Tải bản đầy đủ (.docx) (162 trang)

Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.38 KB, 162 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THÚY HÀ

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - Năm 2018
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THÚY HÀ

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà



Hà Nội - Năm 2018

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ
ràng. Những kết luận mới về khoa học trong luận án là kết quả nghiên
cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Thị Thuý Hà

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI....................................................................................................
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ...
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa
ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam ..................................................
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án...................
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI
MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN ........................................................................
2.1. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ................................................

2.1.1. Khái niệm văn hóa ................................................................................
2.1.2. Khái niệm ứng xử, văn hóa ứng xử .......................................................
2.1.3.Khái niệm môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên..38

2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
ứng xử với môi trường tự nhiên ......................................................................
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên ................................................................................................
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên..............
2.3. Vai trò của văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ..............................
2.3.1. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên góp phần hoàn thiện và phát
triển nhân cách con người ..............................................................................
2.3.2 Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên góp phần xây dựng nếp sống
văn hóa mới, xây dựng xã hội văn minh .........................................................
2.3.3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên góp phần thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển kinh tế - xã hội


2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi ứng xử với môi trường tự nhiên của
con người........................................................................................................ 74
Chương 3. THỰC TRẠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG
TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................... 80
3.1. Văn hóa ứng xử với môi trường trong sản xuất....................................... 80
3.1.1. Trong các khu, cụm công nghiệp...........................................................80
3.1.2. Trong các làng nghề..............................................................................85
3.1.3. Trong sản xuất nông nghiệp..................................................................87
3.1.4. Trong khai thác tài nguyên khoáng sản................................................ 90
3.2. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong sinh hoạt........................94
3.2.1. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong việc ăn, uống..............94
3.2.2. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong việc mặc...................100

3.2.3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong việc ở........................105
3.2.4. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên trong trong việc đi lại........108
Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI
TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................115
4.1. Đẩy mạnh giáo dục văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam
hiện nay.........................................................................................................115
4.2. Tăng cường kiểm tra, xử phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường.....126
4.3. Coi trọng công tác đảm bảo an ninh môi trường................................... 130
4.4. Kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường..................135
KẾT LUẬN..................................................................................................144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN........................................................................................................................... 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................147

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

BVTV

Bảo vệ thực vật

CNH

Công nghiệp hóa


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐH

Hiện đại hóa

KCN

Khu công nghiệp

KT-XH

Kinh tế - xã hội

LHQ

Liên hợp quốc

PTBV

Phát triển bền vững

TP

Thành phố

UBND


Uỷ ban nhân dân

3


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Môi trường tự nhiên là điều kiện cần thiết, trước tiên, cơ bản, thường
xuyên đảm bảo cho sự tồn tại cuộc sống của con người. Ứng xử với môi
trường tự nhiên vừa là điều kiện sống của con người, vừa thể hiện nhân cách,
lối sống của mỗi con người và cộng đồng người. Ứng xử có văn hóa với môi
trường tự nhiên là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam. Từ xa xưa,
trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt, thông qua các chuẩn mực và hành vi
đạo đức của mình, người Việt Nam luôn ứng xử một cách có văn hóa với môi
trường tự nhiên, coi trọng và gắn bó mật thiết với tự nhiên, coi việc bảo vệ tự
nhiên là bảo vệ chính cuộc sống của mình. Truyền thống đó luôn được cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam giữ gìn, vun đắp và coi đó như nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu Đông - Tây với hệ quả
của sự va đập các nền văn minh đã làm cho các giá trị bị tác động, biến đổi
theo các chiều hướng khác nhau. Toàn cầu hóa trở thành một xu thế tất yếu
kéo các quốc gia vào vòng xoáy lốc, đã làm cho các quốc gia có sự phát triển
mạnh mẽ chưa từng có, tuy nhiên những mặt trái của quá trình này đã nảy
sinh gay gắt và đòi hỏi phải giải quyết, trong đó có vấn đề văn hóa ứng xử với
môi trường tự nhiên của con người là vô cùng cấp thiết hiện nay.
Trong thực tế đã, đang tồn tại nhiều cách ứng xử với môi trường tự

