả đặc biệt ấn tượng cho nền kinh tế Việt Nam. Những thành tựu về kiến
tạo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam sau gần 30 năm đổi
mới là: (1) tư duy lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (2) phương thức và
chủ thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (3) mô hình tăng trưởng; (4)
cách thức huy động nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (5) quan hệ
giữa tổ chức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với giải quyết các vấn đề
an sinh xã hội và môi trường. Tuy vậy, xét về tổng thể, mô hình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đang bộc lộ một số hạn chế cần sớm khắc phục
nhằm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là: (1)
9


tư duy công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn nặng về phát triển khu công nghiệp,

chưa chú trọng tới chuyển đổi căn bản trong cách nghĩ và tác phong của người
dân theo hướng công nghiệp, đặc biệt là trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn; mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa bắt
kịp những thay đổi của môi trường kinh tế thế giới; chính sách công nghiệp quốc
gia chưa được định hình cụ thể; các ngành công nghiệp ưu tiên và công nghiệp
hỗ trợ chưa phát triển; sự phát triển của công nghiệp còn mang tính phong trào,
manh mún; (2) sự gắn kết giữa công nghiệp hóa với hiện đại hóa chưa được chú
trọng đúng mức; (3) phương thức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn triển khai còn chậm, hiệu quả thấp, thiếu liên kết với công
nghiệp, giữa sản xuất với thị trường.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nhiều tác
giả khẳng định: Việt Nam cần tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa để trở thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện đại, thoát khỏi tình trạng
một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ
các nước đã và đang tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa những bài
học kinh nghiệm quý báu về mô hình, bước đi, phương thức giải quyết một cách
hữu hiệu những vấn đề nảy sinh trong quá trình đó. Hướng nghiên cứu này được
thể hiện trong các tác phẩm: “Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các
nước trong khu vực” do Phạm Khiêm Ích và Nguyễn Đình Phan (chủ biên) [66] với
nhiều bài viết của các tác giả về công nghiệp hóa và kinh nghiệm của các nước
trong khu vực. Các tác giả đều khẳng định: công nghiệp hóa là con đường chủ đạo
để phát triển đất nước mặc dù bối cảnh quốc tế và Việt Nam đã có nhiều thay đổi so
với thời kỳ Đảng ta đưa ra quyết định tiến hành công nghiệp hóa (năm 1960). Từ
kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nhiều tác giả khẳng
định rằng, mặc dù các nước này tiến hành công nghiệp hóa khác nhau về thời điểm,
nhịp độ...nhưng đều giống nhau là lựa chọn con đường công nghiệp hóa để phát
triển. Các tác giả cũng đưa ra định nghĩa về

10



công nghiệp hóa “là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển
biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả
các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ quốc tế, xây dựng cơ cấu
kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học – công nghệ ngày càng hiện đại” [66;
tr.59]. Cũng bàn về vấn đề này, tác giả Lê Bàn Thạch và Trần Thị Tri trong tác
phẩm “Công nghiệp hóa ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam” [112] đã nêu đặc điểm, bước đi, thành tựu, bài học kinh nghiệm của các
nước Singapo, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa và rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Tác giả Trần Văn Thọ cũng đề cập đến
công nghiệp hóa ở Đông Á trong tác phẩm: “Biến động kinh tế Đông Á và con
đường công nghiệp hóa của Việt Nam” [119]. Trên cơ sở phân tích những thay
đổi trong phân công lao động tại vùng Đông Á, tác giả đã chỉ ra những cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam, lợi thế so sánh của Việt Nam. Để đối phó hữu hiệu
với các thách thức và phát huy các cơ hội ở vùng Đông Á, theo tác giả, Việt
Nam cần tận dụng ngoại lực để củng cố nội lực, nhấn mạnh vai trò của tổ chức
trong nỗ lực khám phá và tiếp cận thị trường thế giới, phát huy vai trò của doanh
nghiệp và vai trò của thông tin, tri thức trong việc phát triển nông thôn. Cũng có
cái nhìn tương tự như vậy, các tác giả Ngô Đăng Thành, Trần Quang Tuyến, Mai
Thị Thanh Xuân trong tác phẩm "Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" [115] đã tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận chung về công nghiệp hóa, phân tích các mô hình công nghiệp hóa trên thế
giới, từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý ở mỗi mô hình. Từ đó các tác
giả đã chỉ ra rằng: không thể có một lời giải chung cho tất cả các quốc gia về nội
dung, bước đi và cách thức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh
đó, các tác giả cũng so sánh mô hình công nghiệp hóa được thực hiện ở Việt
Nam trước và sau 1986, chỉ ra những bước chuyển lớn trong tư duy lý luận và
thực tiễn của Đảng ta qua 40 năm thực hiện công nghiệp
11



