Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân tích hình tượng dòng sông trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.12 KB, 5 trang )

Đề bài: Phân tích hình tượng dòng sông trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng 
Cầ m
Bài làm
Ngay từ  nhan đề  bài thơ  người đọc đã bắt gặp dòng sông Đuống. Dòng sông trở  thành 
một hình tượng nghệ thuật có vai trò quan trọng với câu từ của tác phẩm.
“Con sông Đuống rõ ràng là một nhân vật ­ vì nó là một nhân vật nó mới có thể  nằm  
nghiêng được. Cái thế nằm nghiêng nghiêng ấy không phải do tôi nghĩ ra, cũng là tự nhiên  
khi cảm xúc trào ra, cứ  thế  tôi viết” (Hoàng Cầm). Đó không chỉ  là dòng Thiên Đức có  
thật mà còn là con sông tượng trưng, là ranh giới hiện hữu cho sự ngăn cách giữa bên này 
và bên kia, giữa tự  do và mất tự  do, giữa hiện thực và khát vọng. Tất cả  những gì đẹp  
nhất, thân yêu, quý giá nhất, tất cả tình yêu, ước mơ, khát vọng của nhà thơ đều ở bên kia 
sông Đuống, và dù nỗ lực vươn tới, dù khao khát trở  lại quê hương, nhà thơ  cũng không 
sao tới được. Không chỉ là ranh giới về không gian, con sông ấy là ranh giới của thời gian, 
con sông ấy đã trầm tích vào trong mình tất cả chiều sâu của lịch sử, cả “ngày xưa” và cả 
hôm nay. Con sông  ấy như  một chứng nhân lịch sử  đã chứng kiến cả  truyền thống và 
hiện đại, cả  quá khứ  và tương lai của quê hương Kinh Bắc. Lấy con sông Đuống làm 
ranh giới, Hoàng Cầm muốn làm bật lên thế đối lập, tương phản giữa bên này và bên kia, 
quá khứ và hiện tại. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ này cái điệp khúc “bên này”,  
“bên kia”, “đi đâu về đâu”, “tan tác về đâu”... và cả những ấn tượng thời gian hiện tại “từ 
ngày khủng khiếp”, “bây giờ”, “nay người ở đâu”...cứ trở đi trở  lại, hòa quyện vào nhau,  
đầy xót xa, day dứt. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ  có sự  trộn lẫn giữa  
những chi tiết về hiện thực đau đớn tan tác với những chi tiết về quá khứ yên bình hạnh  
phúc, giữa niềm vui truyền thống với niềm bơ vơ trong hiện tại:
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
Với nhà thơ, quá khứ yên bình ấy là khát vọng, là vẻ đẹp lí tưởng mà ông luôn hướng tới  


và hiện tại tan tác, chia li là hiện thực. Như vậy, bài thơ không chỉ có sự đối lập giữa bên  
này và bên kia sông Đuống mà còn có sự đối lập giữa quá khứ  vật chất tinh thần truyền 
thống với hiện tại đau thương, tan tác. Hướng về  quá khứ  lí tưởng  ở  đây không phải là 


