Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Bài làm
Tô Hoài là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với sự nghiệp
văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được mệnh danh là “Nhà
văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài luôn mang phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngôn
ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8
phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”, một kiệt tác văn chương được thai nghén và hoàn thiện
trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Với khả năng xây dựng hình tượng
nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị
hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia giai tầng đã vùi
dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu riếu bọn cường hào, thống lý tàn ác,
phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực vùng núi phía Bắc trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả khéo léo lồng ghép
vào tác phẩm tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ trên nhiều
phương diện, góc nhìn khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là
văn học hiện thực, là bức họa cuộc sống được sàng lọc một cách kỹ lưỡng nhằm nêu bật
lên được những đặc điểm điển hình của một thời kỳ, giai cấp. Phần lớn giá trị hiện thực
của các tác phẩm văn học đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương
thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của những
người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.
Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của những người
lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng
thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đau đớn, tủi cực đang
ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài đã xây dựng một
cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị, A Phủ,… như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc
sống bi kịch của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ mặt hèn ác, xấu xa của
những kẻ có chức quyền trong xã hội.
Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành, chăm chỉ
nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà thống lý Pá Tra do
món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm việc quần quật, bị bòn rút hết
tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng như không có con đường giải thoát nào.
Rồi cô gặp được A Phủ, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận
khổ đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số
phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con
người thực thụ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của người lao
động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Giới thiệu nhân
vật Mị, Tô Hoài không chọn cách kể về tên tuổi, quê quán, hay thậm chí một câu tả dáng
hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá
Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước
dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm
thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương,
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ
mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy
là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại cho người đọc một nỗi ám ảnh
về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai dẳng không dứt. Nét mặt buồn rười
rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè
nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm
tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Cuộc sống giữa địa ngục trần gian của Mị được coi là điển hình, khái quát toàn bộ những
khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động khu vực miền núi phía Bắc trước Cách mạng. Tô
Hoài mượn hình ảnh của Mị để nêu bật được lên chất hiện thực về cuộc đời đắng cay,
tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Bị bắt về làm dâu cho
nhà giàu, cuộc đời của Mị từ một cô gái xinh đẹp, hay lam hay làm thành một “con rùa
nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng
gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi
làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ
bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi.
Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được
đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của
Mị thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cô Mị còn bị
bóc lột tinh thần đến mức mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất
hạnh. Cô bị trói, bị đánh tưởng đến chết trong đêm Tết ở Hồng Ngài. Từ một cô gái dám
uống rượu để quên đi sầu khổ, dám chuẩn bị đi chơi trong đêm tình mùa xuân, giờ đây chỉ
còn lại là cái xác không hồn, quanh năm làm lụng, không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ
trốn hay tìm cách thoát ra khỏi số phận bi phẫn của mình. Để nói về cuộc đời của Mị, Tô
Hoài viết: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn
nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ
Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi
làm mà thôi.”. Người ta thấy trào lên những cảm thương sâu sắc ở nhân vật, rõ ràng là
một người con gái đang tuổi xuân phơi phới như thế, nhưng lại chỉ quẩn quanh suy nghĩ
mình là con trâu, con ngựa, câm lặng cam chịu làm bạn với cái khổ đau. Còn đâu cô Mị
dám trốn nhà Pá Tra về gặp bố mẹ, còn đâu những tia hy vọng nhen nhóm, ăn lá ngón để
giải thoát cho số phận, và còn đâu những cuộc chơi đêm tình mùa xuân sôi động, náo
nhiệt, những câu hát văng vẳng tìm bạn “tao không có con gái con trai, tao đi tìm người
yêu”. Cuộc sống của Mị gói gọn trong bốn bức tường, chỉ chừa ra cái ô cửa sổ nhỏ bằng
bàn tay. Tưởng như tuổi xuân và cả cuộc đời Mị sẽ mãi mãi ở ngoài bốn bức tường ấy,
chẳng khác nào bị giam lỏng cả một đời người ở chốn ngục tù trần gian.
Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh cô
Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Đặt vào bối
cảnh thực tế, Mị là một cô gái trẻ trung, dồi dào sức sống. Niềm khao khát được đi tìm
bạn bè, đi chơi trong đêm tình mùa xuân là lẽ hiển nhiên, nhưng, tất cả những tia hy vọng
đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi cô bị chính người chồng của mình trói đứng vào cột
nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. Cái đau khổ lên đến tột cùng, ngay đến những ước
muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất, Mị cũng không thể thực hiện được. “Mị không nói. A
Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách
cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc
lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng
xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mỵ phải trói
đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị
dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Cái đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau
tinh thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ
vì muốn đi chơi như bao người khác mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối cô
quạnh. Người đọc bỗng đặt ra câu hỏi rằng, liệu còn biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh
như thế nữa vẫn còn đang tồn tại, biết bao cô con gái sa chân vào làm dâu nhà quan to,
tưởng được sống hạnh phúc, đủ đầy, cuối cùng lại trở thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục
nhã. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác,
nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách
chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận
mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác
và phơi bày trước ánh sáng.
Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống
của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả nhưng lại chịu
thương chịu khó, sức khỏe dồi dào, không may số phận lại rơi vào tay cha con nhà thống
lý độc ác. Cái khổ đau của A Phủ được thể hiện qua những trắc trở trên đường đời, “Bố
mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều
trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ. Có người
làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ
mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp. A Phủ trốn
lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác.”,
khi anh bị trói mang về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn bạo bởi bọn trai làng. Bọn chúng bắt
sống anh về như bắt một con vật, đánh đập anh tàn bạo đến nỗi “môi và đuôi mắt dập
chảy máu”. Đỉnh điểm là khi anh làm mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ
đến khi có người mang hổ về mới tha cho anh. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn,
không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức tưởng như chết đi đến nơi. Từ hình ảnh một chàng
trai khỏe mạnh, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, A Phủ trở thành con trâu cày không công
cho nhà thống lý. Sống trong xã hội thối nát, mục ruỗng ấy, con người không còn có
quyền sống như một con người, tất cả đều bị phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Sự
thật về số phận của những người dân lao động khu vực Tây Bắc trước Cách mạng Tháng
tám là chuỗi những ngày tháng đau thương, nơi con người bị vắt kiệt sức lao động, nơi cái
ác ngự trị và tính mạng người dân chỉ giống như con vật nuôi trong nhà.
Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tô Hoài xây
dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật, tác
giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng,
là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người,
đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù
và bọn bất lương.
Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày những kẻ lợi dụng
chức quyền, những thế lực đen tối ở miền núi phía Bắc trước Cách mạng nhằm vùi dập,
chà đạp con người. Hình tượng cha con nhà thống lý Pá Tra, bọn xéo phải, thống quán
chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ mạt như trâu ngựa,
mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu vực miền núi xa xôi,
hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục truyền đời, thực dân Pháp
đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động dưới ách thống trị,
bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau vì miếng ăn, vì quyền lực, kẻ
có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng, lại được cho muối, cho thuốc
phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp
trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng căm thù đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê
tha. Một trong những đoạn văn miêu tả chân thực nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A
Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu đòn từ các trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám
nhúc nhích hay chống trả vì mang tội đánh con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên
A Sử gây sự đánh nhau, nhưng khi bị đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh
con trai mình về hành hạ, trong khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại
phải chịu đòn, chịu phạt. “A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.”, “A
Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên
thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá... Cứ mỗi
đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô
đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, người quỳ
lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt
tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt
chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.”, “A Phủ lê hai cái
đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá
Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A
Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt
tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.”. Tất cả những chi tiết ấy thể hiện sự tàn
bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man xuống tay đánh đập trong khi bọn
chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật không thể tưởng tượng được lại tồn
tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người không bằng một con vật, kẻ phạm tội
lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác. Phải chăng,
đây chính là những góc khuất đã được thế lực đen tối dung túng để bọn quan liêu mặc sức
tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm trục lợi, vơ vét của cải.
Tội ác của cha con thống lý Pá Tra thật không kể xiết, chúng không thương xót một ai,
không chừa cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận gạt nợ
của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị “Ngày xưa
bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra
bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về
già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.” món nợ truyền đời từ
bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền, không một sự thương xót
với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ cực. Cái duy nhất bọn chúng
quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người không hề tồn tại với cha con thống
lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm dâu, sống lặng lẽ “như một con rùa nuôi
trong xó cửa”, làm việc quần quật “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì
nhặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”, đến khi bị hành hạ cực khổ, bị trói, bị
đánh,… giống như một bản án buộc tội thế lực quan lại độc ác, vô nhân tính, là bản cáo
trạng chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp
người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông
với nhân vật.
Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của thống
lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc đã nhận ra
được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến
khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh, chịu thương chịu khó
trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phơi bày
được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi những kẻ ác nghiệt
nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không bằng con trâu,
con ngựa.
Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận những con
người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những thế lực đen tối đã
vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, xây dựng tâm lý nhân vật
qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ của nhân vật, tác giả không chỉ khiến
cho người đọc hình dung một cách rõ ràng về những góc khuất trong xã hội xưa mà còn
thể hiện sự thương cảm, xót xa với những người dân lao động vô tội. Xét cho cùng, văn
học chính là hiện thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn học là khơi
gợi sự đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tô Hoài đã hoàn thành một cách trọn
vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết nối giữa bạn đọc
và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân
Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Qua hai hình tượng
nhân vật điển hình, tác giả đã khái quát toàn bộ không gian xã hội thực dân nửa phong
kiến nơi vùng cao, đồng thời lên án mạnh mẽ, phơi bày bộ mặt tàn bạo và các thế lực đen
tối đã tồn tại và chèn ép con người đến bước đường cùng. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng
gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người dân
vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những khó
khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.