Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tăng trưởng tỉ lệ sống của lươn đồng (monopterus albus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 46 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

VÕ THUYẾT HUY

ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH VÀ KINH NGHIỆM NUÔI BA BA
TẠI MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

VÕ THUYẾT HUY

ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH VÀ KINH NGHIỆM NUÔI BA BA
TẠI MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
PGS .TS. DƢƠNG NHỰT LONG

2011



Lời cảm tạ
Tôi xin chân thành cám ơn thầy Dương Nhựt Long đã tận tình hướng dẫn và chỉ
bảo trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Bên cạnh đó còn có cô Lam Thị Mỹ
Lan đã tận tình giúp đỡ tôi cho tôi những lời khuyên quý báu trong thời gian thực
hiện đề tài.
Nhân đây tôi cũng xin thành thật cám ơn đến các cô, chú, anh, chị ở sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn và Ủy Ban Nhân Dân Xã, Phường ở các tỉnh, cùng
với các chủ hộ nuôi ba ba đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học hỏi và thu thập
được nhiều kinh nghiệm quý báu đó. Đó cũng là một hành trình vững chắc để áp
dụng vào thực tế. Tôi xin chúc sức khỏe và thành đạt.


Tóm Tắt
Đề tài này được thực hiện tại 5 tỉnh: Đồng tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tiền
Giang, Bạc Liêu từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011, nhằm điều tra tình
hình và kinh nghiệm nuôi ba ba tại một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long góp
phần làm cơ sở khoa học xây dựng quy trình nuôi ba ba để đạt được hiệu quả cao.
Mô hình nuôi ba ba chủ yếu có hai loại mô hình nuôi: Mô hình nuôi trong bể, mô
hình nuôi ba ba ba bằng tôn xi măng. Mùa vụ nuôi và thả giống quanh năm nhưng
phần lớn nuôi nhiều nhất là tháng 3-4 nhằm tận dụng sức tăng trưởng tối đa trong
năm. Kích cỡ thả giống rất đa dạng (3,2-7cm), khối lượng (4-70 g/con). Mật độ
nuôi trung bình cho năng suất và lợi nhuận cao 7-9 con/m2. Nguồn thức ăn 100% là
cá tạp trong suốt quá trình nuôi như (cá, tép, cua, ốc,…) cá tạp được rửa sạch và xử
lý lại bằng nước muối chiếm 60.5%, sử dụng cối xay cá để xay nhuyễn cá tạp, sau
đó trộn thêm một số phụ phẩm như là cám, tấm, rau xanh, vitamin C, hoặc men
tiêu hóa vào trong khẩu phần ăn của ba ba, định kì khoảng 3-4 tháng nuôi xổ giun
sán cho ba ba để ba ba được tăng trưởng tốt. Cách cho ba ba ăn tập trung tại sàn ăn
nhằm để kiểm tra lượng thức ăn dư thừa hạn chế được sự ô nhiểm nguồn nước làm
xuất hiện mầm bệnh. Qua điều tra cho thấy 100% số hộ nuôi ba ba điều bị nhiểm
bệnh, trong đó đa phần là bệnh ghẽ chiếm tỉ lệ 49,3%, bệnh nấm thủy mi chiếm tỉ

lệ 32,8%, bệnh xuất huyết 13,4%, bệnh đường ruột chiếm tỉ lệ thấp nhất 4,5%.
Thời gian nuôi ba ba kéo dài 18-26 tháng để ba ba đạt kích cở thương phẩm cao
mang lại nhiều lợi nhuận cho người nuôi.

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 1.2: Trình độ tuổi và kinh nghiệm của hộ nuôi


Bảng 1.3: Công trình, nguồn nước và diện tích
Bảng 1.4: Kích cỡ ba ba giống, giá thành, tỉ lệ số hộ thả nuôi
Bảng 1.5: Các bệnh thường gặp khi nuôi ba ba
Bảng 1.6: Trọng lượng thương phẩm, giá bán, tỉ lệ kích cở của ba ba
Bảng 1.7: Hạch toán kinh tế

DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1: Hình ba ba
Hình 2.2: Bảng đồ hành chính tỉnh Đồng Tháp


Hình 2.3: Bảng đồ hành chính tỉnh Vĩnh Long
Hình 2.4: Bảng đồ hành chính tỉnh Hậu Giang
Hình 2.5: Nguồn thông tin về kỹ thuật
Hình 2.6: Hình ảnh của ao nuôi ba ba
Hình 2.7: Tỷ lệ mật độ thả nuôi nuôi
Hình 2.8: Nhà đẻ cho ba ba
Hình 2.9: Tiêu thụ trứng ba ba sang Trung Quốc


PHẦN I

GIỚI THIỆU
Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều tìm năng phát triển thủy sản nằm
trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương với bờ biển dài 3260km. Hàng nghìn hòn
đảo lớn nhỏ và đặc quyền kinh tế rộng gần 1 triệu ha. Trong nội địa hệ thống sông
ngòi dầy đặc gần 1.400.000 ha mặt nước với các điều kiện môi trường nuôi thuận
lợi, đặc biệt là nuôi các loài có giá trị kinh tế cao như là ba ba.
Ba ba là loài động vật sống hoang dã từ Nam chí Bắc trong dân gian có người còn
gọi là Cua Đinh sống ở sông ngòi tự nhiên. Trước những năm 1990 thì nghành
nuôi trồng thủy sản chưa quan tâm đến đối tượng này. Từ năm 1991-1992 đã có
200 hộ gia đình nuôi, sau 5 năm khuyến khích đã có 600 hộ nuôi và đã phát triển ra
ba miền: Bắc, Trung, Nam, giá bán trên thị trường tăng cao một số gia đình ở các
tỉnh Hải Hưng, Hà Tây, Hà Bắc đứng ra thu gom ba ba để xuất bán cho thị trường
Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan,… càng về sau lượng ba ba ngày càng khang
hiếm, một số gia đình nhỏ về nuôi lớn để xuất bán, nghề nuôi ba ba bắt đầu hình
thành từ đó. Tổng kết kinh nghiệm nuôi ba ba trong dân gian đã có một số nhà
khoa học đã khuyến khích nhân dân nuôi. Năm 1993 tổ chức khuyến ngư TW(Vụ
Nghề Cá) Bộ thủy sản đã tổng kết chung một số hộ gia đình nuôi khá ở một số
tỉnh, tổ chức hội nghị toàn quốc khuyến khích phát triển nuôi ba ba. Thực hiện chủ
trương đó Nhà nước đã đầu tư cho các tỉnh miền núi, trung du, đồng bằng mỗi tỉnh
chỉ rút ra 1-2 mô hình nuôi để đúc kết kinh nghiệm. Năm 1994 Yên Bái tham quan
Hải Hưng xây dựng mô hình nuôi. Năm 1997 đã có 300 hộ gia đình nuôi, phát triển
ra 34 huyện, hình thành 6 chi hội nuôi ba ba ba. Các tỉnh miền núi khác cũng lần
lượt phát triển như Việt Yên (Hà Bắc) chỉ có 700 hộ nuôi riêng ở tỉnh Lâm Đồng
đã có trên 100 hộ nuôi gia đình nuôi. Các tỉnh Đồng bằng sau những năm khuyến
ngư đã động viên các cơ sở mở rộng nuôi khá nhanh ở Miền Bắc như: Hà Bắc, Hà
Tây, Hải phòng. Miền trung phát triển ở các tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ an, Đà Nẵng,


