Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, từ:
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội... Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Bài làm
Mùa thu là cảm hứng muôn đời của người nghệ sĩ. Thu đến, thu đi; thu là khoảng giao
mùa, khoảng lặng để thi nhân tìm thấy ở đó một mối đồng cảm sâu xa, để tạc nên những
bức tranh cảnh sắc đa thanh, đa hình mà người đọc bao thế hệ vẫn ngẩn ngơ chiêm
ngưỡng. Giữa mạch thơ chung dồi dào ấy, ta luôn nhớ đến mùa thu Hà Nội xưa đầy ý vị
của Nguyễn Đình Thi:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu xưa nay vẫn đẹp và dịu dàng, thanh nhã. Thu trở thành một phần không thể thiếu
khi nhắc đến thơ viết về thiên nhiên. Ấy là một mùa thu thuần quê đất Việt trong thơ
Nguyễn Khuyến, một mùa thu thâm trầm, huyền bí trong thơ Lưu Trọng Lư, một mùa thu
chứa đầy sự phôi pha theo nhịp chảy thời gian trong thơ Xuân Diệu. Rõ ràng nét phong
phú của một đề tài cũ như thế là thách thức cho sáng tạo, tìm tòi và khám phá. Nguyễn
Đình Thi hiểu hơn ai hết điều đó. Ông không muốn bị mờ đi, thậm chí chìm hẳn giữa
những nét rất đậm, rất sâu, rất tinh của người trước. Chẳng phải" Trời thu xanh ngắt
mấy tầng cao" (Nguyễn Khuyến), cũng không phải "Sen tàn, cúc lại nở hoa" (Nguyễn
Du), nét thu của Nguyễn Đình Thi là nét thu đô thị, nét thu thủ đô hào hoa, thanh lịch:
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Mùa thu được cảm nhận ở thời điểm mẫn cảm của đất trời. Dường như thu đã về đâu đó
khi hơi lạnh đang mơn man chạm nhẹ vào da thịt. Chữ" chớm" do đó mới thật tinh tế.
"Chớm" là sự bắt đầu, là điều mới mẻ, nó chứa đựng trong mình chút gì như là e ấp của
mùa thu. Cảm quan mơ hồ về những làn hơi giá chưa hẳn là mùa thu. Biết được cái"
chớm lạnh" là thi sĩ đang ở ngưỡng giao thoa của khí trời ở khoảnh khắc mà tín hiệu thu
đã xuất hiện, nhưng thu ấy vẫn chưa đến độ nồng đậm nhất. Báo hiệu ban đều như thế
dễ nhoè đi, phần vì bất ngờ, phần vì hết thảy đều sẽ sàng quá. Cho nên, cũng là đương
nhiên khi chỉ những tâm hồn thật nhạy cảm, thật, gắn bó với nét đặc trưng thân thuộc này
mới có thể hiểu và đón nhận trọn vẹn ân sủng tuyệt vời của thiên nhiên Ở đây không chỉ
có mình thi sĩ mà còn có cả không gian Hà Nội cả phố phường Hà Nội, cả lòng người Hà
Nội cảm nhận được khi trời nay đổi khác bởi thoáng hiện diện của mùa thu. Nhưng có
thật là heo may tan loãng vào không gian đó trở thành ám hiệu riêng của đất trời và lòng
người Thủ đô? Chẳng biết nữa, nhưng qua những vần thơ đẹp dịu dàng của Nguyễn
Đình Thi tất thảy chúng ta đã được cảm nghe đầy đủ hồn thu của một Hà Nội trong sáng
đến vô ngần.
Từ trước đến nay nhiều người trong nét bối hồi xúc cảm chỉ chú tâm đem cái "chớm
lạnh" đặt vào "lòng Hà Nội" mà quên đi trường thời gian trong trẻo của một sớm thu.
Đừng xem "sáng" đơn thuần chỉ là yếu tố thông tin. Đó là sự nhấn mạnh. "Sáng mát
trong" hôm nay hoài niệm về "sáng chớm lạnh" năm xưa. Không gian nguyên lành, dễ chịu
của ngày mới là điểm khởi đầu cho mạch cảm xúc Nguyễn Đình Thi. Như thế Hà Nội
đang ôm trọn cái" chớm lạnh" của sáng thu, rồi Hà Nội lại mở rộng vòng tay, trải dài ra
để sẻ lòng cùng thi sĩ
" Những phố dài xao xác hơi may"
Câu thơ bảy chữ là sự kết nối giữa nét hữu hình" những phố dài" và nét vô hình" hơi may"
bằng từ tượng thanh "xao xác". "Xao xác" là từ láy gợi âm thanh, có tác dụng làm xao
động cánh không gian vắng lặng. Biết thế, nhưng mỗi khi đọc câu thơ, tôi vẫn bị ám ảnh
bởi trường nghĩa khác của hai chữ này. Hình như đây không còn là từ tả âm, nó là sự pha
trộn của một âm hình, để nghe" xao xác" mà thấy cả khung cảnh trống lặng chung
quanh. Nó khác hẳn" xào xạc", từ láy đặc âm trong thơ Lưu Trọng Lư:
"Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
(Tiếng Thu)
Thực ra, "xao xác" và "xào xạc" chi là một âm nhưng vang lên ở hai cung khác nhau. Vậy
mà nếu thử thế chỗ cho nhau thì âm chung chẳng còn mà cung khác nhau cũng chẳng
thấy. "Xào xạc" của Lưu Trọng Lư là âm trầm và đục thể hiện vẻ âm u, huyền bí của
rừng già. Còn "xao xác" của Nguyễn Đình Thi là âm trong và cao gợi được tiếng lá khô
quét mìn trên đường phố. Đặt vào câu thơ, "xao xác" lại cụ thể hoá cho "hơi may" vốn vô
hình. Phải chăng đó là sự chuyển đổi cảm giác ngoài Nguyễn Đình Thi chưa ai từng biểu
đạt? Nhờ thế thi sĩ đã truyền tải được hơi thở nhẹ nhàng của mùa thu đến từng con phố,
từng ngả đường. Trong cái se se chưa đù góp thành gió của" hơi may", những phố dài như
càng dài thêm, lòng người đang xôn xao một niềm riêng khó hiểu, cơ hồ cũng "xào xạc"
hơn
Quả thật ngôn ngữ của Nguyễn Đình Thi dễ làm người ta lạc vào mê cung, nếu không
tinh nó sẽ khó thoát ra, dễ bị luẩn quẩn trong cái luyến láy rất tài hoa của câu từ. Hình
ảnh thơ bình dị nhưng cứ lắng đọng chút mơ hồ chẳng thể nắm bắt. Để bất chợt, nhà thơ
đặt vào giữa những băn khoăn còn bỏ ngỏ của" chớm lạnh", của" hơi may" một hình ảnh
cụ thể, rõ ràng:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại”.