nhiên để duy trì sự sống của mỗi con người, mỗi cộng đồng người. Trong điều
kiện hiện nay, sự ứng xử với môi trường tự nhiên của người Việt Nam đã có
sự thay đổi. Nếu trước đây con người sống gắn bó với thiên nhiên, yêu thiên
nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường hướng tới giá trị Chân, Thiện, Mỹ, thì
ngày nay một phần bị thay thế bởi vấn đề lợi ích kinh tế, đặc biệt là
4


lợi ích trước mắt. Vì lợi ích trước mắt, nhiều người sẵn sàng khai thác cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên hoặc dùng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp gây
nên tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe con
người. Điều này đặt ra vấn đề cấp bách là phải điều chỉnh cách ứng xử của
con người với môi trường tự nhiên một cách hợp lý đảm bảo sự hài hòa giữa
phát triển kinh tế, xã hội và phát triển môi trường tự nhiên.
Như vậy, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay
đang có những biến đổi theo cả hai chiều hướng. Bên cạnh những ưu điểm thì
vẫn còn tồn tại cả những nhược điểm của nó. Do đó, chúng ta cần phải có
những giải pháp cụ thể, phù hợp để phát huy được những ưu điểm, đồng thời
hạn chế được những nhược điểm của văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Chỉ như vậy, chúng ta mới ứng xử có văn hóa với môi trường tự nhiên, ngăn
chặn sự biến đổi khí hậu, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam
trong giai đoạn tiếp theo. Thay đổi cách sống và văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên theo hướng tích cực vì chính chúng ta và vì tương lai các thế
hệ mai sau.
Thời gian qua, mặc dù nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng đáng kể
nhưng tài nguyên thiên nhiên lại bị cạn kiệt nhanh chóng, môi trường sống bị
ô nhiễm trầm trọng. Một bộ phận không nhỏ người dân đang tàn phá tự nhiên,
đang ứng xử với môi trường sống một cách thiếu văn hóa. Điều này đã ảnh
hưởng tiêu cực đến mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trước thực trạng đó, chúng ta

cần phải nhìn nhận lại với những nhận thức mới về văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên vì sự phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy mà
chúng tôi chọn vấn đề “Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam
hiện nay" làm đề tài luận án của mình vì nó thực sự có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc
5


2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
a. Mục đích của luận án
Trên cơ sở khái quát lý luận về văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên, tác giả phân tích, làm rõ thực trạng này và đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ của luận án
-

Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa ứng xử với môi trường tự

-

Phân tích thực trạng văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt

nhiên.

Nam hiện nay: những kết quả đã đạt được và những vấn đề cần khắc phục,
nguyên nhân chủ yếu của thực trạng ấy.
-

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa ứng xử với môi


trường tự nhiên ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
a. Đối tượng của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay.
b. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Đây là một đề tài rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. Trong
phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ chuyên
ngành triết học. Trên cơ sở làm rõ vấn đề văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên ở Việt Nam hiện nay, luận án chỉ tập trung nghiên cứu văn hóa ứng xử
với môi trường tự nhiên ở Việt Nam trong hoạt động sản xuất và trong sinh
hoạt hàng ngày.
6


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu và trình bày của luận án dựa trên cơ sở lý luận và các
nguyên tắc và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài.
Luận án còn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của một số công
trình khoa học đi trước như các bài viết, các luận án, luận văn, các tư liệu điều
tra, khảo sát… có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận án.
b. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp, luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích và tổng
hợp, logic và lịch sử, thống kê, đối chiếu và so sánh và các phương pháp
chung của khoa học xã hội.
5. Đóng góp mới của luận án
-


Luận án trình bày tương đối rõ ràng về vấn đề văn hóa ứng xử với

môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, luận án góp phần nâng cao
nhận thức trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên và bảo vệ môi trường tự
nhiên, một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay không chỉ đối với Việt
Nam nói riêng mà còn đối với thế giới nói chung.
-

Thông qua việc phân tích thực trạng văn hóa ứng xử với môi trường

tự nhiên ở nước ta hiện nay, luận án đã chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn
tới thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay.
-

Luận án bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa

ứng xử với môi trường tự nhiên ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7


