Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.14 KB, 35 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là
trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng
với quy mô lớn nhất. Ngân hàng cũng là một trong những tổ chức tài chính
cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các
khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ là nguồn tài chính quan trọng để
đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính
sách tiền tệ; đây là một kênh quan trọng của chính sách kinh tế của Chính phủ
nhằm ổn định nền kinh tế.
Ngân hàng là loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói
chung và đối với từng cá nhân trong cộng đồng xã hội nói riêng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức nào trong nền kinh tế .
Có nhiều cách định nghĩa về ngân hàng thương mại, dựa trên các cách
tiếp cận khác nhau. Ở Việt Nam: theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990
của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thực hiện nhiều vai trò khác nhau trong nền kinh tế mới có
thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, thực hiện chuyển tiết kiệm
thành đầu tư. NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền
kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó tập trung vốn cho nền kinh tế, thúc


đẩy kinh tế phát triển. Hiện nay, vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn
với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian
giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng
khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty…
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh
toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ như bằng cách phát hành, bù trừ séc;
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền.
- Vai trò người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết trả nợ thay cho khách hàng
khi khách hàng mất khả năng thanh toán
- Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng, ngân hàng quản lý và bảo vệ tài sản
của khách hàng, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán
- Vai trò thực hiện chính sách tiền tệ : thực hiện các chính sách kinh tế của
Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu
xã hội.
- Đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng
bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ
mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh;
1.1.3. Chức năng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài
chính lớn nhất, cũng là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch
thường xuyên nhất. Với vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại đảm
nhiệm những chức năng khách nhau trong nền kinh tế như: chức năng tín
dụng, chức năng thanh toán, chức năng bảo hiểm, môi giới….Trong đó có ba
chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, đó là trung gian tài
chính; chức năng tạo phương tiện thanh toán và chức năng trung gian thanh
toán.
- Trung gian tài chính: ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối
giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân
hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người
cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi

suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi
tiền và người đi vay. Với chức năng chuyển tiết kiệm thành đầu tư, ngân hàng
đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại là cá nhân và tổ chức kinh tế. Đối với người gửi
tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi
mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn
về khoản tienf gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi
vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi, chắc chắn và hợp
pháp, chi tieu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực và thời gian cho
việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vồn
để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô
sản xuất. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy
giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Chức năng trung gian tài
chính được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
- Tạo phương tiện thanh toán:
+ Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát
hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại
trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền
tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền
được sử dụng trong các giao dịch. Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành
vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng
tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban
đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này
đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ
vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
+ Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
Ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được
để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa,

thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo
ra phương tiện thanh toán( tham gia tạo M1). Với chức năng này, toàn bộ hệ
thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân
hàng khách trên cơ sở cho vay; qua đó đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả
của xã hội. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng
và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho
vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng
lượng tiền cung ứng.
- Chức năng trung gian thanh toán : ngân hàng là trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Ngân hàng thương mại đóng vai trò
là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền
thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ. Việc ngân hàng thương
mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với
toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp
cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi,
ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo nhu cầu,
khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Các ngân
hàng thương mại còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân
hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh
toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó
càng được mở rộng. Chức năng này mô hình chung đã thúc đẩy lưu thông
hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần
phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân
hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí
lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,..Nhiều hình thức

thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán
không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng
trên toàn thế giới.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho
vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.
1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của ngân
hàng thương mại (NHTM), là tiêu chí quan trọng và duy nhất để phân biệt giữa
ngân hàng và doanh nghiệp khác. Chính sự đặc biệt này đã giúp cho các
NHTM có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Đồng thời, huy động vốn cũng
là hoạt động hết sức quan trọng đối với quá trình cạnh tranh giữa các NHTM.
1.2.1.1. Khái niệm
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng TMCP- đóng vai
trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Đây là
hoạt động thường xuyên của Ngân hàng. Một Ngân hàng thương mại bất kỳ
nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động vốn. Đối tượng huy
động của ngân hàng là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư.
Nguồn quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng.
1.2.1.2. Các hình thức huy động vốn
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác: tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của các
ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng thương mại đã đưa ra và
thực hiện nhiều hình thức huy động tiền gửi khác nhau như tiền gửi thanh toán,
tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các ngân
hàng khác
- Vay trên thị trường vốn: giống như các doanh nghiệp khác, ngân hàng

phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN
chấp thuận.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
tổ chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN: dưới hình thức tái chiết khấu( hoặc tái cấp
vốn).
- Các hình thức huy động vốn khác như : nguồn ủy thác, nguồn trong
thanh toán, nguồn khác ( như các khoản thuế chưa nộp, lương chưa trả...)
1.2.1.3. Vai trò của huy động vốn
 Đối với nền kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động luôn
có ý nghĩa quan trọng, giữ vai trò quyết định đến sự phát triển lâu dài và vững
chắc, bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài dù là viện trợ cho vay hay đầu tư
nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
của các nước trong khu vực và trên thế giới thời gian qua đã minh chứng rằng
không thể và không nên hoàn toàn mong đợi sự tăng trưởng, phát triển nhanh
và vững chắc nhờ vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng công
tác huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế
 Đối với Ngân hàng
Huy động vốn đóng vai trò quan trọng mang tính sống còn đối với mỗi
ngân hàng, là hoạt động giúp duy trì hoạt động cho vay của ngân hàng. Nguồn
vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đối
với một thực thể kinh doanh tiền tệ thì nguồn huy động ổn định sẽ giảm được
rủi ro thanh khoản cho ngân hàng- rủi ro dễ dẫn đến sụp đổ ngân hàng nhất.
Nguồn huy động vốn ổn định giúp ngân hàng có kế hoạch quản lý, sử dụng
hợp lý, đem lại lợi nhuận ổn định cho ngân hàng
 Đối với khách hàng
Một trong những tiêu chí quan trọng để người dân lựa chọn ngân hàng để
gửi tiền chính là khả năng cung ứng nhiều tiện ích thuận tiện chứ không chỉ

đơn thuần là chức năng cất trữ tiền tệ và kiếm lời qua lãi suất. Do đó, khách
hàng sẽ luôn tìm đến những ngân hàng có uy tín, lãi suất hấp dẫn, phong cách
phục vụ tốt, sản phẩm dịch vụ phong phú, tiếp thị hiệu quả, phân phối và cung
ứng dịch vụ thuận tiện
1.2.2. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của
các trung gian tài chính nói chung, chiểm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản,
tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
1.2.2.1. Khái niệm
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng ( còn được
gọi là tín dụng ngân hàng ). Tín dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của các
ngân hàng- để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, các nhân và các cơ
quan chính phủ.
1.2.2.2. Các hình thức tín dụng
Căn cứ vào các cách phân loại khác nhau sẽ có các hình thức tín dụng
khác nhau. Các cách phân loại khác nhau cho phép các ngân hàng theo dõi rủi
ro và sinh lời gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo
đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
 Căn cứ theo thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được
sử dụng dể bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60
tháng. Loại hình tín dụng này thường được áp dụng cho vay các doanh nghiệp,
tổ chức kinh doanh để đổi mới hoặc mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng các
dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 60 tháng. Đây là loại
hình được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây nhà ở, các thiết
bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
 Căn cứ theo đối tượng khách hàng vay vốn:

+ Cho vay khách hàng cá nhân: các khoản tín dụng dành cho khách hàng
cá nhân chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, khoản cho vay
này thường có rủi ro cao nhưng lại đem lại lợi nhuận rất lớn cho ngân hàng.
+ Cho vay khách hàng doanh nghiệp: tín dụng ngân hàng luôn là nguồn tài
trợ quan trọng không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp khi các doanh nghiệp
cần vốn tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây
dựng nhà xưởng, đầu tư xây dựng cơ bản...
+ Cho vay chính phủ
+ Cho vay các tổ chức tài chính khác: cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và
các định chế tài chính khác.
Căc cứ theo mục đích vay:
- Cho vay kinh doanh: Là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh
nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu động hàng hóa.
-Cho vay tiêu dùng: Là các loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
các cá nhân như mua sắm nhà cửa , xe cộ...
Căc cứ theo phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách
hàng và ngân hàng thực hiện các thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết Hợp đông
tín dụng. Tưng khoản vay là một hợp đồng tín dụng và gắn với một phương
thức sử dụng vốn. Đối tượng áp dụng thường là khách hàng không có quan hệ
thường xuyên với ngân hàng, nguồn thu nhập không ổn định và một số nhu
cầu vay từng lần khác. Cho vay từng lần nhằm bù đắp thiếu hụt tài chính tạm
thời, cho vay bên thi công để hoàn thành các hạng mục công trình xây dựng,
cho vay tiêu dùng…
- Cho vay theo hạn mức: là phương thức cho vay mà ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng một Hạn mức tín dụng( mức dư nợ tối đa) và được duy trì
trong một khoảng thời gian nhất định( không quá 01 năm). Đối tượng áp dụng
là khách hàng có nhu cầu vay vốn lưu động thường xuyên, tình hình sản xuất
kinh doanh ổn định, vòng quay vốn lưu động nhanh, quan hệ lâu dài và có uy