hóa. Các tác giả còn chỉ ra những kinh nghiệm quí báu từ thực tiễn thực hiện
công nghiệp hóa của một số nước trên thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Singapo... có thể vận dụng vào lựa chọn mô hình công nghiệp hóa ở Việt
Nam trong điều kiện mới.
Có tác giả lại bàn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với một lĩnh vực,
một địa bàn cụ thể - nông nghiệp, nông thôn như các t ác giả Phạm Ngọc Dũng,
Chu Hữu Quý, Nguyêñ KếTuấn vàNguyêñ Văn Giàu . Trong tác phẩm: "Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - Từ lý luận đến thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay" [20], tác giả Phạm Ngọc Dũng đã đề cập tới vai trò quan trọng của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong phát
triển bền vững. Từ việc phân tích thực trạng kinh tế - xã hội nông thôn nước ta
cũng như nguyên nhân nảy sinh những vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tác giả đã đề xuất các
giải pháp hợp lý có tính thực tiễn cao nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu: xây
dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả, bền vững, chất lượng, có
sức cạnh tranh cao. Đềtài khoa hocp̣ cấp nhànước KHXH02 - 05 năm 2000, đươcp̣
viết thành sách năm 2001 do tác giảChu Hữu QuývàNguyêñ KếTuấn đồng
chủbiên “Con đường công nghiêpp̣ hóa, hiêṇ đaị hóa nông nghiêpp̣ và nông thôn”
[109] đa đ ̃ ươcp̣ nhóm nghiên cứu bàn đến môṭsốvấn đềlýluâṇ chung vềcông nghiêpp̣
hóa, hiêṇ đaịhóa nông nghiêpp̣ vànông thôn ; khái quát đánh giá thưcp̣ trangp̣ nông
nghiêpp̣ vànông thôn nước ta bước vào giai đoaṇ mới công nghiêpp̣ hóa, hiêṇ
đaịhóa; đề cập đến những yếu tố tác động , mục tiêu, nôịdung vàcác bước đi của
con đường công nghiêpp̣ hóa, hiêṇ đaịhóa nông nghiêpp̣ vànông thôn ở nước ta đến
năm 2020. Đồng thời, nhóm tác giả đề cập đến các chủ trương , giải pháp chủ yếu
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa , hiêṇ đaịhóa nông nghiêpp̣ và nông thôn. Tác
giả Nguyễn Văn Giàu trong bài viết “Công nghiệp hóa, hiêṇ đaị hóa nông
nghiệp, nông thôn và những vấn đềđăṭ ra trong giai đoaṇ hiêṇ nay”[47]