Luận án góp phần nâng cao nhận thức lý luận về môi trường, văn hóa
ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay; từ đó, góp phần nâng
cao sự nhận thức đúng đắn và trách nhiệm về bảo vệ môi trường của con
người. Luận án còn có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề về văn
hóa, môi trường, chính sách môi trường, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử với môi trường
tự nhiên
Nói đến văn hóa ứng xử, người ta chủ yếu bàn về văn hóa ứng xử của
con người với cộng đồng xã hội như văn hóa chính trị, văn hóa kinh doanh,
văn hóa sư phạm… Còn quá hiếm các công trình khoa học bàn về văn hóa
môi trường, đặc biệt là bàn về văn hóa ứng xử của con người với môi trường
tự nhiên.
Ứng xử với môi trường một cách có văn hóa là vấn đề còn nhiều việc
phải bàn. Ứng xử với môi trường có văn hóa đòi hỏi phải thực hiện những
nguyên tắc chung nhằm bảo đảm cho môi trường phát triển theo hướng bền
vững. Sống thân thiện, hài hòa với thiên nhiên, bảo vệ, vun đắp cho những giá
trị của môi trường là những hành vi có văn hóa cao đẹp.
Ứng xử có văn hóa với môi trường đòi hỏi chúng ta thể hiện một cách
thận trọng hơn trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, gìn giữ, bảo vệ
môi trường cũng như các khía cạnh của cuộc sống, của khoa học và công
nghệ, không phải phát triển kinh tế bằng mọi giá mà lãng quên bảo vệ môi
trường. Nói đến văn hóa ứng xử với môi trường trước hết là nói đến đạo đức
môi trường. Bởi vì, đạo đức của con người phải được thể hiện qua hành vi cụ
thể, những suy nghĩ, tình cảm và thái độ mang tính đạo đức của con người
phải thể hiện qua các hành vi cụ thể thì chúng ta mới nhận biết và đánh giá
được. Đạo đức môi trường không chỉ là những hành vi mang tính chuẩn mực
đơn thuần, mà nó là hành vi được chủ thể thực hiện một cách tự giác với tinh
thần trách nhiệm, những hành vi đó là hành vi vì môi trường tự nhiên.

9




nước ngoài, những nghiên cứu đầu tiên về đạo đức môi trường được

bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, với sự ra đời của hai bài báo “Nguồn
gốc lịch sử của sự khủng hoảng sinh thái”, năm 1967 của Lynn White, và
“Chiến lược của cộng đồng”, năm 1968 của Garett Hardin.
Người được coi là sáng lập ra đạo đức học môi trường là Aldo Leopold.
Năm 1970 ông có bài “Đạo đức đối với trái đất”, ông đã chỉ ra nguồn gốc của
sự khủng hoảng sinh thái và con người phải thay đổi quan hệ của mình với
thiên nhiên, phải xây dựng đạo đức với thiên nhiên. Đây thực chất là vấn đề
ứng xử với thiên nhiên của con người cần phải có văn hóa, hay chính là văn
hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Năm 1972, William Blachstone đã tổ chức hội thảo khoa học bàn về
tầm quan trọng của đạo đức môi trường, năm 1974 công bố kết quả hội thảo
trong cuốn “Triết học và sự khủng hoảng môi trường”. Năm 1975, nhà xuất
bản Holmes Rolston xuất bản cuốn “Có tồn tại đạo đức sinh thái trong đạo
đức”. Năm 1979, Eugene C Hargrove đã thành lập Tạp chí đạo đức học môi
trường đề cập các vấn đề về quyền đối với tự nhiên, mối quan hệ giữa đạo
đức môi trường và các quyền đối với động vật. Năm 1980, Jonh Passmore,
nhà nghiên cứu người Úc đã viết cuốn “Trách nhiệm của con người đối với tự
nhiên”.
Michael Boylan (2001) nhà nghiên cứu người Mỹ xuất bản cuốn sách
“Đạo đức môi trường” (Environmental Ethics). Tác giả đã đề cập đến nhiều
vấn đề, trong đó có những vấn đề cơ bản của đạo đức môi trường, ứng dụng
đạo đức môi trường…
Peter S.Wenz, nhà nghiên cứu của trường đại học Illinois (Mỹ) năm