Quãng Bình, Quãng Ngãi, Ninh Bình, Ninh thuận, Bình Thuận…). Đặc biệt các
tỉnh Miền Nam chưa có kinh nghiệm nuôi ba ba hoa, sau khi tham quan mô hình

nuôi ở các tỉnh Miền Bắc, khuyến ngư phổ biến nhân dân tiếp thu rất nhanh và đầu
tư lớn phát triển nuôi ở các tỉnh như: Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang,
Kiên Giang, Hậu Giang, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Bạc Liêu…,( theo
http:// agriviet.com.vn).
Tóm lại việc nuôi ba ba trên đã cho thấy hiện trạng về nghề nuôi ba ba rất phổ biến
ở khắp các tỉnh. Do đó đề tài “Điều tra tình hình và kinh nghiệm nuôi ba ba tại
một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long” đã được thực hiện.
Mục tiêu của đề tài
Đề tài thực hiện nhằm góp phần làm cơ sở xây dựng quy trình nuôi ba ba thương
phẩm để đạt được hiệu quả cao.
Nội dung thực hiện
- Tìm hiểu về kỹ thuật nuôi ba ba tại một số tỉnh đồng bằng song Cửu Long.
- Khảo sát hiệu quả về lợi nhuận của mô hình nuôi.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi.
- Đề xuất những biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình nuôi ba
ba ở các tỉnh.

PHẦN II
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU


I. KỸ THUẬT NUÔI BA BA

1.1. Đặc điểm sinh học
1.1.1. Phân loại:
Theo hệ thống phân loại của Bourret (1941)
Lớp bò sát: Reptilia
Bộ rùa: Chelonia
Họ ba ba: Trionycidae
Loài: Pelodiscus sinensis


Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài của ba ba
Ở Việt Nam có 3 loài thường gặp.
- Ba ba trơn ( Pelodiscus sinensis Wegmann 1835; theo Bourret 1941 ).
Tên phổ thông là ba ba sông, ba ba Hoa trên mai không có những nốt sần, phía
bụng màu vàng có những chấm màu nâu đen như đốm hoa.
Phân bố: Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Yên Bái, Hòa Bình, Hà
Tây, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Hòa Nam, Nam Định, Hà Tỉnh…Sống phổ


biến ở các thủy vực nước ngọt và đang được nuôi ở các địa phương.
- Ba ba Nam Bộ ( Amyda cartilaginea Boddaert 1770; theo Bourret 1941 ).
Còn gọi là cua đinh sống phổ biến ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đường kính
có thể (50-60 cm ) cân nặng 50-60 kg tính ăn giống ba ba trơn.
- Ba ba gai ( Trionyx steindachneri Siebenrock 1960; theo Bourret 1941 ).
Trên gai có những nốt gai, sần, sờ nháp tay về phía cuối mai nốt sần càng to . Ba
ba gai có ở Miền Núi phía Bắc nhiều người cho biết nuôi ba ba gai cũng lớn nhanh.
1.1.2 Tập tính sống
Ba ba là động vật thay đổi thân nhiệt, nhiệt độ thân của ba ba thay đổi từ từ và
thường theo sau nhiệt độ không khí.
Chúng thường sống ở đáy sông, suối, đầm, hồ, ao. Lặn giỏi, có thể bơi ở đáy nước
hàng giờ nhờ vùng họng có nhiều mạch máu. Chúng bò nhanh và đi xa vượt qua đê
vào đầm hồ, hay từ ao này sang ao khác.
Ba ba phàm ăn nhưng chậm lớn. Chúng thở bằng phổi, sống ở dưới nước là chính,
thích chui rúc vào các hang hốc ở bờ kè đá, thường tập trung ở các đoạn sông tiếp
giáp các cửa kênh, rạch dẫn nước vào đồng ruộng. Ban đêm yên tĩnh, ba ba hay lên
bờ, ban ngày có thể thấy nó nhô đầu lên mặt nước, có khi bò lên bờ. Ba ba có tính
hung dữ như nhiều loài ăn thịt khác, nhưng lại nhút nhát thường chạy chốn khi
nghe có tiếng động hay bóng người và súc vật qua lại. Khi đói chúng ăn thịt lẫn
nhau, có khi một con bị thương chảy máu thì các con khác xúm lại cắn xé một cách

tàn bạo.
1.1.3 Dinh dƣỡng
Ở môi trường tự nhiên ba ba ăn chủ yếu động vật như: động vật phù du, côn trùng,
tôm tép, cua, cá. Khi nuôi ba ba thích ăn các con vật bắt đầu ươn thối, lúc ăn chúng
thường

tranh

cướp

mồi,

ăn

cả

cám,

bắp,

khoai

lang...

Chúng ăn khỏe vào mùa hè, lượng thức ăn bằng 5-10% trọng lượng thân. Mùa
đông tháng 12 - 3 lạnh rét lượng thức ăn chỉ bằng 3-5% trọng lượng thân. Ba ba có
khả năng chịu đói, không có hành vi tấn công kẻ thù, lúc gặp địch hại chỉ trốn vào


trong hang hay lặn xuống nước, chui vào bụi rậm co rút đầu lại.