12


đa ̃khái quát quátrinh̀ công nghiêpp̣ hóa, hiêṇ đaịhóa nông nghiêpp̣, nông thôn thời
gian 30 năm đổi mới; những khókhăn, hạn chế và đề xuất một số giải pháp để
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiêṇ đaịhóa nông nghiêpp̣, nông thôn nhanh
hơn, bền vững hơn như: tiếp tucp̣ ràsoát, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong
lĩnh vực nông nghiêpp̣; nâng cao chất lươngp̣ công tác quy hoacḥ vàquản lýquy
hoacḥ , sản xuất; hỗtrơ p̣tiêu thu p̣sản phẩm vàphát triển thi trượ̀ng ; ứng dụng khoa
học công nghê;p̣phát triển các mô hình liên kết ; phát triển hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn; chính sách hỗ trợ tài chính; đào taọ, phát triển nguồn nhân lực.
Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề gắn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là con đường để thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Tác
giả Lê Ngọc Anh trong bài viết: “Quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức - bước phát triển mới trong đường lối
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng ta” [3] đề cập đến
đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận chứng để làm rõ rằng, chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo
tác giả, quan điểm đúng đắn này được chính thức khởi đầu tại Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) và được bổ sung, hoàn thiện trong các kỳ
Đại hội sau đó của Đảng. Cũng theo tác giả, việc tiếp tục thực hiện công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước cũng như chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là cơ
sở để chúng ta hiện thực hóa quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Cũng đề cập đến vấn
đề này, tác giả Phạm Ngọc Tuấn trong bài viết "Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam" [130] cho rằng, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức phải trở thành
13


đường lối phát triển có tính chiến lược của nước ta. Theo tác giả, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một phương thức
công nghiệp hóa mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
của xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Do vậy, chúng ta phải nắm bắt, khai
thác, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại cùng những yếu tố của
nền kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tác giả An Như Hải có bài “Nhìn lại lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức” [56]. Tác giả cho rằng, trong công cuộc đổi
mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã dần định hình được hệ thống lý luận cơ bản về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức làm cơ sở cho
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lý luận về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là sản phẩm của công
cuộc đổi mới, tìm tòi nghiên cứu, thực nghiệm và phát triển của Đảng ta. Đảng
cộng sản Việt Nam đã (1) xác định và làm sâu sắc hơn sự cần thiết phải công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; (2) xây dựng hệ
thống quan điểm làm cơ sở định hướng tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức; (3) nhận thức đúng các điều kiện, tiền đề cần
thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam trong giai đoạn mới. Tác giả cũng cho rằng, tuy nhiên bên cạnh
những thành tựu đạt được, lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức cần được tiếp tục nghiên cứu để phát triển và hoàn thiện
trong thời gian tới.
Một số công trình nghiên cứu khác lại bàn đến công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo hướng phát triển nhanh và bền vững, coi đây vừa là mục tiêu vừa là yêu
cầu khách quan và là phương thức để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thành công. Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết: "Công nghiệp hóa theo

hướng hiện đại và sự phát triển bền vững" [16] đã tiếp cận đặc điểm của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở khía cạnh phát triển bền vững. Dưới góc nhìn
14


lịch sử, tác giả cho rằng, sự đánh giá của Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò của
công cuộc công nghiệp hóa đất nước từ Đại hội III (1960) đến đại hội XI (2011)
là nhất quán và xuyên suốt. Tác giả khẳng định, Việt Nam không thể sớm thoát
khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển nếu không tiến hành công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại và từng bước chuyển sang kinh tế tri thức. Tuy nhiên, để
kinh tế phát triển bền vững, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức phải kết hợp hài hòa và có hiệu quả 3
mục tiêu: kinh tế, xã hội, môi trường. Tác giả Vũ Văn Phúc trong bài viết “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, bền vững ở nước ta hiện
nay” [107] đã đề cập đến quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; nguyên tắc chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới. Đồng thời, bài viết cũng đề cập đến giải pháp chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên
môi trường.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập nhiều nội dung,
phong phú xoay quanh những vấn đề lý luận về tính tất yếu, mục tiêu, nhiệm vụ,
thực chất, nội dung, mô hình, con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
từng thời kỳ của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này phản
ánh sự phát triển về lý luận công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của Nhà nƣớc
đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể
thiếu vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước. Thời gian qua đã có nhiều công
trình nghiên cứu của các tác giả và có những đóng góp quan trọng trong việc
làm sáng tỏ những vấn đề về vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Đó là:
Tác giả Trần Việt Tiến trong Luận án tiến sĩ kinh tế (năm 2002) “Vai trò
nhà nước trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”
15