2001 đã xuất bản cuốn sách “Đạo đức môi trường ngày nay” (Environmental
Ethics Today). Trong đó tác giả đề cập đến khía cạnh chủ nghĩa tôn giáo về
môi trường, ứng dụng đạo đức môi trường…
10


Ernest Partridge (1980) đã xuất bản cuốn sách Đạo đức môi trường và
chính sách công (Environmental Ethics and Public Policy) trình bày những
vấn đề về đạo đức môi trường, triết lý về đạo đức môi trường, tại sao cần có
đạo đức môi trường…
Eugene C.Hargrove (1980) đã xuất bản cuốn sách Đạo đức môi trường
và thái dương hệ (Environmental Ethics and Solar System). Đó là kết quả
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học khác nhau, trong đó có triết học.
J. Baird Callicott (1996) xuất bản cuốn Đạo đức và môi trường Những hướng dẫn nhanh về đạo đức môi trường (Ethics and Environmental A short guide to Environmentcenric Ethics). Tác giả đã trình bày khái niệm
đạo đức môi trường, một số vấn đề về đạo đức môi trường…


Việt Nam, đạo đức môi trường được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm

và được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, điều đó cho thấy tầm quan
trọng của vấn đề bảo vệ môi trường, phát triển bền vững của các quốc gia.
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và
hầu như chưa xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong
những năm cuối của thế kỷ XX đã xuất hiện thuật ngữ Đạo đức môi trường,
được hiểu là sự ứng xử với môi trường tự nhiên một cách có đạo đức, hay
cũng có thể được hiểu là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
Lần đầu tiên vấn đề đạo đức môi trường được bàn tới là công trình:
“Đạo đức môi trường - Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới” do tác
giả Nguyễn Văn Phúc làm chủ nhiệm đề tài được thực hiện trong 2 năm 2009
-


2010. Trong đó có trình bày quan điểm Mác-xit về đạo đức môi trường, một

số chuẩn mực về đạo đức môi trường.
Đề tài nghiên cứu chính thức thứ hai về đạo đức môi trường là “Đánh
giá đạo đức môi trường ở nước ta hiện nay” cuả tác giả Vũ Dũng làm chủ
11


nhiệm đề tài được thực hiện trong 2 năm 2009 - 2010. Ngoài ra, còn có một số
bài báo của tác giả Vũ Dũng đăng trên tạp chí Tâm lý học như “Những hành
vi ứng xử với môi trường không mang tính đạo đức ở nước ta”, “Một số vấn
đề cơ bản về đạo đức môi trường”. Đây là những bài báo đầu tiên bàn về đạo
đức môi trường một cách chính thức ở nước ta.
Những công bố chính thức về đạo đức môi trường ở nước ta còn rất
khiêm tốn. Trong những năm gần đây, sự ô nhiễm môi trường trở lên nghiêm
trọng, nhiều thảm họa tự nhiên xảy ra do môi trường bị tàn phá nghiêm trọng,
nên nhiều đề tài nghiên cứu về môi trường được tiến hành.
Năm 1997, Bộ kế hoạch và Đầu tư kết hợp với chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) nghiên cứu vấn đề Phân tích các kế hoạch quốc gia
về môi trường ở Việt Nam. Dự án này đã tập trung giải quyết những vấn đề
trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, những điểm mạnh và điểm yếu của các
kế hoạch quốc gia về môi trường, những hạn chế của các kế hoạch môi trường
và đưa ra các khuyến nghị về bảo vệ môi trường. Đề án đã phân tích mối quan
hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế, tìm ra những khó khăn của vấn đề
bảo vệ môi trường, từ đó đề xuất các giải pháp để bảo vệ môi trường bền
vững.
Năm 1997, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm xuất bản cuốn sách “Môi
trường sinh thái vấn đề và giải pháp”. Cuốn sách tập trung trình bày một số
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của vấn đề môi trường sinh thái hiện nay

trên thế giới, đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề
này. Cuốn sách cũng đề cập thực trạng và đặc điểm của môi trường sinh thái ở
Việt Nam và gợi mở những phương hướng giải quyết chúng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

