Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu ương ấu trùng tôm càng xanh bằng thức ăn công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.21 KB, 5 trang )

Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018

NGHIÊN CỨU ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH
BẰNG THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP
Nguyễn Thành Khôn1, Lê Minh Thông1, Ung Thái Luật1,
Đỗ Thị Tuyết Ngân1, Lâm Thị Cẩm Tú1, Châu Tài Tảo2

TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm tìm ra số lần cho ăn thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu
trùng tôm càng xanh. Nghiên cứu gồm 5 nghiệm thức với số lần cho ăn khác nhau là (i) 5 lần/ngày; (ii) 6 lần/ngày;
(iii) 7 lần/ngày; (iv) 8 lần/ngày và thức ăn chế biến 5 lần/ngày (đối chứng), bể ương có thể tích 120 lít, độ mặn 12‰,
mật độ 60 con/lít. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều dài Postlarvae 15 (11,07 ± 0,15 mm), tỷ lệ sống (54,4 ± 7,7%)
và năng suất (32.653 ± 4.646 con/lít) ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày lớn nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Có thể kết luận rằng ương ấu trùng tôm càng xanh cho ăn 6 lần/
ngày là tốt nhất.
Từ khóa: Số lần cho ăn, thức ăn công nghiệp, tôm càng xanh

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là
một trong những đối tượng quan trọng trong nghề
nuôi thủy sản trên thế giới. Ở Việt Nam, nghề nuôi
tôm càng xanh đang dần trở thành đối tượng nuôi
chính tại Đồng bằng sông Cửu Long. Theo kế hoạch
đến năm 2020 sẽ phát triển nuôi 32.060 ha, với lượng
giống cần là 2 tỷ con. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất
đối với nghề nuôi tôm hiện nay là thiếu tôm giống
và chất lượng giống không đảm bảo. Trong nước đã
từng áp dụng nhiều hệ thống ương ấu trùng tôm


càng xanh như: Qui trình nước trong hở, qui trình
tuần hoàn, qui trình nước xanh, qui trình nước xanh
cải tiến và qui trình có bổ sung chế phẩm sinh học
(Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Tuy nhiên các
nghiên cứu về thức ăn cho ấu trùng tôm càng xanh
còn hạn chế, đặc biệt là các nghiên cứu trước đây
hoàn toàn sử dụng thức ăn tự chế biến cho từng giai
đoạn của ấu trùng tôm càng xanh, cách làm này tốn
nhiều thời gian và công sức do phải cà thức ăn qua
từng giai đoạn của ấu trùng, bên cạnh đó khi cho ăn
phải từ từ để đảm bảo ấu trùng tôm càng xanh bắt
được mồi nên mỗi lần cho ăn rất lâu dẫn đến qui mô
sản xuất không lớn và mật độ ương không cao, nên
hiện nay một số trại sản xuất tôm càng xanh qui mô
lớn không đủ công lao động phải dựa hoàn toàn vào
thức ăn Artemia dẫn đến chi phí sản xuất rất cao. Từ
những lý do trên đề tài ảnh hưởng của số lần cho ăn
thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỉ lệ sống của
ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh được thực
hiện là rất cần thiết làm cơ sở cho việc xây dựng qui
trình sản xuất giống tôm càng xanh bằng thức ăn
công nghiệp.

2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Nguồn nước thí nghiệm: Nguồn nước ngọt
(nước máy thành phố) và nước ót độ mặn 80‰
được lấy từ ruộng muối ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng. Nước ót pha với nước ngọt tạo thành
nước có độ mặn 12‰, sau đó được xử lý bằng
chlorine với nồng độ 50 g/m3, sục khí mạnh cho hết

lượng chlorine trong nước và bơm qua ống vi lọc
1µm trước khi sử dụng.
- Nguồn tôm mẹ: Tôm mẹ mang trứng màu xám
đen được mua ở Cần Thơ, chọn tôm mẹ đánh bắt từ
tự nhiên mang trứng tốt, khỏe mạnh, không nhiễm
bệnh, kích cỡ từ 50 - 80 g/con, màu sắc tươi sáng
và không bị dị hình dị tật. Chọn ấu trùng tôm càng
xanh hướng quang mạnh từ nguồn tôm mẹ cho nở ở
trên để bố trí thí nghiệm.