[121] đã hệ thống hoá lý luận và làm rõ tính tất yếu khách quan về vai trò kinh
tế của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như phân
tích, đánh giá vai trò đó ở nước ta trong thời gian qua. Tác giả cho rằng, Nhà
nước Việt Nam có vai trò: xác định chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
tạo những điều kiện cơ bản để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tổ chức
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả cũng làm rõ những nhân tố
kinh tế tác động đến vai trò Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Qua đó, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà
nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời gian tới
dưới góc độ kinh tế - chính trị. Trong luận án tiến sỹ triết học “Vai trò của Nhà
nước trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay”
[101], tác giả Hoàng Thị Kim Oanh cho rằng: trong bối cảnh thời đại mới, chủ
thể quản lý xã hội không chỉ đơn thuần là nhà nước mà còn có các tổ chức kinh
tế- tài chính quốc tế lớn và nhiều tổ chức phi chính phủ khác. Các chủ thể quản
lý đó tác động, can thiệp vào từng quốc gia với mức độ và phạm vi ảnh hướng
khác nhau. Vai trò của Nhà nước được thể hiện qua những chức năng, nhiệm vụ
của mình; vai trò ấy không một chủ thể, tổ chức, lực lượng nào khác trong xã
hội có đủ quyền lực và điều kiện hiện thực để đảm trách. Đó là: thể chế hóa và
trực tiếp chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; là chủ thể duy
nhất có tư cách pháp lý chỉ đạo mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tham gia, tuân
thủ và xây dựng các định chế kinh tế quốc tế để chủ động và tích cực hội nhập;
trực tiếp chỉ đạo điều chỉnh chính sách pháp luật, cải cách hệ thống hành chính
tạo môi trường thuận lợi cho chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; chỉ

đạo thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, thay đổi phương thức quản lý, điều tiết sự
phát triển kinh tế để chủ động và tích cực hội nhập; có vai trò quan trọng trong
việc huy động các nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo các điều kiện
thuận lợi cho chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó tác giả phân
16


tích thực trạng vai trò của Nhà nước và đề xuất quan điểm định hướng và một số
giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Nhà nước trong chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Trong luận án tiến sĩ triết học “Vai trò
Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay” [1], tác giả Đinh Nguyễn An đã cho rằng: vai trò Nhà
nước trong giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam được thể hiện thông qua việc Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của mình. Cụ thể là: xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập trên cơ sở nhận
thức và dự báo chính xác cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế; điều
chỉnh, tạo ra những điều kiện thuận lợi về thể chế, chính sách, pháp luật… đối
với việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế; quản
lý, điều tiết nền kinh tế, phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực nhằm
tận dụng cơ hội vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế; đàm phán,
ký kết và thực hiện các hiệp định, hợp đồng kinh tế - thương mại quốc tế và khu
vực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đấu tranh đảm bảo chủ quyền quốc
gia, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Từ đó, tác giả đi sâu phân tích
trực trạng và làm rõ những vấn đề đặt ra cũng như đưa ra quan điểm và giải
pháp cơ bản phát huy vai trò nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức
của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Một số công trình nghiên cứu tiếp cận vai trò Nhà nước đối với một số lĩnh
vực cụ thể như: tạo nguồn lực; phát triển nguồn nhân lực; phát triển kinh tế; phát
triển nông nghiệp nông thôn; bảo vệ môi trường; đảm đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là: Tác phẩm: “Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa” do Vũ Hy Chương (chủ biên) [17] tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả.
Các tác giả cho rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến việc bảo vệ
môi trường trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này thể
hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Nghị quyết số 41/NQTW ngày 15-11-2004 của Bộ chính trị BCHTW Đảng

