Đề bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ “Anh bộ đội và tiếng nhạc la” của Hoàng
Nhuận Cầm
Bài làm
Hoàng Nhuận Cầm, sinh năm 1952, quê ở Hà Nội. Năm 1971 đang học Đại học Tổng
hợp, anh vào lính thuộc binh chủng pháo binh, nhiều năm sống và chiến đấu tại chiến
trường Bình Trị Thiên, và đã tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Anh có 3 tập thơ: Thơ tuổi 20 (1974), Những câu thơ viết đợi mặt trời (1983), Xúc xắc
mùa thu (1992)... đó là hành trang đẹp của một thời thanh xuân.
Bài thơ “Anh bộ đội và tiếng nhạc la" viết tại Trường Sơn thời kháng chiến chống Mỹ.
Nhan để bài thơ rất độc đáo. Mười sáu câu thơ trong đó, câu số 1, câu số 10 có 8 chữ, 14
câu thơ còn lại theo thể thơ bảy chữ. Hình ảnh anh bộ đội và bầy la chở vũ khí ra trận đi
trong rừng mưa được ghi lại với bao cảm xúc và ấn tượng rất đẹp, nên thơ.
Âm điệu của bài thơ trầm hùng; nhạc của thơ cũng là nhạc trên cổ la, nhạc của rừng xanh
và nhịp bước chân người, chân bầy la đi trong rừng hoang, rừng đại ngàn,
Đoạn vận tải quân sự không có tàu xe, không có voi ngựa mà chỉ có binh lính với bầy la.
Thật đặc biệt. Lính "xắn quần đi trong mưa”. Bầy la nối đuôi nhau đi trong "rừng già,
rừng thưa” của chốn đại ngàn hoang vu. Cuộc vận tải đầy gian truân, gian khổ và bí mật
giữa rừng vắng. Chỉ có "tiếng nhạc cổ la”, tiếng chim rừng và tiếng mưa rơi. Tác giả đã
lấy động để tả tĩnh, tạo nên một không gian mơ hồ, trầm vắng như cổ tích:
Anh bộ đội xắn quần đi trong mưa
Bầy la theo rừng già, rừng thưa
Rừng đâu chỉ có giọng chim lạ
Còn có tiếng nhạc trên cổ la.
Cảnh rừng già, rừng vắng được làm rõ thêm trong khổ thơ thứ hai. Nấm rừng và hoa rừng
(hoa dại) được nhân hóa. Nấm nâu, nấm già, đú loại nấm “thức dậy bên vòm lá”. Các loại
hoa rừng cũng "mở cánh ra nghe ngóng”. Các từ ngữ: “tự dưng”, “bỗng nhiên” thể hiện
cảm giác ngạc nhiên của nấm, của hoa. Vì đó cũng là sự biến đổi kỳ diệu của rừng già
sau những cơn mưa (chắc là mưa xuân?). Rừng vắng được đánh thức bất ngờ trước sự
xuất hiện của bầy la và các anh bộ đội hành quân qua. Cảnh vật thiên nhiên nơi rừng già,
rừng thưa được tác giả khám phá và miêu tả một cách tinh tế.
Cấu trúc song hành bằng phép đối và biện pháp tu từ nhân hóa đã tạo nên những hình ảnh
rất ngộ nghĩnh, rất thơ. Chất cảm giác thấm đẫm vần thơ. Hoàng Nhuận Cầm quả có
con mắt xanh và một trái tim đa cảm, yêu đời;
Những cây nấm nâu, màu nâu già,
Tự dưng thức dậy bên vòm lá
Những bông hoa chưa có tên hoa
Bỗng nhiên mở cánh cửa ra nghe ngóng.
Không phải ngày một ngày hai mà đã sáu năm (hơn hai ngàn ngày), anh bộ đội và bầy la
đã vượt qua hàng vạn dặm đường, vượt qua bao đèo cao dốc thẳm, trải qua bao gian khổ
hiểm nguy trên "những con đường hoang dại”. Anh bộ đội và bầy la đã chuyên chở hàng
ngàn, hàng vạn tấn lương thực, súng ống, đạn dược, thuốc men,... chi viện cho mặt trận.