1

Hình 1. Tôm càng xanh mẹ mang trứng

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa có thể tích
120 lít, độ mặn 12‰, mật độ ấu trùng 60 con/L và

Sinh viên Ngành Nuôi trồng thủy sản K41, Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ
Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ

2

121


Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018

bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi

nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thức ăn công nghiệp
được sử dụng là Lansy PL: Nghiệm thức 1: Cho
ăn 5 lần/ngày (2 lần Artemia + 3 lần thức ăn công
nghiệp); Nghiệm thức 2: Cho ăn 6 lần/ngày (2 lần
Artemia + 4 lần thức ăn công nghiệp); Nghiệm thức
3: Cho ăn 7 lần/ngày (2 lần Artemia + 5 lần thức
ăn công nghiệp), Nghiệm thức 4: Cho ăn 8 lần/ngày
(2 lần Artemia + 6 lần thức 0ăn công nghiệp);
Nghiệm thức đối chứng: Cho ăn 5 lần/ngày (2 lần
Artemia + 3 lần thức ăn chế biến) (đối chứng).
2.2.2. Chăm sóc và cho ăn
Ấu trùng sau khi được bố trí sẽ không cho ăn
ngày đầu tiên. Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 cho ăn
Artemia bung dù mỗi ngày 2 lần 6 giờ sáng và 18 giờ
chiều, lượng cho ăn 1 - 2 con/ml. Ngày thứ 6 cho ăn
Artemia mới nở, lượng cho ăn từ 2 - 4 con/ml. Khi
ấu trùng chuyển sang giai đoạn 4 thì bắt đầu cho ăn
thức ăn công nghiệp (Lansy PL hòa vào nước rồi cho
ăn) với lượng thức ăn là 1 g/m3/lần và Artemia mới
nở với số lần cho ăn theo các nghiệm thức 5 lần/
ngày, 6 lần/ngày, 7 lần/ngày, 8 lần/ngày, chia đều thời
gian trong ngày và đêm ra để cho ăn. Nghiệm thức
đối chứng cho ấu trùng ăn ngày 3 lần bằng thức ăn
chế biến vào lúc 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 15 giờ chiều
và 2 lần Artemia 6 h sáng và 18 h chiều. Tùy vào giai
đoạn của ấu trùng mà cho ăn thức ăn chế biến với
kích cỡ viên thức ăn thích hợp (300µm ở GĐ 4 - 5,
500µm ở GĐ 6 - 8 và 700µm ở GĐ 9-postlarvae 15).
Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm càng
xanh (Bảng 1).

Bảng 1. Công thức thức ăn chế biến
cho ấu trùng tôm càng xanh
Thành phần
Trứng gà
Sữa giàu canxi
Dầu mực
Lecithin
Vitamin C

Lượng
1 trứng
10g
3%
1,5%
100 - 500mg/kg

Nguồn: Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2003).

2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
- Các chỉ tiêu môi trường nước được theo dõi
gồm nhiệt độ, pH đo 2 lần/ngày (sáng và chiều),
TAN và NO2‑ đo 3 ngày/lần.

- Các chỉ tiêu theo dõi tôm gồm: Chỉ số biến thái
của ấu trùng (LSI) 3 ngày quan sát 1 lần, mỗi lần
quan sát 30 ấu trùng/bể, Đo chiều dài ấu trùng và
tôm postlarvae ở các giai đoạn 5, 11 và postlarvae 15,
mỗi lần đo 30 con/bể. Đánh giá sự tăng trưởng của
122