1.1.4 Sinh trƣởng
Ba ba là động vật lớn chậm, sức lớn liên quan chặt đến điều kiện môi trường như:
thời tiết, nhiệt độ, chất lượng thức ăn...
Nuôi 1 năm thường lớn( 800-1200 g) trong điều kiện nuôi tốt.
Từ tháng ( 4 - 11) là thời kỳ lớn nhanh.
Trong điều kiện nuôi cho ăn bằng cá mè băm nhỏ, ở nhiệt độ (25 - 280 C), cỡ nuôi
100 g/con có thể tăng trọng 80-100 g/con/tháng.
Khi nhiệt độ xuống thấp dưới 100C sức ăn giảm sinh trưởng chậm. Trong cùng
điều kiện nuôi dưỡng con cái lớn nhanh hơn con đực.
1.1.5 Sinh sản
Cách phân biệt ba ba đực cái: ba ba đực cần cổ và đuôi nhỏ dài , cần cổ con đực
khi vươn hết mức có thể bằng chiều dài thân nó, mai con đực hơi thon chứ không
bầu như con cái. Ba ba cái cổ to ngắn đuôi cũng vậy, thân hình bầu hơn con đực
ngắn đòn hơn, nếu để hai con ba ba đực cái gần nhau sẽ thấy sự khác biệt giữa
đuôi của chúng.
Ba ba đẻ trứng trên cạn, thụ tinh trong. Cỏ thể kéo dài thời gian thụ tinh tới 6
tháng, nên khi cho đẻ tỉ lệ con đực thường ít hơn con cái.
Mùa sinh sản chính: cuối mùa xuân đầu mùa thu.
Đẻ rộ vào những ngày mưa to,sấm chớp nhiều. Muốn tìm trứng chỉ cần đi ven các
bãi sông, ven đầm hồ, ao thấy rõ đất mới và các vết móng đào đất lấp ổ trứng mới
đẻ của ba ba cái, lấy que nứa nhẹ nhàng lật những lớp đất mỏng phủ phía trên ,
thấy lỗ nhỏ, đường kính miệng 4-5 cm, sâu 10 – 15 cm. Trứng xếp lần lượt từ đáy
lên miệng, lúc mới đẻ thường dính vào nhau, vỏ hơi mềm.
Đẻ xong ba ba bò xuống ở nơi gần nhất nghỉ và canh giữ, nhân dân ta

thường

nói là ba ba "ấp bóng".
Cỡ 2 kg mỗi lứa đẻ 10 - 15 trứng.
Ba ba mẹ đẻ sau 5-7 ngày lại tiếp tục giao phối.

Cỡ (4 – 5 kg) có thể đẻ 4-5 lứa trong 1 năm. ( Đã mổ ba ba nặng cỡ 350 g có 400


trứng non ).
Thời gian ba ba đẻ ở miền Bắc từ tháng 4-9, đẻ rộ tháng 5,6,7 đôi khi hết tháng 10
dương lịch.
Đường kính trứng cỡ lớn 17 - 20mm, nặng( 6-6,5 g/quả ).
Nhiệt độ đẻ thích hợp là: (25 – 320C).
II. KỸ THUẬT SẢN XUẤT BA BA GIỐNG
2.1 NUÔI BA BA BỐ MẸ
2.1.1 Mùa vụ sản xuất
Mùa vụ sản xuất giống ba ba ở các tỉnh phía Bắc ( từ Thừa Thiên Huế trở ra nằm
các tháng từ tháng 3 đến tháng 11. Các tỉnh phía Nam từ Đà Nẳng trở vào có thể
sản xuất giống ba ba quanh năm.
2.1.2 Điều kiện ao nuôi
- Vị trí địa điểm
Chọn vị trí địa điểm nơi yên tỉnh dễ bảo vệ không bị cớm rợp và úng ngập.
Có điều kiện cấp nước và tiêu nước thuận lợi, không bị nhiểm bẩn và lây lan bệnh
cho môi trường xung quanh.
- Hình dạng ao
Hình dạng ao tùy thuộc vào địa hình nơi xây dựng tốt nhất có hình chữ nhật, để
thuận tiện cho việc quản lí và thu hoạch.
- Diện tích ao
Diện tích ao phù hợp nhất từ 100-200m2. Diện tich nuôi lớn nhất không nên quá
400m2 . Nếu là bể xây diện tích từ 20-50m2 .
- Độ sâu ao
Ao hoặc bể nuôi thường có độ sâu 1,2-1,5 m để bảo đảm giữ được mực nước
thường xuyên 1.0-1.5 m. Nơi đất trũng khó tiêu được nước, đáy ao nên có độ sâu
vừa phải để có thể cải tạo khi cần hoặc thu hoạch.
- Chất đất và nền đáy ao

Ao được xây dựng trên nền đất thịt, hoặc thịt pha cát, hoặc thịt pha sét để đảm bảo
có khã năng giữ đươc nước đất không bị chua. Nền đáy ao phải có độ nghiêng về


phía cống để có thể tháo cạn được nước dễ dàng. Ao nuôi tốt nhất là đảm bảo
khoảng 20-30% trên bề mặt ao phủ một lớp bùn pha cát hoặc cát mịn từ 15- 20 cm
để tạo chổ cho ba ba chú ẩn, nghỉ ngơi.
- Nguồn nƣớc
Nguồn nước để nuôi vỗ ba ba bố mẹ là nguồn nước ngọt như : Sông, suối, hồ,
kênh, gạch, giếng khoang…Vùng gần biện độ mặn của nguồn nước nuôi không
được quá 10/00. Chất lượng nước thường xuyên phải sạch sẽ có thể dung cho sinh
hoạt hằng ngày. Độ pH khoãng 7-8.
- Bờ ao
Bờ ao phải được xây bằng gạch đảm bảo chắc chắn, không bị lún và nứt để đảm
bảo ba ba trong ao. Nếu không có điều kiện xay có thể đắp bờ đất nhưng phải chắc
chắn không bị hang hóc và rò rỉ. Bờ ao xây hoặc đấp đất phải cao hơn mực nước
0.4 - 0.5m. Trên đỉnh bờ cần xây gò rộng 5-10 cm, nghiêng về phía lòng ao để
không cho ba ba bò ra khỏi ao. Bờ ao phải có nền đất lưu không, được trồng cỏ
hoặc rải sỏi để ba ba không đào được ổ đẻ.
- Tạo chổ cho ba ba nghỉ ngơi và phơi nắng
Chọn ao yên tỉnh làm một trong các công trình phụ sau đây: tạo chổ cho ba ba họat
động lên xuống thuận lợi, xây từ 1 đến 2 bậc thềm ở dìa ao, đắp đáy ao cao, không
để ngập nước hoặc đấp ụ nổi trong ao, thả bè tre, bè gỗ thả bèo tây hoặc rau mát
trong khung cố định ở một góc ao để làm thức ăn xanh cho ba ba và lọc sạch nước.
- Tạo nơi cố định cho ba ba ăn
Chọn một góc ao sạch gần cống tiêu nước, đáy được lót nhẩn hoặc đổ cát sạch làm
chổ cố định cho ba ba ăn. Ao nhỏ có thể cho ba ba ăn tại một vị trí cố định, ao lớn
có thể cho ăn 2-3 vị trí cố định. Những nơi có điều kiện nên xây máng ăn cho ba
ba, máng ăn cần để ngập dưới nước khoảng 60cm. Đặt phên ở dìa mép nước để ba
ba leo lên ăn chỉ được áp dụng khi ba ba đã được tập luyện thuần thục.