Anh bộ đội và bầy la đã mang bao tình cảm và sức mạnh hậu phương chi viện cho tiền
tuyến. Cuộc chiến đấu của họ diễn ra thầm lặng và bền bỉ. Chiến tích của họ vô cùng to
lớn. Chỉ có những “con đường hoang dại” là in dấu chân người lính và bầy la. Chỉ có
tiếng nhạc trên cổ la là đã làm nên “bài hát của rừng”.
Nhà thơ đã lấy tiếng nhạc trên cổ la, lấy dấu chân anh bộ đội và dấu chân bầy la để
khẳng định và ca ngợi những chiến tích thầm lặng, thần kỳ của những anh hùng vô danh.
Một cách nói rất ý vị, ân tình, thấm thía:
Tiếng nhạc trên cổ la rung rung
Đã sáu năm là bài hát của rừng
Có những con đường hoang dại lắm
Chỉ in chân la và chân anh.
Công việc và nhiệm vụ của anh bộ đội và bầy la được giao phó, được gánh vác rất nặng
nề gian khổ và vô cùng vẻ vang. Con đường chiến đấu mà anh bộ đội và bầy la từng đi
qua là “những con đường xa, con đường xanh” con đường ra mặt trận, tuy đầy máu lửa
nhưng rất đẹp vì đó là con đường ước mơ, con đường khát vọng vươn tới độc lập tự do
của quân và dân ta:
Những con đường xa, con đường xanh
Sáng lên viên đạn vàng căm giận
Hình ảnh ẩn dụ: con đường và viên đạn, những tính từ: xa, xanh, vàng đã nói lên rất đẹp
lí tưởng sống và chiến đấu của anh bộ đội và bầy la, của dân tộc ta thời kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Tôi đã từng gặp những con thuyền độc mộc chở lương thực vũ khí ra trận trên sông suối
PaKo Tây Nguyên. Cũng từng được mục kích những đàn voi kéo pháo ở mặt trận đường 9
Nam Lào. Đọc bài thơ của Hoàng Nhuận Cầm được biết thêm còn có nhiều bầy la làm
công tác vận tải quân sự thời kháng chiến.
Bầy la không chỉ là vật nuôi, là phương tiện mà còn là người bạn thủy chung, người đồng
chí chiến đấu cùng đồng cam cộng khổ, cùng vào sinh ra tử với các anh bộ đội trên
“những con đường hoang dại”, “những con đường xa, con đường xanh”… Nhiều con la đã
hi sinh trong lửa đạn, nhiều con la đã lập chiến công.
Nhà thơ đã nhân hóa bầy la, dành những lời tốt đẹp nhất để khẳng định và ca ngợi công
sức to lớn của con vật hiền lành, cần mẫn, đáng yêu ấy:
Cần mẫn bầy la đi ra trận
Bao gùi hàng hồi hộp trên lưng.
Tôi chưa được đọc một tác phẩm nào nói về bầy la ra trận phục vụ kháng chiến như bài
thơ “Anh bộ đội và tiếng nhạc la” của Hoàng Nhuận Cầm.
Thật độc đáo. Nó có thể xếp ngang hàng với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật.
Anh bộ đội và bầy la ra trận mang tầm vóc dũng sĩ sao không đáng yêu! Họ đã sống và
chiến đấu, phục vụ và hiến dâng một cách cần cù, bền bỉ, hy sinh trong thầm lặng vì một
sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Họ là những anh hùng vô danh, tượng trưng cho nhân dân vĩ
đại động lực to lớn làm nên lịch sử. Đó là nội dung và ý nghĩa sâu sắc mà ta cảm nhận
được khi đọc bài thơ “Anh bộ đội và tiếng nhạc la” của Hoàng Nhuận Cầm.