ấu trùng ở giai đoạn tôm postlarvae 15 bằng cách đo
chiều dài từng con (30 con/bể). Tỷ lệ sống và năng
suất ở giai đoạn tôm postlarvae 15.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được sẽ tính toán giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ phần trăm, so sánh
sự khác biệt giữa các nghiệm thức áp dụng phương
pháp ANOVA và phép thử DUNCAN ở mức ý nghĩa
0,05 sử dụng phần mềm Excel của Office 2010 và
SPSS phiên bản 13.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 6 đến tháng
7 năm 2018, tại trại thực nghiệm nước lợ, Khoa Thủy
sản, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường ương ấu trùng tôm
càng xanh của thí nghiệm.
Nhiệt độ: Bảng 2 cho thấy nhiệt độ trung bình
giữa các nghiệm thức rất ổn định, buổi sáng dao
động từ 27 - 27,1oC và buổi chiều dao động từ 29,3 29,4oC, giữa các nghiệm thức không có sự biến động
lớn về nhiệt độ trong suốt thời gian ương. Nhiệt độ
có liên quan rất lớn đến sự lột xác và phát triển của
ấu trùng tôm càng xanh (Nguyễn Thanh Phương và
ctv., 2003). Còn theo New và cộng tác viên (1985)
cho rằng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của
ấu trùng tôm càng xanh là 26 - 310C, trong khoảng
nhiệt độ thích hợp nếu nhiệt độ càng cao thì ấu
trùng phát triển càng nhanh. Nhiệt độ tối ưu cho
sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh dao động
từ 28 - 300C (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003).

Như vậy, yếu tố nhiệt độ trong suốt thời gian ương
tương đối thuận lợi cho sự phát triển của ấu trùng
tôm càng xanh.
pH: Trong thời gian thí nghiệm thì giá trị pH
giữa các nghiệm thức có sự dao động nhỏ, buổi sáng
từ 8,06 - 8,09 và buổi chiều từ 8,09 - 8,14. Nguyễn
Thanh Phương và cộng tác viên (2003) cho rằng pH
có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ấu trùng tôm
càng xanh và khoảng pH thích hợp là 7,0 - 8,5. Từ
kết quả cho thấy pH nằm trong khoảng thích hợp và
biến động trong ngày không quá 0,5 đơn vị, là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của ấu trùng tôm
càng xanh.
TAN: Hàm lượng TAN trung bình của các
nghiệm thức dao động trong khoảng 0,48 - 0,86
mg/L và giữa các nghiệm thức không khác nhau
nhiều. Theo Rao và cộng tác viên (1993) nước ương
nuôi ấu trùng tôm càng xanh thì hàm lượng TAN


Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018

phải dưới 1,5 mg/l. Vậy hàm lượng TAN trong suốt
quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp
cho sinh trưởng và phát triển của ấu trùng và hậu ấu
trùng tôm càng xanh.
NO2-: Hàm lượng NO2- trung bình của các
nghiệm thức dao động từ 2,58 - 3,48 mg/L. Theo Boy
(2007) hàm lượng NO2- cho phép trong ương tôm là


1 mg/L. Theo ghi nhận của Margarete Mallasen và
cộng tác viên (2006) thì tỷ lệ sống, tăng trưởng và
chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh không
có sự khác biệt khi được ương ở mức NO2- từ 0 và
2 mg/l. Vậy hàm lượng NO2- của các bể thí nghiệm
có cao nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến sự phát triển
của ấu trùng tôm càng xanh.

Bảng 2. Biến động của các yếu tố môi trường trong quá trình ương tôm càng xanh
Chỉ tiêu
Sáng
Chiều
Sáng
pH
Chiều
TAN (mg/L)
NO2-(mg/L)

Nhiệt độ (oC)

5 lần/ngày
27,0±0,74
29,4±0,8
8,09±0,23
8,13±0,20
0,77±0,61
2,95±2,52

6 lần/ngày
27,0±0,73

29,4±0,9
8,07±0,22
8,14±0,21
0,67±0,71
2,58±2,22

3.2. Chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh
Chỉ số LSI thể hiện sự biến thái và mức độ đồng
đều của ấu trùng tôm càng xanh trong bể ương. Sự
phát triển của ấu trùng tôm càng xanh được quan sát
thông qua chu kì lột xác và biến thái. Ấu trùng tôm
càng xanh trải qua 11 lần lột xác và biến thái để hình
thành hậu ấu trùng (Nguyễn Thanh Phương và ctv.,
2003). Tuy nhiên thời gian lột xác mỗi giai đoạn tùy
thuộc vào điều kiện môi trường, dinh dưỡng, mật độ
ương và điều kiện sinh lý của chúng. New và cộng
tác viên (1985) cho rằng môi trường ương tôm sẽ
ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm càng xanh.
Từ kết quả bảng 3 cho thấy ở lần thu mẫu sau 3 và 6
ngày thì chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) ở các
nghiệm thức và có sự phân đàn sau 9 ngày ương.
Qua kết quả bảng 3 ta thấy chỉ số biến thái trung

Nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày
27,1±0,75
29,4±0,8
8,06±0,24
8,13±0,23

0,69±0,48
2,77±1,97

8 lần/ngày
27,1±0,73
29,4±0,7
8,08±0,24
8,10±0,24
0,86±0,81
3,48±2,03

Đối chứng
27,0±0,77
29,3±0,7
8,07±0,23
8,09±0,19
0,48±0,35
3,38±2,11

bình ở những lần thu mẫu vào ngày thứ 3, 6, 18, 21
của các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Chỉ số biến thái ấu trùng vào
ngày thứ 12, 15, 18 ở nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày
cao hơn các nghiệm thức còn lại. Chỉ số biến thái ấu
trùng vào ngày thứ 21, 24 ở nghiệm thức cho ăn 8
lần/ngày và 7 lần/ngày cao hơn các nghiệm thức còn
lại. Chỉ số biến thái ấu trùng của nghiệm thức cho
ăn 6 lần/ngày và 7 lần/ngày ở lần thu mẫu vào ngày
thứ 6, 9, 18, 21 cao hơn các nghiệm thức còn lại. Từ
đó cho thấy ở các nghiệm thức sử dụng thức ăn công

nghiệp có chỉ số biên thái tốt hơn nghiệm thức đối
chứng (cho ăn thức ăn chế biến), và giữa các nghiệm
thức cho ăn thức ăn công nghiệp thì nghiệm thức
cho ăn 6 lần/ngày và 7 lần/ngày ấu trùng tôm càng
xanh có chỉ số biến thái tốt hơn các nghiệm thức
còn lại.

Bảng 3. Chỉ số biến thái của ấu trùng tôm càng xanh
Chỉ tiêu
LSI - ngày 3
LSI - ngày 6
LSI - ngày 9
LSI - ngày 12
LSI - ngày 15
LSI - ngày 18
LSI - ngày 21
LSI - ngày 24
LSI - ngày 27

5 lần/ngày
2,8±0,13a
4,9±0,12a
6,1±0,01a
7,5±0,29b
8,5±0,23b
8,8±0,06a
9,0±0,17a
9,4±0,23ab
10,6±0,10ab


6 lần/ngày
2,8±0,05a
5,2±0,36a
6,4±0,17c
7,3±0,15ab
8,0±0,15a
8,8±0,05a
9,1±0,15a
9,3±0,12a
10,8±0,12b

Nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày
2,7±0,25a
5,3±0,52a
6,3±0,20bc
7,2±0,31ab
7,9±0,06a
8,8±0,08a
9,1±0,15a
9,7±0,06bc
10,7±0,46ab

8 lần/ngày
2,9±0,18a
4,9±0,24a
6,1±0,01ab
7,3±0,45ab
7,9±0,25a
8,6±0,01a

9,3±0,06a
9,8±0,06c
10,6±0,10ab

Đối chứng
2,8±0,15a
4,8±0,24a
6,0±0,06a
6,8±0,25a
7,6±0,45a
8,5±0,40a
8,9±0,40a
9,4±0,38ab
10,3±0,12a

Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
123


Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018

3.3. Tăng trưởng của ấu trùng và hậu ấu trùng
Theo Uno và cộng tác viên (1969) chiều dài của ấu
trùng giai đoạn 5 và 11 lần lượt là 2,80 và 7,73 mm.
Theo Nguyễn Thanh Phương và cộng tác viên (2006)
thì chiều dài của tôm postlarvae15 dao động trong
khoảng 7,88 - 8,90 mm. Kết quả tăng trưởng về chiều
dài của các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh của 5
nghiệm thức được thể hiện qua bảng 4. Giai đoạn
5 chiều dài ấu trùng tôm càng xanh ở nghiệm thức