- Cống và công trình bảo vệ


Mỗi ao tốt nhất có 2 cống cấp và tiêu nước riêng, cống tiêu nước nên đặt ở vị trí
thấp nhất của đáy ao để dễ tháo cạn khi thay nước và thu hoạch , cửa cống cấp và
tiêu nước phải có lưới chắn bằng sắt để giữ ba ba trong ao.
- Tạo chổ cố định cho ba ba đẻ trứng
Làm nhà đẻ và bãi đẻ cho ba ba, diện tích bãi đẻ cho ba ba từ 1-6 m2 tùy thuộc vào
số lương ba ba mẹ nhiều hay ít. Cứ 1m2 có thể cho 15- 20 ba ba cái đẻ một lúc, nên
chia bãi đẻ thành nhiều ngăn có cửa ngăn cách từng ngăn để cho ba ba lần lượt vào
đẻ để tiện cho việc gom trứng và theo dõi. Xung quanh bãi đẻ phải xây cao 40-50
cm hoặc chắn kín chỉ chừa lối cho ba ba lên bãi đẻ, cần tạo bóng cây yên tỉnh mát
mẻ và kín đáo để cho ba lên đẻ, bãi đẻ phải có máy che mưa, nắng. Đỗ cát mịn
dầy 20 - 30 cm trên nền bãi đẻ, mặt lớp cát cao hơn mặt ao khoãng 40-50 cm đảm
bão trứng không bị ngập nước khi có mưa to đột xuất.
2.1.3 Kỹ thuật nuôi vỗ
- Thời gian nuôi vỗ
Với ba ba cho đẻ lần đầu cần nuôi vỗ từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 hoặc tháng
4 năm sau. Nuôi cho đẻ lần thứ hai trở đi có thể nuôi vỗ ba ba bố mẹ quanh năm.
- Tiêu chuẩn để chọn ba ba bố mẹ để nuôi vỗ
Khối lượng cơ thể từ 0,8-1,5 kg con lớn nhất không nên quá 3 kg. Tuổi cá thể từ
18 tháng đến 5 năm. Ba ba phải khỏe mạnh không có thương tật, dị hình hoặc bị
bệnh.
- Tỷ lệ đực / cái nuôi vỗ và cho đẻ
Từ 1/2 hoặc 1/4 ( 1 con đực có thể nuôi ghép với 2- 4 con cái ) nhưng thường là
1/3. Không nên nuôi nhiều ba ba đực vì tốn kém nhiều, mặt khác ba ba đực thường
hung ác, tranh giành con cái quyết liệt dẫn dến chúng cắn xé lẫn nhau gây thương
tích dễ mắt bệnh mà còn làm hỏng quá trình giao phối.
- Mật độ nuôi vỗ
Mật độ nuôi vỗ khoãng 0.5-1 kg/m2 cao nhất không được quá 2kg. Cần chú ý

trong một ao chỉ được nuôi ba ba cùng một cỡ để tránh tình trạng con cái cắn con
bé.


2.1.4 Thu trứng và ấp trứng ba ba
- Cách thu và lựa chọn trứng ấp
Trong mùa sinh sản hằng ngày cần kiểm tra khu vực ba ba đẻ tìm dấu vết ổ đẻ để
thu trứng. Ba ba thường đẻ vào ban đêm việc thu trứng nên tiến hành vào buổi
sáng hôm sau hoặc muộn hơn nữa ( 7-10 ngày ) vì nếu ta chạm vào lớp màng nhầy
của vỏ trứng ba ba mới đẻ đem ấp ngay trứng sẽ không nở ( vì đã làm mất “lớp
phấn” của trứng ). Khi bới ổ trứng cần phải nhẹ nhàng tránh làm giập vỡ trứng.
Nhặt từng quả xếp vào chậu rồi chuyển đến đến nơi ấp.
- Chọn trứng đã thụ tinh và trứng tốt để ấp
Trứng đã thụ tinh có màu trắng và có vòng trắng ( túi hơi ) ở trên, màu phớt hồng
ở dưới. Trứng không thụ tinh vòng trắng không rõ, vỏ trứng màu không bình
thường, trứng tốt là trứng to, trứng xấu thường trứng nhỏ và méo mó. Ba ba mẹ
thường ( 1-1,5kg/con ) thường đẻ trứng có đường kính 21-23 mm ( hoặc lớn hơn )
khối lượng 5-7 g/quả. Cỡ ( 0,5-0,7 kg/con ) đẻ trứng có đường kính 17-19mm khối
lượng 3-4 g/quả nếu đem ấp trứng này tỉ lệ nở sẽ thấp, ba ba con nở ra bé và chậm
lớn.
- Phƣơng pháp ấp trứng ba ba
Ấp bằng khay nhôm hoặc khay nhựa: kích thước khay lớn hay nhỏ tùy thuộc vào
lượng trứng nhiều hay ít. Số lượng trứng ấp một khay từ vài chục đến 200 trứng.
Ấp bằng chậu nhôm: thường dùng hai loại là chậu lớn có đường kính 70- 80 cm,
chậu nhỏ có đường kính 30- 40cm. Đáy chậu được đục nhiều lỗ thủng để có thể rỉ
nước được. Một chậu nhôm lớn có thể ấp 250- 300 trứng ba ba.
Ấp trong bể: diện tích bể 0.5-1m2 cao 15-20cm, trong bể chứa lớp cát ẩm dầy 1015cm để vùi trứng ấp. Đáy bể phải có chổ vùi thoát nước, mỗi bể có thể ấp hàng
nghìn trứng ba ba.
Dùng cát để ấp trứng ba ba là phổ biến nhất, khi ấp đỗ lớp cát mịn ẩm và tơi xớp,
xếp trứng vào mặt phẳng lớp cát, mỗi quả cách nhau 2cm. Cứ mỗi lớp trứng phủ

một lớp cát dẩy- 5cm có thể xếp 2- 3 lớp trứng. Chú ý khi xếp trứng phải xếp đầu
có túi hơi hướng lên trên không được ấp hoặc đảo trứng trong quá trình ấp. Trứng


đẻ cùng ngày hoặc cách nhau vài ngày, có thể ấp một lần trong cùng một dụng cụ
ấp.