12


Tác giả Trần Ngọc Thêm (1999), đã viết cuốn Cơ sở văn hóa Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa khởi đầu từ các
điều kiện vật chất quy định và định vị văn hóa Việt Nam, qua đó nhận thức
được cái tinh thần là văn hóa nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng
đồng, để rồi cái tinh thần đó lại tác động trở lại đời sống vật chất, hình thành
nên cách thức ứng xử giao lưu với môi trường tự nhiên và xã hội.
Năm 2001, tác giả Trần Lê Bảo (chủ biên) xuất bản cuốn sách “Văn
hóa sinh thái - nhân văn”, trong đó đã đề cập đến khái niệm, thực chất của
vấn đề môi trường sinh thái – nhân văn, cơ sở triết học – xã hội của mối quan
hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, tác động của con người vào môi trường
tự nhiên, truyền thống hòa hợp với thiên nhiên của người Việt Nam…
Năm 2001-2003, Viện nghiên cứu con người đã nghiên cứu đề tài
“Giải pháp nâng cao ý thức sinh thái cộng đồng ở nước ta trong những năm
tới” do tác giả Phạm Thành Nghị chủ nhiệm đề tài. Đề tài nghiên cứu một số
vấn đề lý luận về ý thức sinh thái cộng đồng, thực trạng ý thức sinh thái cộng
đồng và các giải pháp nâng cao ý thức sinh thái cộng đồng ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2002), đã viết cuốn Văn hóa
ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Viện văn hóa và NXB
Văn hóa - Thông tin Hà Nội. Các tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ giữa
môi trường thiên nhiên và văn hóa ứng xử đối với môi trường thiên nhiên và
người Hà Nội từ truyền thống đến hiện đại.
Năm 2002, Cục môi trường đã cho xuất bản cuốn Hành trình vì sự phát

triển bền vững 1972 – 1992 – 2002, công trình này đã trình bày các tuyên bố
của thế giới về môi trường và phát triển bền vững. Tuyên bố Stockholm về
môi trường (6.1972), Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển (6.1992),
13


Tuyên bố Johannesburg (9.1992). Công trình đã phân tích những sự kiện môi
trường đáng nhớ của Việt Nam từ năm 1972 – 2002, đặc biệt là sự kiện năm
1992 thành lập Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và năm 1993 ban
hành Luật Bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Qũy quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) - Chương trình
nghiên cứu Đông Dương đã xuất bản bằng tiếng Việt Bản ghi nhớ
Johannesburg - Sự công bằng trong một thế giới mỏng manh đã đề cập đến
vấn đề mưu sinh và những thách thức đối với việc bảo vệ môi trường, vấn đề
kiểm soát vì sinh thái và sự bình đẳng.
Năm 2002, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã xuất bản cuốn sách “Tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên” và ý nghĩa hiện thời của nó”, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội. Trên cơ sở phân tích những luận điểm chính của tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, tác giả đã làm sáng tỏ giá trị và ý nghĩa
mang tính thời đại cả về lý luận và thực tiễn của tác phẩm, trong đó có mối
quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên.
Năm 2002, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã xuất bản cuốn sách “Một
số vấn đề triết học - con người - xã hội”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
trong đó tác giả đề cập đến những tư tưởng của Ph.Ănggen về quan hệ giữa
con người và tự nhiên.
Năm 2003, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng
chủ biên) đã xuất bản cuốn sách “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay”, trong đó có bài viết của tác giả Phạm Thị
Ngọc Trầm về “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị
trường” có đề cập đến đạo đức sinh thái là một nhu cầu mới trong phẩm chất

của con người; Các giá trị đạo đức sinh thái truyền thống Việt Nam; Sự
chuyển đổi các giá trị đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường...
14