tín với ngân hàng.
- Cho vay thấu chi : Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoàng thời gian xác định. Giới hạn này còn được gọi là
hạn mức thấu chi.
1.2.2.3. Các nghiệp vụ tín dụng
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, điều 49 ghi : “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng
nhà nước”. Các nghiệp vụ tín dụng:
- Cho vay : là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. NHTM thực
hiện cho vay với các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức sau:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống
- Chiết khấu thương phiếu : là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ di phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Ngân hàng tuy ứng tiền cho
người bán, nhưng thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người
bán.
- Bảo lãnh : là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. NHTM được bảo lãnh vay,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các
hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của
mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và
tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có

của NHTM.
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả
cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.4. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM.
 Đối với ngân hàng:
- Tín dụng là hoạt động chính của ngân hàng, đây cũng là hoạt động
mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng lớn mà mức dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng làm ăn
hiệu quả, uy tín của ngân hàng rất lớn, ngày càng có nhiều người biết đến
ngân hàng. Như vậy vấn đề huy động vốn, hoặc huy động nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân cư gửi vào ngân hàng càng nhiều. Từ đó tạo điều kiện mở rộng
mạng lưới của ngân hàng nhờ đó ngày càng phát triển và sẽ ngày càng đa
dạng hóa các hình thức cho vay, nâng cao thu nhập cho ngân hàng
 Đối với khách hàng:
Nhờ có ngân hàng cho vay mà khách hàng sẽ có thể thực hiện được
những dự tính, dự án của mình. Do vậy mang lại lợi nhuận cho khách hàng hay
giải quyết vấn đề mà khách hàng gặp phải trong vấn đề đột xuất, cấp bách.
 Đối với nền kinh tế:
Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án kinh
doanh của các doanh nghiệp, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành
phần kinh tế theo mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng,
ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, nâng cao năng suất và hiệu
quả kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo và các chương trình, dự
án mang tính xã hội khác.
Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các chính sách quản

lý kinh tế và pháp lý phù hợp.
1.2.3. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và
cung cấp các dịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện
nhiều vai trò khác trong nền kinh tế. Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ
thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu
cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức
giá cạnh tranh.
- Thực hiện trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên ngân
hàng thực hiện- một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay, việc mua
bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện vì rủi ro là khá cao,
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu,
các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các
doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của
khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để
mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
- Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi ( thanh toán và tiết kiệm của
khách hàng ). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có
tiền cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành các
khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho
khách hàng về việc sẵn sang hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
- Bảo quản vật có giá: Ngân hàng thực hiện lưu giữ vàng và các vật có giá
cho khách hàng trong kho bảo quản. Khách hàng phải trả phí bảo quản cho
ngân hàng. Ngày nay dịch vụ này ngày càng phát triển, các vật có giá không

chỉ là những vàng, đá quý mà bao gồm cả những giấy tờ quan trong, cần được
bảo mật.
- Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ: Do nhu cầu chi tiêu lớn và
thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp
cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư
nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng
một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của ngân hàng lớn. Ngày nay,
Chính phủ giành quyền cấp phếp hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các
ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực
hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho Chính
phủ.Các ngân hàng phải mua trái phiếu của Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với
các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
- Cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Thanh toán qua
ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích của
thanh toán không dùng tiền mặt( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi
phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho
khách hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức
thanh toán phát triển như: Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng thẻ...

×