Mức và yêu cầu

Kha
y, chậu, bể hoặc ấp trứng phải có mái che, nhiệt độ và độ ẩm ấp phải luôn ổn định.
Trong thời gian ấp nếu thấy cát khô phải phun nước để giữ độ ẩm, nhiệt độ ấp
trứng ( 30-320C ) sau ( 40-45 ngày ) sẽ nở, nhiệt độ ( 25- 340C) sau ( 55-60 ngày )
trứng nở. Theo dõi nếu thấy trứng sắp nở phải để một khay nước vào giữa dụng cụ
ấp để ba ba con mới nở có thể tự bò vào. Gần đến ngày trứng nở có thể nhặt hết
trứng cho vào khay nước hoặc chậu nước, sau đó cho nước chảy từ từ sẽ kích thích
cho ba ba nở nhanh và đồng loạt. Nếu trứng tốt ấp trứng đúng kỹ thuật tỉ lệ trứng
nở có thể đạt 95- 100% . Trong quá trình ấp phải có biện pháp ngăn chặn một số
động vật hại như : Rắn, mèo, chuột kiến… có thể ăn trứng và ba ba con.
2.1.5 Kỹ thuật ƣơng nuôi ba ba giống
- Các giai đoạn ƣơng nuôi ba ba giống
Để phù hợp với đặc tính của ba ba giống theo các tháng tuổi, quá trình ương nuôi
để có được ba ba giống được chia 3 giai đoạn. Các tỉnh phía Nam có thể ương
nuôi quanh năm, các tỉnh phía Bắc mùa đông lạnh ba ba không ăn sản xuất giống
không có kêt quả hoặc kết quả rất thấp.

Bảng 1.1: Các giai đoạn ương ba ba giống


Yếu tố kỹ thuật


Giai đoạn 1

Giai đoạn 2

Giai đoạn 3

Cỡ giống ương

Cỡ 4-7g khi mới nở

Cỡ 15-25g ương

Cỡ 50-80g ương

(g/con)

Ương thành cỡ 15-

thành cở 50-80g

thành cỡ 100-

25g
2.1.
6
Kỹ

Thời gian ương


150g

25-30

50-60

60-90

Diện tích (m2)

5- 10

10-30

30-100

Độ sâu ao, bể

0.2- 0.4

0.4-0.8

7-15

Tạo chỗ nghỉ cho

Thả bèo phủ 2/3

Rãi lớp cát mịn


Rãi lớp cát mịn

ba ba

diện tích mặt nước

dày 5-7 cm ở

dày 8-10 cm ở

đáy

đáy

30-50

15-30

1-2

Trùn chỉ, giun đất,

Giun đất, nhộng

Thức ăn như

cá tạp hấp chín…

tằm, cá, tép,


giai đoạn 2,

ốc…

nhưng cở thức

(ngày)

thu
ật
nuô
i ba
ba

(m)

thƣ
ơng
phẩ

Mật độ ương
(con/m2 )

m
-

Thức ăn

Điề
u

kiệ
n

ăn lớn hơn
Số lần cho ăn

2-3

1-2

12-15

8-12

6-8

90-100

90-100

90-100

trong một ngày

ao,

Khẩu phần ăn( %

bể


trọng lượng thân

nuô

3-5

Tỉ lệ sống (%)

i
Chọn nơi yên tỉnh, gần nhà dễ bảo vệ xung quanh khu vực nuôi phải có rào chắn
để giữ được ba ba thất thoát. Ao nuôi hình chữ nhật kết cấu gồm bờ ao, lòng ao,
cống cấp và cống thoát nước. Các công trình phụ như khu vực tắm nắng, sàn ăn,
hầm trú đông, bãi đẻ trứng cho ba ba. Diện tích ao nuôi ba ba thương phẩm từ


100-500m2 là thích hợp và có độ sâu tối thiểu 1.5m , lớp cát dầy 15- 20cm có tác
dụng làm mồi không lắng xuống đáy bùn và nước không bị ngầu đục. Đáy ao có
độ dốc nghiêng dần về phía đáy để tiện cho việc tháu nước. Góc ao có lối cho ba
ba bò lên để phê nắng, nếu ao ở xa nguồn nước phải có máy bơm để chủ động thay
nước khi cần thiết. Nếu có điều kiện thì xung quanh bờ trồng cây kín mát và xây
bậc cho ba ba lên nghỉ ngơi, nếu đất hẹp thả bè tre hoặc rổ có bậc thang và phao
nổi để ba ba lên phơi nắng.
- Chuẩn bị ao bể nuôi
Ao phải được dọn tẩy sạch sẽ, diệt hết mầm bệnh, đối với ao nuôi từ năm thứ hai
trở lên lớp cát ở đáy ao rất bẩn thường có màu đen và mùi tanh, cần phải được
thay bằng lớp cát mới để đảm bảo đạt tỉ lệ sống và năng suất cao. Đối với bể mới
xây trước khi thả giống cần được tháu rửa nhiều lần để đảm bảo khi cho nước và,
pH ổn định từ 7-8.
- Thả giống
Mùa vụ thả ba ba giống thường bắt đầu từ tháng 2-3 hằng năm. Tiêu chuẩn chọn