Hoá ra cảnh thu Hà Nội đẹp và mơ huyền thế cứ bị phủ chút man mác xác xao là do đây:
người ra đi. Nếu đặt riêng câu thơ, ta có thể cho rằng đây là một chiêm nghiệm tâm lý.
Bất cứ một chí nam nhi nào khi chia xa đều dàn lòng nén xúc cảm. Trần Đăng Khoa có
nhận xét rất tinh về hoàn cảnh này, ấy là người ra đi, tiến bước mà" mặt tái nhợt không
dám ngoảnh lại phía sau". Có cảm tưởng như chỉ khẽ đưa mắt lại thôi là người ra đi
không còn đủ can đảm để bước tiếp. Nếu đặt hình ảnh thơ vào chỉnh thể của cà đoạn thì
ta thấy đây mới là hồn thơ, là chiều sâu bức tranh thu Hà Nội. Thế người ra đi là ai? Đó là
những chiến sĩ trung đoàn thủ đô? Không, Nguyễn Đình Thi hoàn toàn bác bỏ ý kiến này.
Điều ông muốn thể hiện, giản đơn là sự lưu luyến, bịn rịn của người con thủ đô phải
chia xa Hà Nội trong những thu xưa. Thái độ "không ngoảnh lại" vì thế là một cách kìm
lòng bởi thành phố của mình đang ở thời khắc đẹp nhất, thành phố ấy đủ sức níu giữ một
tâm tình Hà Nội, thành phố ấy tiễn các anh với một trời nắng vàng và lá vàng:
"Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Có người cho rằng đây là sự phi lô gíc giữa hành động và cảm giác. Hành động thì
"không ngoảnh lại" mà cảm giác lại ngập đầy nắng lá sau lưng. Vâng, nếu như có ai đó
cố tâm đưa hình tượng thơ theo trật tự tuyến tính này thì cũng xin" ngoái lại" để hiểu
rằng cái" chớm lạnh", "xao xác" đã được mùa thu gửi đến làm sứ giả cho mình tự khi nào.
Do đó sau khí thu, hồn thu, lẽ dĩ nhiên phải là tình thu man mác ấy
Như người ta vẫn nói đầu câu là cái then cửa. là nét nhấn nhá của bài thơ thì ở đoạn thơ
này ta không thấy xuất hiện một dấu câu nào Nguyễn Đình Thi đã để ngỏ lòng mình, từ
đó người đọc có những trường suy tưởng khác nhau, tự tìm cho mình cách ngắt nhịp tạo
sự đa thanh đa nghĩa của ý thơ. Câu thơ "Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" có hai cách ngắt
nhịp tương ứng với hai cách hiểu. Cách thứ nhất ngắt theo nhịp 2/2/3 (Sau lưng / thềm
nắng / lá rơi đầy). Nó ứng với cách hiểu sau lưng người đi là thềm nắng, trên đó lá vàng
rơi đầy Cách thứ hai ngắt theo nhịp 2/2/1/2
với cách hiểu sau lưng người đi là thềm váng, trên đó nắng với lá cùng rơi xuống. Rồi
người thì cho cách ngắt nhịp thứ nhất quá giản dị, thông thường, người khác lại nhận xét
cách ngắt thứ hai quá ư cẩu kỳ. Dù đứng trên bình diện nào thì đó cũng là cách cảm riêng
để tìm đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp. Hơn thế đó là cách biểu hiện (đa dạng nhất
cho nét huyền ảo, biến hiện của tiết tấu câu thơ. Với tôi, tôi yêu cả hai cách hiểu.
Khi nắng lá cùng rơi, khi nắng đã rải lá rác vàng lên những thềm vắng thì đều gợi được
sắc thái riêng của trời thu Hà Nội.
Có thể nói đoạn thơ là những nốt nhạc lòng được chắt chiu từ một tâm hồn đa cảm, một
tình yêu thiết tha, nồng thắm với đất nước quê hương. Bức tranh cảnh sắc được gợi từ
hoài niệm nhưng không đơn thuần chỉ là nhớ về để kể, tả. Nguyễn Đình Thi đã làm sống
dậy vẻ đẹp thu của Hà Nội xưa. Hêghen cho rằng thơ ca cao hơn sử học hình như cũng vì
lẽ ấy.