17


khóa IX về bảo vệ môi trường trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên
cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ
thể là, Nhà nước đã thiết lập thể chế, ban hành chính sách và nhiều qui định về bảo
vệ môi trường; gắn bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội; nghiên cứu
khoa học về bảo vệ môi trường; tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường; liên
kết quốc tế, hội nhập trong công tác bảo vệ môi trường; công tác quản lý ô nhiễm
và bảo vệ môi trường sinh thái; thực hiện chủ trương phát triển bền vững...trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tác giả cũng đánh giá những
thành tựu và những hạn chế trong công tác quản lý môi trường trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ đó chỉ ra vấn đề bất cập trong công tác này của Nhà
nước như: vấn đề đánh giá tác động môi trường hoặc luận cứ kinh tế môi trường
còn mang tính chiếu lệ, hình thức, nội dung thì đơn giản trong quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn, kể cả các dự án cụ thể; chưa có lộ trình
bảo vệ môi trường cụ thể; đầu tư chậm; luật pháp về môi trường chưa hoàn chỉnh;
chưa phận định rõ trách nhiệm quản lý giữa các ngành, các cấp; công tác giáo dục
và các hoạt động xã hội trong việc bảo vệ môi trường chưa đạt kết quả như mong
muốn; kỹ thuật, công nghệ xử lý bảo vệ môi trường chưa hiện đại...Còn tác giả Lê
Thị Thanh Hà trong Luận án tiến sĩ triết học (năm 2012) “Vai trò nhà nước đối với
việc bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ở Việt Nam hiện nay” [53] đã làm rõ cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò
của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường nói chung và môi trường trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói riêng.
Hay như các tác giả Nguyễn Văn Oánh và Nguyễn Thanh Tuấn (chủ biên) trong
cuốn sách “Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý của nhà
nước ta hiện nay” [102] đã đề cập đến một số nội dung về bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý của Nhà nước ta là: Nhà nước thể chế hóa
đường lối của Đảng qua hệ thống luật pháp, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
kế hoạch và

18


hệ thống chính sách; Nhà nước tổ chức và quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
với mục tiêu phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Từ đó, các tác giả trong
cuốn sách này đi phân tích đặc điểm cơ bản, nhiệm vụ, thực trạng hoạt động quản
lý của nhà nước cũng như đề xuất quan điểm và giải pháp đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý của Nhà nước nói chung và đối với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Còn tác giả Lê Thị Hồng trong công trình “Vai
trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam hiện nay” [61] đã phân tích tác động của nhà nước tới quá trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa đối với
sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Tác giả Nguyễn Hữu Đễ
trong bài viết “Quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay - Một số vấn đề đặt ra”
[44] đã đề cập đến vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của khu
vực nông thôn, nông dân. Tác giả cho rằng, sự phát triển và biến đổi của nông
nghiệp và nông thôn hiện nay thể hiện sự nỗ lực to lớn của Nhà nước. Cụ thể là,
suốt quá trình thực hiện đổi mới, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các nghị định,
quy định, văn bản pháp luật. chính sách kinh tế, chính sách xã hội nhằm quy hoạch,
đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn; đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa, giáo dục, duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa gắn
liền với đời sống của người nông dân. Nhưng bên cạnh đó theo tác giả, còn nhiều
vấn đề nổi cộm trong công tác quản lý nhà nước cần phải được khắc phục như: tốc
độ công nghiệp hóa nông nghiệp chưa mạnh, chưa sâu; sản xuất nông nghiệp vẫn
trong tình trạng phân tán; trình độ học vấn và đời sống văn hóa tinh thần của người
nông dân còn thấp, tình trạng chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa người
giàu và người nghèo vẫn đang có xu hướng gia tăng. Từ đó, tác giả chỉ ra nhiệm vụ
chủ yếu của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn là: hoạch định
hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn; đầu tư
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

19


×