giống kích cở đồng đều, mập, da bóng không bị xây sát dị hình, hoạt động nhanh
nhẹn, không bị trùng huyết thống, kích cở thả 100-150g/con, mật độ thả từ 4-10
con/m2.
- Chăm sóc và quản lí
Phải đảm bảo nước ao luôn sạch, nếu nuôi mật độ dầy phải luôn thay nước, không
để bị mất trộm, ba ba thường bò đi vào những ngày thả giống. Thức ăn chủ yếu là
ăn động vật ( sống hoặc đã chết nhưng thích hợp là thức ăn tươi sống như cá tạp
vụn, ốc bươu vàng, cua, ếch, nháy, các phế thải lò mổ hoặc đầu tôm sú của nhà
máy chế biến thủy sản… ) tốt nhất nên tận dụng thức ăn có sẳng ở địa phương để
hạ được giá thành sản xuất. Lượng thức ăn và cách cho ăn nên cho ba ba ăn ở mức
3-5% trọng lương thân mỗi ngày. Ba ba thường ăn mạnh khi thời tiết mát mẻ,
những ngày nóng bức lượng thức ăn có thể giảm xuống 2- 3% trọng lượng thân,
khi mùa đông kéo dài ba ba sẽ bỏ ăn và tìm nơi trú đông. Trước khi cho ba ba ăn
thức ăn phải được rửa sạch, nếu thức ăn ương thói phải được nấu chín, xay nhuyễn


….Mỗi ngày cho ba ba ăn 2 lần ở những vị trí cố định trong ao, bể, hằng ngày theo
dõi sức ăn của ba ba để điều chỉnh lượng thức ăn. Chi phí thức ăn nuôi ba ba là
khá lớn vì vậy người nuôi cần tìm các biện pháp thích hợp để vừa đảm bảo số
lượng và chất lượng thức ăn để giảm được chi phí ở mức thấp nhất. Từ tháng 4-11
là thời gian ba ba sinh trưởng mạnh nhất trong năm vì thế cần cho ba ăn đầy đủ để
chúng lớn nhanh. Qua thực nghiệm nghiên cứu và thực tiển sản xuất cho thấy để
tăng trọng được 1kg thịt ba ba cần phải cho ăn 10-16 kg cá, tép hoặc 25-27 kg ốc.
2.1.6 Cách phòng và trị bệnh cho ba ba
Bệnh do ký sinh trùng
-Bệnh nấm thuỷ mi: Thường xảy ra ở khi nhiệt độ xuống thấp. Ban đầu, trên vùng
da bị thương có mảng xám trắng, sau vài ngày sợi nấm phát triển thành búi trắng
như bông, thường xuất hiện ở cổ, nách. Khi bệnh bơi lội chậm chạp, ăn ít. Khả
năng của bệnh lây lan rất nhanh.
-Bệnh kí sinh đơn bào: Các chân và viền mép mai có đốm, lúc đầu xuất hiện ở

viền mai, sau lan rộng thành đốm trắng làm da bị thối rữa. Bệnh thường xảy từ ( 57 tháng tuổi ) và thường gặp ở giai đoạn ba ba giống (2-3 tháng tuổi). Khi mắc
bệnh ba ba ăn ít, suy yếu dần rồi chết.
Nguyên nhân: do kí sinh trùng đơn bào kí sinh trên da, trên cổ và kẽ chân ba ba.
Khi bệnh phát triển nhiều, mắt thường có thể nhìn thấy được như sợi bông, nhưng
dễ nhầm với nấm thuỷ mi nếu không kiểm tra qua kính hiển vi.
-Phòng bệnh: Cải tạo chuẩn bị ao và bể nuôi kỹ sau một vụ nuôi. Thay toàn bộ
bùn cát mới ( 20 -30cm ), hoặc rải vôi bột ( 10 – 15 kg )/100m2. Chọn giống khỏe
mạnh, đồng cở, không xây sát, tránh mua phải loại ba ba đang có bệnh, trước khi
thả nuôi tắm ba ba bằng một trong các loại sau: nước muối nồng độ 3-4% hoặc
thuốc tím ( 1 – 3 mg/lít ), Sun-phát đồng ( 0,3 – 0,5 mg/lít ), Formalin ( 1 – 3 mg/lít
), Vimekon 4 ml/lít trong 5 – 10 phút. Thức ăn nên nấu chín, không nên cho ăn tập
trung một chổ, tránh ba ba tranh ăn và cắn mổ nhau. Nên chia bữa ăn làm nhiều
bữa trong ngày. Nên tập trung cho ba ba ăn tại sàn ăn để kiểm tra sức ăn của ba ba
để có thể điều chỉnh hợp lý, tránh gây dư thừa ô nhiễm nước. Hàng ngày vệ sinh


sạch sẽ và khử trùng dụng cụ cho ăn, tránh gây thương tích cho chúng. Định kỳ bổ
sung vitamin C và men tiêu hóa (2 – 3% lượng thức ăn) để tăng cường sức khỏe
cho ba ba. Quản lý ba các yếu tố môi trường thích hợp thuận lợi cho sự phát triển
của ba ba, mức nước sâu từ ( 0,8 – 1,2 m ), giữ màu nước xanh lá chuối non, độ
trong từ ( 25 – 30cm ), pH từ 7 – 8, oxy hoà tan từ 4mg/l trở lên. Định kỳ 15 ngày
rải vôi nông nghiệp CaCO3 với lượng (2 – 3kg )/100m2 hòa tan tạt đều ao để phòng
bệnh và ổn định môi trường. Cheo túi vôi ( 2 – 4 kg )/ 10 m3 ở khu vực cho ba ba
ăn.
Trị bệnh chung cho 2 loại bệnh này là: Khi thấy ba ba bị bệnh hoặc nghi bị bệnh
cần bắt nhốt riêng theo dõi, chửa trị, đồng thời có biện pháp tăng cường xử lý vệ
sinh môi trường ao để ngăn những con khoẻ không bị lây bệnh. Bắt ba ba bệnh thả
vào chậu, tắm bằng nước muối 2 -3% hoặc dung dịch thuốc tím nồng độ 20 mg/l
thời gian ( 15 – 30 phút ). Có thể dùng đồng sun phát CuSO4 ( 2-5 mg/l ) tắm cho
ba ba trong 5 -15 phút, hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng ( 0,5-0,7 mg/l ).