Năm 2005, tác giả Trần Lê Bảo (chủ biên) xuất bản cuốn sách “Văn
hóa sinh thái - nhân văn” (giáo dục môi trường), trong đó đã đề cập đến tác
động của con người vào môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn
và sự phát triển bền vững, đạo đức sinh thái, truyền thống hòa hợp với thiên
nhiên của người Việt Nam, thực trạng và thách thức về môi trường sinh thái nhân văn ở nước ta hiện nay…
Năm 2005, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu
về Lý luận của mối quan hệ giữa con người, tài nguyên môi trường và sự phát
triển bền vững và vai trò quản lý của Nhà nước. Đề tài này đã phân tích việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên, tác động của con người đến môi trường sinh
thái, những tác động tiêu cực trở lại của môi trường đến cuộc sống của con
người khi môi trường bị hủy hoại.
Năm 2005, tác giả Lê Thanh Hương làm chủ nhiệm đề tài Nhân tố con
người trong quản lý Nhà nước đối với tài nguyên, môi trường. Đề tài đã đề
cấp đến mối quan hệ giữa con người và tài nguyên môi trường, nhân tố con
người trong việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường, trong
đó con người là nhân tố quyết định việc bảo vệ tài nguyên môi trường, trong
đó những hành vi hủy hoại, gây ô nhiễm môi trường của con người còn đáng
lo ngại ở nước ta hiện nay.
Tháng 12 năm 2009, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức hội thảo khoa học Môi trường và phát
triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, trong đó tập trung vào các vấn
đề bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và phát triển bền vững, biến đổi
khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Năm 2009, tác giả Đỗ Hồng Kỳ đã nghiên cứu vấn đề “Cách ứng xử
với môi trường của một số cư dân bản địa Tây Nguyên”, trong đó chỉ ra

15


những điều cấm kỵ của các dân tộc bản địa đối với tài nguyên thiên nhiên,
cách ứng xử của họ đối với nương rẫy, cây trồng.
Năm 2009, tác giả Vũ Trọng Dung xuất bản cuốn sách“Đạo đức sinh
thái và giáo dục đạo đức sinh thái” Nội dung cuốn sách đã đưa ra một cái
nhìn hệ thống và hiểu rõ những vấn đề đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức
sinh thái trong điều kiện của nước ta hiện nay đang là một vấn đề bức xúc cần
được nghiên cứu nghiêm túc, toàn diện trên cả lý luận và thực tiễn.
Chương 1: Tác giả luận bàn một số vấn đề lý luận về môi trường thiên
nhiên và hệ sinh thái; về sự tác động của con người trong hệ sinh thái; về đặc
điểm và ý nghĩa văn hoá trong ứng xử của con người đối với các hệ sinh thái.
Chương 2: Tác giả trình bày những lý luận chung về đạo đức, về sinh thái
và đạo đức sinh thái, về các chuẩn mực và hành vi đạo đức sinh thái. Theo tác
giả, “Đạo đức sinh thái bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
tư tưởng, tình cảm. Những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực,... quy định, điều
chỉnh hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự nhiên nhằm
phục vụ cho sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội trong
những điều kiện sinh thái còn có những nét đặc thù riêng, và hành vi đạo đức
sinh thái cao nhất, hoàn hảo nhất và bao trùm nhất là sự tự giác của con người
tuân thủ nghiêm ngặt các điều luật đã được ghi rõ trong “Luật bảo vệ môi
trường” của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 2011, tác giả Vũ Dũng xuất bản cuốn sách “Đạo đức môi trường ở
nước ta – Lý luận và thực tiễn”. Nội dung cuốn sách đề cập tới một số vấn đề
lý luận cơ bản về đạo đức môi trường; khái niệm đạo đức, đạo đức môi
trường, các tiêu chí đánh giá đạo đức môi trường, sự xuất hiện và những
khuynh hướng cơ bản của đạo đức môi trường, các chức năng cơ bản của đạo
16