cho ăn 6 lần/ngày (2,98 mm) khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức
còn lại, nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (3,06 mm)
và nghiệm thức đối chứng (3,07 mm) khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với nghiệm thức cho
ăn 5 lần/ngày (2,96 mm) và nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày (2,94 mm). Ở giai đoạn 11 chiều dài
ấu trùng tôm càng xanh ở nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày (8,21 mm) khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại;
nghiệm thức đối chứng (8,06 mm) thấp nhất khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm
thức cho ăn 6 lần/ngày (8,44 mm) và nghiệm thức
cho ăn 8 lần/ngày (8,54 mm), khác biệt không có ý

nghĩa thống kê (p > 0,05) với nghiệm thức cho ăn
5 lần/ngày; nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (8,54 mm)
cao nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
so với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày (8,17 mm)
và khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nghiệm
thức cho ăn 6 lần/ngày (8,44 mm). Vậy ở cả giai đoạn
5 và giai đoạn 11 nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày
có chiều dài khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(P > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Giai đoạn
PL-15 chiều dài ấu trùng ở nghiệm thức cho ăn
8 lần/ngày (10,67 mm) khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn
lại, nghiệm thức đối chứng (10,1 mm) thấp nhất,
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với nghiệm
thức cho ăn 7 lần/ngày (10,83 mm) và 6 lần/ngày

(11,07 mm), khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05) với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày
(10,27 mm); nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày
(11,07 mm) cao nhất, khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) so với nghiệm thức cho ăn 5 lần/ngày,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) với
nghiệm thức cho ăn 7 lần/ngày.

Bảng 4. Chiều dài (mm) của ấu trùng tôm càng xanh ở các nghiệm thức
Chỉ tiêu
Giai đoạn 5
Giai đoạn 11
Postlarvae 15

5 lần/ngày
2,96±0,02a
8,17±0,28ab
10,27±0,61ab

6 lần/ngày
2,98±0,07ab
8,21±0,09abc
11,07±0,15c

Nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày
8 lần/ngày
a
2,94±0,06
3,06±0,05b

8,44±0,15bc
8,54±0,10c
10,83±0,21bc
10,67±0,29abc

Đối chứng
3,07±0,04b
8,06±0,25a
10,10±0,20a

Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

3.4. Tỷ lệ sống và năng suất của PL-15
Tỷ lệ sống và năng suất của tôm postlarvae 15 khi
ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh của các nghiệm
thức được thể hiện qua bảng 5. Sau khi kết thúc
thí nghiệm thì tỉ lệ sống postlarvae 15 cao nhất ở
nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày (54,4%) và thấp nhất
là nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày (36,8%) tuy nhiên
giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Năng suất tôm postlarvae 15 thu
được thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 8 lần/ngày,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với

các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức cho ăn 6 lần/
ngày có năng suất cao nhất nhưng khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm
thức còn lại. Theo Nguyễn Thanh Phương và cộng
tác viên (2006) thì tỷ lệ sống trung bình và năng suất
tôm postlarvae 15 trung bình của tôm nuôi vỗ có

Khối lượng < 20 g lần lượt là 53,8 ± 5,5 và 32,3 ± 3,32
tôm bột/lít. Từ đó cho thấy tỷ lệ sống và năng suất
tôm postlarvae 15 trong nghiên cứu này dao động
tương đương với kết quả của nghiên cứu trên.

Bảng 5. Tỷ lệ sống và năng suất tôm postlarvae 15
Chỉ tiêu
Tỷ lệ sống (%)
Năng suất tôm
PL-15 (con/m3)

5 lần/ngày
45,8±10,8a

6 lần/ngày
54,4±7,7a

Nghiệm thức cho ăn
7 lần/ngày
53,7±4,6a

27.483±6.453a

32.653±4.646a

32.253±2.753a

8 lần/ngày
36,8±14,6a


Đối chứng
50,3±9,9a

22.110±8.787a

30.220±5.897a

Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 dòng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
124


Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018

IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Các yếu tố môi trường trong suốt quá trình
ương thích hợp cho ấu trùng và hậu ấu trùng tôm
càng xanh sinh trưởng và phát triển tốt.
- Tăng trưởng chiều dài Postlarvae 15 (11,07
± 0,15 mm), tỷ lệ sống (54,4 ± 7,7%) và năng suất
(32.653 ± 4.646 con/lít) ở nghiệm thức cho ăn 6 lần/
ngày tốt nhất.
4.2. Đề nghị
Chọn số lần cho ăn trong ngày là 6 lần để thực
hiện các thí nghiệm tiếp theo và ứng dụng vào thực
tế sản suất giống tôm càng xanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Bùi, 2006. Ảnh
hưởng của nguồn tôm mẹ lên sức sinh sản và chất
lượng ấu trùng tôm càng xanh (Macrobrachium


rosenbergii). Tạp chí Khoa học số đặc biệt chuyên đề
Thủy sản (Quyển 2) 124-133.
Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị
Thanh Hiền và Marcy N. Wilder, 2003. Nguyên lý
và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà xuất
bản Nông nghiệp. TP. Hồ Chí Minh, 127 trang.
Boyd, C. E., 2007. Nitrification: Imprortant process in
aquaculture. Golbal Aquaculture Advocate 10, 64-67.
Margarete Mallasen, Wagner Cotroni Valenti, 2006.
Effect of nitrite on larval development of giant
river prawn Macrobrachium rosenbergii. Original
Research Article Aquaculture, Volume 261, Issue 4,
11 December 2006, Pages 1292-1298.
New, M. B., and S. Singholka, 1985. Freshwater Prawn
Farming: A manual for culture of Macrobrachium
rosenbergii. FAO Fisheries Technical Paper (212).
Rao K.L. and Troipathi S.D., 1993. A manual on Giant
Freshwater prawn hatchery. CIFA.
Uno, Y. and K. C. Soo, 1969. Larval development of
Macrobrachium rosenbergii reared in laboratory.
J. Tokyo Univ. Fish., 55 (2): 79-90.

Study on nursing of larval of giant fresh water prawn
(Macrobrachium rosenbergii) by industrial feed
Nguyen Thanh Khon, Le Minh Thong, Ung Thai Luat,
Do Thi Tuyet Ngan, Lam Thi Cam Tu, Chau Tai Tao

Abstract
The study aimed to find the effect of feeding times of industrial feed on growth and survival rate of larvae and postlarvae

of Giant fresh water prawn. The study included 5 treatments: (i) 5 times/day; (ii) 6 times/day; (iii) 7 times/day;
(iv) 8 times/day and (v) control. Experimental tank volume was 120 liter and stocking density was 60 larvae/liter
with water at salinity of 12‰. The results of the experiment showed that the length of postlarvae 15 (11.07 ± 0.15
mm), survival rate (54.4 ± 7.7%) and productivity (32,653 ± 4,646 con/m3) at treatments in larger 6 times/day but the
difference was not statistically significant (p > 0.05) compared with the remaining treatments. It can be concluded
that nursing freshwater prawn for feeding 6 times/day is most suitable.
Keywords: Industrial feed, feeding times, giant fresh water prawn

Ngày nhận bài: 24/10/2018
Ngày phản biện: 29/10/2018

Người phản biện: TS. Lý Văn Khánh
Ngày duyệt đăng: 10/12/2018

NGHIÊN CỨU CHU KỲ BỔ SUNG RỈ ĐƯỜNG
TRONG ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM SÚ THEO CÔNG NGHỆ BIOFLOC
Châu Tài Tảo1, Phùng Văn Toàn2, Trần Ngọc Hải1,
Cao Mỹ Án1 và Lý Văn Khánh1

TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm tìm ra chu kỳ bổ sung rỉ đường thích hợp cho tăng trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng và hậu
ấu trùng tôm sú. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với chu kỳ bổ sung rỉ đường là: (i) 1 ngày/lần; (ii) 2 ngày/lần;
(iii) 3 ngày/lần; (iv) 4 ngày/lần. Ấu trùng tôm được bố trí trong bể composit 0,5m3, độ mặn 30‰, mật độ ương
150 con/L, thời điểm bổ sung rỉ đường bắt đầu từ giai đoạn Mysis-3 với tỷ lệ C/N = 25. Kết quả thí nghiệm cho thấy
1

Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ; 2 Trung tâm Khuyến Nông tỉnh Cà Mau
125




×