Với nấm ký sinh ngoài da: Thay nước và cách ly con bệnh ra khỏi đàn, thả những
con bệnh vào những bể cạn có bèo và cát ẩm để chúng khỏi cắn nhau. Nhúng toàn
bộ những con bị bệnh vào dung dịch Choxit ( 0,3-0,5% ) trong 10-15 phút hoặc
bôi Methylen 1% vào vết thương. Dùng panh kẹp bông gòn vệ sinh các nhân bã
đậu trên vai, bụng và chân, nhét thuốc kháng sinh Tetracylin vào, phía ngoài bôi
thêm phomat Tetracylin để giữ phần bột phía trong, để ba ba vào túi vải ẩm. Sau 12 ngày kiểm tra, bôi thuốc lại rồi thả vào ao khác dần dần chúng sẽ hồi phục và
khỏi.
-Bệnh viêm loét do nhiễm khuẩn (bệnh bã đậu, bệnh sƣng cổ):
Ba ba bệnh có những vết loét không có hình dạng và kích cở nhất định, thường
thấy ở cổ đầu, lưng, bụng, chân của ba ba. Miệng vết loét bị xuất huyết. Các vết
loét sâu bị đóng kén bên trong, khêu miệng vết loét bóp ra những cục trắng như bã
đậu, cở nhỏ như hạt tấm, cở to có thể bằng hạt đậu, hạt ngô. Ba ba bị bệnh này có
màu da không bình thường, tựa khô da, mắt xuất huyết màu đỏ, móng chân hay bị
cụt, hay nổi lên mặt ao hoặc bò lên bờ, phản ứng chậm chạp yếu ớt.


Cổ sưng to, bụng có các đốt mụn đỏ, mắt đục, có thể chảy máu mũi, mắt sưng đỏ
và bị mù khi bị bệnh nặng. Sau khi bị bệnh 1-2 tuần có thể chết. Tỉ lệ gây chết có
thể lên đến 40% số ba ba nuôi.
Nguyên nhân: Ao nuôi bị bẩn thường sinh ra bệnh này. Do ba ba cắn nhau hoặc bò
leo, vận chuyển, đánh bắt bị xây sát da, tạo điều kiện cho vi khuẩn Aeromonas
hydrophyla và Pseudomonas sp gây viêm loét.
Phòng trị: Áp dụng biện pháp phòng bệnh chung. Dùng Formalin tắm cho ba ba
nồng độ ( 150 -200 mg/l ) thời gian 30 – 60 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao, bể
nuôi ba ba nồng độ ( 15 – 20 mg/l ). Dùng Streptomicin hoặc Penicilin trộn vào
thức ăn với lượng ( 0,2g/10kg ) thức ăn, cho ăn trong 3 ngày liên tiếp. Tắm cho ba
ba bệnh bằng Tetracycline với liều lượng ( 20-50 ppm ) từ 6 – 12 giờ một ngày,
tiến hành liên tục 3 – 5 ngày. Những ba ba bệnh cần được cách ly và điều trị riêng,
dùng đầu kim, đầu panh cậy vẩy ba ba các vết loét, bóp sạch kén trắng ra, dùng
bông cồn lau sạch miệng vết loét, sau đó rắc thuốc kháng sinh vào lỗ thủng, rồi

dùng thuốc mỡ kháng sinh bôi bên ngoài để giữ thuốc bột lại. Bôi thuốc xong để ba
ba vào chỗ yên tĩnh, tách riêng từng con không cho cắn nhau, tốt nhất là để vào cát
ẩm. Ngoài ra , khi thấy ba ba có nhiều vết sưng đỏ có thể tiêm thuốc Streptomycin
với liều 50-100mg cho 1 kg ba ba. Cần tiêm liền 2-3 lần trong 1 tuần. Sau khi thấy
miệng vết thương đã khô và co lại thì có thể bắt ba ba thả lại ao nuôi.

PHẦN III
NỘI DUNG PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Địa điểm và thời gian thực hiện
- Địa điểm thu thập thông tin, thông tin được thu thập tại 5 tỉnh gồm có: Đồng
Tháp ( 1 huyện: Cao Lãnh ), Vĩnh Long ( 3 huyện: Trường An, Long Hồ, Tân Bình
), Hậu Giang ( 2 huyện: Châu Thành A, Phụng Hiệp), Tiền Giang ( 1 huyện: Cái
Bè ), Bạc Liêu ( 1 huyện: Hồng Dân ).
- Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 10 năm 2010 và kết thúc vào tháng 5 năm


2011.
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Số liệu được thu thập từ trạm khuyến nông của các huyện về số liệu từ những
năm trước và tổng kết được những vụ thành công trước. Và số liệu này cũng được
thu thập từ phòng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, Chi cục bảo vệ nguồn
lợi thủy sản.
- Được thu thập về hiện trạng điều kiện tự nhiên của vùng sản xuất.
- Thu thập thông tin về thống kê diện tích nuôi của từng hộ trong khu vực trên địa
bàn Đồng Tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu. Đánh giá tỉ lệ về
diện tích và sản lượng của người nuôi.
Phƣơng pháp thu thập số liệu sơ cấp
Mẫu phỏng vấn đã được chuẩn bị trước khi tiến hành điều tra trực tiếp từng hộ
nuôi ( xem mẫu phỏng vấn ở phần phụ lục). Số liệu thu thập được tại 5 tỉnh gồm

có: tỉnh Đồng Tháp (7 trại nuôi), tỉnh Vĩnh Long (5 trại nuôi), Hậu Giang (24 trại
nuôi), tỉnh Tiền Giang (1 trại nuôi), tỉnh Bạc Liêu (1 trại nuôi). Tổng số mẩu thu
được là 38 hộ.
Số liệu sơ cấp được thu theo các thông tin sau
Kỹ thuật nuôi:
+ Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi
+ Xây dựng công trình và cải tạo ao
+ Mùa vụ, nguồn giống, mật độ nuôi
Chăm sóc và quản lý:
+ Thức ăn và cách cho ăn
+ Quản lý dịch bệnh
+ Thu hoạch và tiêu thụ
Hiệu quả kinh tế:
+ Tổng thu
+ Tổng chi