đức môi trường; kinh nghiệm bảo vệ môi trường ở một số nước nhìn từ góc
độ đạo đức môi trường. Trong phần này, cuốn sách phân tích kinh nghiệm bảo
vệ môi trường của một số quốc gia, chỉ ra những khía cạnh đạo đức của
những hoạt động bảo vệ môi trường. Đây là những kinh nghiệm quý với
chúng ta; Tổng quan về môi trường và ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện
nay; Nhận thức của người dân về đạo đức môi trường; Thực trạng hành vi đạo
đức môi trường ở nước ta. Từ góc độ của đạo đức môi trường, tác giả đã chỉ
ra hiện nay còn có nhiều hành vi mang tính phi đạo đức môi trường xảy ra ở
mọi nơi, từ thành thị, nông thôn đến miền núi. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự ô nhiễm môi trường và việc bảo vệ môi trường
chưa bền vững ở nước ta hiện nay. Điều đáng lo ngại là nhiều khi chúng ta ý
thức được hậu quả của hành vi của mình, song vẫn thực hiện hành vi đó.
Nghĩa vụ bảo vệ môi trường không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời
mà nó được hình thành và hoàn thiện trong cả quá trình giáo dục, tự giáo dục,
rèn luyện trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí cả trong quá
trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.
Năm 2013, tác giả Nguyễn Văn Phúc đã xuất bản cuốn sách “Đạo đức
môi trường” trong đó có đề cập đến một số vấn đề như: công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và yêu cầu xây dựng đạo đức môi trường; các quan điểm của Đảng về
bảo vệ môi trường; một số kinh nghiệm quốc tế về bảo vệ môi trường và xây
dựng đạo đức môi trường.
Năm 2013, tác giả Đỗ Huy đã xuất bản cuốn sách “Văn hóa Việt Nam
trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập và phát triển” trong đó có đề
cập đến vấn đề ứng xử của con người với tài nguyên môi trường để đổi mới
và phát triển văn hóa. Qua đó, con người cần phải thức tỉnh và có cách ứng xử
mới với thiên nhiên, phải tạo ra mối quan hệ thân thiện với tự nhiên.
17



Năm 2014, tác giả Nguyễn Xuân Kính xuất bản cuốn sách “Con người,
Môi trường và Văn hóa”. Các tác giả cho rằng, con người tồn tại không thể
tách rời mối quan hệ với môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái
nhân văn. Đây là vấn đề không chỉ mang tính lý thuyết thuần túy, mà còn có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và tác động đến thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Cuốn sách “Con người, môi
trường và văn hóa” tập hợp các bài viết (có bổ sung, sửa chữa) về chủ đề trên
của tác giả Nguyễn Xuân Kính đã công bố trong các hội thảo, tạp chí từ năm
1991 đến nay. Thông qua cuốn sách, người đọc sẽ hình dung về người Việt
trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính
mình. Người Việt với những kiểu dạng cụ thể: người nông dân, người thành
thị, người thợ thủ công, người buôn bán, nhà nho, người trí thức tân học… với
các khía cạnh ẩm thực, trang phục, đi lại và làm lụng, với một số biểu hiện
của văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần, được tác giả đặt trong những thời kì,
giai đoạn lịch sử cụ thể.
Những công trình nghiên cứu trên cho thấy, những nghiên cứu về văn
hóa môi trường từ nhiều góc độ ở nước ta rất đa dạng và phong phú, song
những nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên còn
rất khiêm tốn. Tuy nhiên, những công trình này gián tiếp phản ánh những
hành vi ứng xử có văn hóa với môi trường và những hành vi ứng xử chưa văn
hóa với môi trường, từ đó góp phần xây dựng và hoàn thiện cách ứng xử với
môi trường tự nhiên trong một nền văn hóa mới kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu nói trên, trước tình hình cấp thiết
của vấn đề môi trường, phát triển bền vững và sự ứng xử của con người với tự
nhiên, đã có nhiều văn bản được ban hành:
18


Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định về việc ban hành

Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam, đã chỉ rõ mục tiêu
của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm
và có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Năm 2004, Bộ Tài nguyên và Môi trường xuất bản cuốn Chiến lược
bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,
trong đó đã nêu rõ quan điểm, mục tiêu và các nội dung cơ bản bảo vệ môi
trường, các giải pháp và việc tổ chức thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường
ở nước ta.
Ngày 29.11.2005, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật bảo vệ môi trường, thay thế Luật bảo vệ môi trường năm
1993, gồm 134 điều, 14 chương. Đây là những chuẩn mực quan trọng hàng
đầu để bảo vệ môi trường, quy định những hành vi bảo vệ môi trường cần
được thực hiện ở nước ta hiện nay.
Năm 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng
định: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã
hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn
ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát
triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu,
dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả
tài nguyên quốc gia.
Ngày 12/12/2012, Bộ tài nguyên môi trường tổ chức lễ công bố “Chiến
lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”.
Mục tiêu của chiến lược là kiểm soát, hạn chế và đến năm 2030 cơ bản ngăn
19