+ Lợi nhuận
Thuận lợi và khó khăn
3.3 Phƣơng pháp xử lý số liệu thu thập thông tin.
Số liệu nghiên cứu được tính toán các giá trị trung bình, tối thiểu sử dụng phần
mềm Microsoft Excel để xử lý số liệu.
Dùng phầm mềm Microsoft Word để viết báo cáo.
3.4Tổng quan về tỉnh Đồng Tháp
3.4.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Đồng Tháp là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trù phú, cách
thành phố Hồ Chí Minh 165 km về phía Tây Nam. Diện tích tự nhiên 3.374 km2,
bao gồm 9 huyện: Tân Hồng, Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao
Lãnh, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành; 2 thị xã: Sa Đéc, Hồng Ngự và 1 thành phố:
Cao Lãnh (Tỉnh lỵ). Đồng Tháp có đường biên giới giáp nước bạn Campuchia dài

hơn 48 km, với 7 cửa khẩu, trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế Thường Phước và Dinh
Bà; Bắc và Tây Bắc giáp Campuchia, Nam và Đông Nam giáp Vĩnh Long, Đông
giáp Tiền Giang và Long An, Tây giáp An Giang và Cần Thơ.Đồng Tháp có trên
1,6 triệu dân, mật độ dân số trung bình: 506 người/km2. Tôn giáo gồm: Phật giáo,
Công giáo, Hòa hảo, Tin lành, Cao đài. Ngoài ra, Đồng Tháp còn có khí hậu nhiệt
đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 27,190C, độ ẩm: 83% với hai nhánh sông Cửu
Long hiền hòa chảy qua, hàng năm bồi đắp phù sa cho vùng đất Đồng Tháp bốn
mùa cây xanh, trái ngọt và tạo nên hệ thống giao thông thủy thuận lợi. Hai bến
cảng nằm bên bờ sông Tiền giúp vận chuyển hàng hóa thuận lợi với biển Đông và
nước bạn Campuchia.
4.1.2 Tình hình chung về hoạt động thủy sản
Năm 2010, dù tình hình kinh tế có nhiều tác động tiêu cực đến ngành thủy sản,
nhất là sản xuất và xuất khẩu cá tra, nhưng sản lượng thủy sản của Đồng Tháp vẫn
ước đạt hơn 357 ngàn tấn, đạt 99% kế hoạch; kim ngạch xuất khẩu cá tra đạt 319
triệu USD, tăng 42,7% so với cùng kỳ. Hiện toàn tỉnh có 4 huyện hội, 1 hiệp hội
sản xuất ca tra giống, 20 chi hội với 438 hội viên. Hiệp hội có sự chủ động hơn


trong việc phối hợp các nghành liên quan tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ tập huấn,
đào tạo, hướng dẫn cho hội viên, nông dân nuôi cá tra theo các tiêu chuẩn BMP,
GAP, Global Gap…Đồng thời có những hoạt động tương trợ, gắn kết giữa hội viên
với nhau trong sản xuất, tiêu thụ và tham gia tốt các hoạt động xã hội ( Theo báo
Đồng Tháp 26/2/2010).

Vùng được
khảo sát
huyện Cao
Lãnh

Hình 2.2: Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Tháp


3.5 Tổng quan về tỉnh Vĩnh Long
3.5.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Tỉnh Vĩnh Long nằm ở toạ độ địa lý 10,150 vĩ độ Bắc, 105,580 kinh độ Ðông, cách
thủ đô Hà Nội khoảng 1.847 km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.475,19 km2,
chiếm 0,45% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Các đường giao thông quan trọng
như đường quốc lộ 1A (44 km), quốc lộ 53 (40 km), quốc lộ 54 (55 km) và quốc


lộ 57 (8 km). Hệ thống sông ngòi chính của tỉnh gồm sông Tiền Giang và sông
Hậu Giang, ở giữa là con sông Mang Thít nối liền tạo thành các lợi thế cho phát
triển về kinh tế nông nghiệp. Về diện tích 100% diện tích tự nhiên của tỉnh là vùng
đồng bằng, với độ cao nhất cao 1,25 m, điểm thấp nhất cao 0,5 với độ cao trung
bình là 0,75 m so với mặt nước biển. Toàn tỉnh được phân thành 3 dạng địa hình
chính: Vùng có cao trình từ ( 1-1,25 m ), phân bố ở các xã ven tuyến sông Tiền và
sông Hậu; vùng có cao trình từ ( 0,75 - < 1 m ), phân bổ ở các xã có cự ly tối đa 10
km ven tuyến sông Tiền và sông Hậu; vùng có độ cao trình từ ( 0,5 - < 0,75 m )
phân bổ ở các xã vùng giữa tỉnh. Về dân số, dân tộc: Theo kết quả điều tra tỉnh
Vĩnh Long có 1.014.191 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động xã hội
toàn tỉnh là 789.042 người, chiếm 78,08% dân số chung, trong đó người dân tộc
thiểu số chiếm 2,62%. Trên địa bàn tỉnh có 11 dân tộc, đông nhất là dân tộc Chăm
có 22.350 người, chiếm 2,18%; dân tộc Hoa có 6.404 người, chiếm 0,58%; các
dân tộc thiểu số khác như: Dân tộc Mường có 25 người, dân tộc Thái có 22 người;
dân tộc Mông có 01 người; dân tộc Thổ có 6 người; dân tộc Tày có 43 người; dân
tộc Nùng có 12 người; dân tộc Dao có 12 người; dân tộc Ê-đê có 1 người; các dân
tộc khác khoảng 215 người, chiếm 0,02%.
4.2.2 Tình hình chung về hoạt động thủy sản
Theo số liệu của cục thống kê, tuy thức ăn thủy sản và các chi phí nuôi cá có xu
hướng tiếp tục tăng, nhưng phong trào nuôi trồng thủy sản trên địa bàn của tỉnh
vẫn được duy trì và phát triển.Sản lượng thủy sản nuôi trong tháng ước tính đạt

10.126 tấn. Lũy kế từ đầu năm đạt 55.788 tấn, giảm 6,2% so với cùng kỳ năm
trước; trong đó sản lượng cá tra thâm canh đạt 47.164 tấn, giảm 11%. Sản lượng cá
tra giảm do kỳ thu hoạch rộ cá tra trong năm nay của tỉnh rơi vào thời gian từ tháng
6 trở đi.Hiện giá cá tra nguyên liệu đang ở mức 27.500 - 28.500 đồng/kg, tuy có
giảm so với đầu tháng nhưng khá cao so với cùng kỳ. Với mức giá này người nuôi
cá tra có được lợi nhuận khá cao. Tuy nhiên, do giá thức ăn thủy sản và các chi phí
nuôi cá tra có xu hướng tiếp tục tăng nên việc thả nuôi là một bài toán khó. Toàn
tỉnh hiện có 420 ha mặt nước sử dụng để nuôi cá tra thâm canh; trong đó đã chuyển


×