chặn và đẩy lùi xu hướng gia tăng ô nhiễm. Chúng ta đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức do khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học, ô

nhiễm môi trường… Những thách thức đó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi nhận
thức về mô hình phát triển thiếu bền vững hiện nay để chuyển sang mô hình
phát triển bền vững hơn nhằm giảm thiểu những tác động lên môi trường, tài
nguyên thiên nhiên. Khuyến khích đầu tư vào các hoạt động bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm tạo ra việc làm, thu nhập, thúc
đẩy tăng trưởng đã và đang trở thành một xu thế chủ đạo trên phạm vi toàn
cầu. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với những
thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, công tác bảo vệ môi trường,
chính sách của Đảng, Nhà nước được xây dựng, hoàn thiện, phù hợp với bối
cảnh trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với
những thách thức lớn về môi trường, cụ thể là ô nhiễm môi trường đang tiếp
tục gia tăng, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, sử dụng thiếu hiệu
quả; đa dạng sinh học bị suy giảm, biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng
phức tạp, khó lường.
Hiến pháp năm 2013, xuất bản năm 2014, Điều 63 quy định: Nhà nước
có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ động
phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích
các hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng
lượng tái tạo. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài
nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.
Năm 2013, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 24NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
20


nguyên và bảo vệ môi trường. Đây là Nghị quyết đầu tiên đề cập toàn diện
đến chủ trương, giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh
công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng định hướng cho công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng

phó với biến đổi khí hậu ở nước ta trong thời gian tới, quyết định đến sự phát
triển bền vững của đất nước.
Ngày 23/6/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua Luật Bảo
vệ môi trường năm 2014, gồm 20 chương và 170 điều đã thể chế hóa quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 24 - NQ/TW
(3/6/2013) của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; cụ thể
hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, điều 43 “Mọi người có quyền được
sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”; bổ sung
một số nội dung mới như tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, an ninh môi
trường...
Năm 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng
định: Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng,
chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu trong tình hình hiện nay.
Các văn bản liên quan đến vấn đề môi trường được đề cập trong Luật
môi trường, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Tài nguyên và
Môi trường cho thấy tầm quan trọng của vấn đề quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
trong tình hình hiện nay.
Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy, các vấn đề liên quan đến môi trường
được tiếp cận và giải quyết dưới góc độ kinh tế - xã hội nhiều hơn là
21


từ góc độ triết học - xã hội, vấn đề văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở
Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Sự
kém hiểu biết dẫn đến những tác động tiêu cực của con người đối với môi
trường sống. Vì vậy, nâng cao văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên là vô
cùng cần thiết, đồng thời tuyên truyền nâng cao sự hiểu biết và ý thức bảo vệ

môi trường là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao
văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về môi trường, nhiều tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu thực
trạng của vấn đề mà mình nghiên cứu và đưa ra được một số giải pháp nhằm
khắc phục thực trạng ấy. Tiêu biểu là một số công trình nghiên cứu như:
Tác giả Vũ Minh Tâm trong “Văn hóa môi trường sinh thái - nhân văn
và giáo dục nhân cách” đã nghiên cứu về văn hóa ứng xử với môi trường từ
việc nghiên cứu mối quan hệ thống nhất và tương tác giữa con người và tự
nhiên. Sau đó, tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn tới sự mất cân bằng
sinh thái. Và để khắc phục thực trạng này, theo tác giả, một trong những việc
phải làm là phải xây dựng được văn hóa ứng xử với môi trường. Chúng ta
phải xây dựng quan niệm mới về văn hóa ứng xử với môi trường phù hợp với
sự phát triển xã hội bền vững; xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường gắn
liền với giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường; xây dựng văn hóa ứng
xử với môi trường gắn liền với những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc và tinh hoa của thời đại; xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường
phải gắn với việc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội nhằm bảo vệ những giá
trị của văn hóa ứng xử với môi trường.

22


×