tâm trạng hoài cổ, nhất là khi bài thơ kết thúc bằng ý niệm thời gian tương lai:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Ta lại tìm em...
Khoảng thời gian “bao giờ” ấy chính là khi bên kia sông Đuống không còn bóng quân xâm 
lược, không còn những hiện tượng dã man phi nhân tính, mà chỉ  còn những tà “yếm 
thắm”, những dải “lụa hồng” thắt lưng, những “hội hè” trẩy khắp non sông và cả những  
nụ  cười “mê ánh sáng”. Theo tôi, nụ  cười này cũng chính là nụ  cười “như  mùa thu tỏa  
nắng” của “những cô hàng xén răng đen” ngày xưa mà thôi! Tất cả  quay lại y như  quá  
khứ, như những ngày yên bình, hạnh phúc với những "bãi mía bờ  dâu”, “ngô khoai biêng  
biếc", với "lúa nếp thơm nồng”, “môi cắn chỉ  quết trầu” và “màu dân tộc” sau “những  
ngày khủng khiếp". Từ  góc độ  này, có thể  coi đó là kết cấu tuần hoàn của bài thơ, là 
niềm mơ   ước một ngày quê hương Kinh Bắc hồi sinh tươi tắn da thịt! Rõ ràng, nhà thơ 
hoàn toàn không hoài niệm và tôn thờ quá khứ, ngược­ lại, ông chỉ khao khát giành lại cho 
quê hương thân yêu những gì mà trước kia nó đã từng có: sự  bình yên, niềm hạnh phúc, 
những sinh hoạt văn hóa tinh thần truyền thống...
Không chỉ là dòng sông biểu tượng, con sông Đuống còn được Hoàng Cầm thể hiện như 
một dòng sông có thực, đang bồi hồi thao thức chảy. Lời động viên an ủi mơ đầu bài thơ 
“Em ơi buồn làm chi” cũng không chỉ là lời an ủi “một con người không xác định”, “một 
người cùng quê bên kia sông Đuống”, “một cô gái Kinh Bắc của ngày xưa”, mà còn là  
“một em cụ thể”, “có một chuyện cụ thể”. Hoàng Cầm tâm sự: “cái “em ơi" ấy là do từ 
tâm linh của mình, người vợ ấy suốt mấy tháng trời đêm nào cũng khóc, đêm nào tôi cũng  
phải an  ủi, dỗ  dành... Chính cái “em”  ấy là người vợ. Ba câu  ấy hầu như   ở  trong lòng  
mình bật ra, bật ra một cách vô thức”. Đó cũng là lời tự an ủi tâm hồn đau khổ của chính  
mình khi nghe tin quê hương bị  tàn phá. Để  xoa dịu nỗi đau, nhà thơ  an  ủi vỗ  về  bằng  


cách “đưa em về sông Đuống”, nhưng không phải sông Đuống hiện tại, mà là sông Đuống  
“ngày xưa cát trắng phẳng lì”, hết sức tươi đẹp, yên bình, ngập tràn ánh sáng và sắc trắng  
tinh khôi. Nhịp thơ và sự phối hợp ngôn từ đã khéo léo gợi ra một dòng sông êm đềm đang  
thao thức đổ về biển lớn:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ.
Cái dáng “nằm nghiêng nghiêng”  ấy đâu chỉ  làm “con sông như  một sinh thể  có hồn, có  
tâm trạng”, “gợi không khí lo âu vắng lặng hơn vì giặc đã về” như có người đã hiểu. Có  
lẽ nên hiểu hình ảnh này theo tinh thần lí giải hình ảnh “chân ngựa đá cũng lấm bùn” như 
trong thơ  Trần Nhân Tông thuở  trước. Thông thường dáng nằm của con sông phải được  
đặt trong một phạm vi không gian cụ thể,  ở đây, nhà thơ  lại đặt trong phạm vi thời gian  
lâu dài của cuộc “kháng chiến trường kì”, khiến tư thế của dòng sông càng trở nên hư ảo!  
Cuộc kháng chiến lớn lao, vĩ đại ấy đã lay động đến mỗi miền quê, đến từng dòng sông, 
tấc đất, khiến dáng nằm của sông Đuống như  cũng “nghiêng nghiêng”. Bằng hình  ảnh  
ấy, Hoàng Cầm đá nói được sâu sắc mối quan hệ  gắn bó máu thịt giữa dòng sông quê 
hương với cuộc kháng chiến chung của toàn dân tộc. Cũng vì thế, dòng sông Đuống của  
Hoàng Cầm không tỉnh lại mà luôn luôn vận động. Con sông vốn hiền lành, êm ả  là thế 
cũng “không biết nguôi hờn", cũng nổi giận trước tội ác kẻ thù mà dâng nước lên, quét đi  
biết bao khổ đau, tăm tối: “Sông Đuống cuồn cuộn trôi ­ Để  nó cuốn phăng ra bể  ­ Bao  
nhiêu dồn giặc tơi bời ­ Bao nhiêu nước mắt ­ Bao nhiêu mồ  hôi...” Con sông cũng quật  
khởi vùng lên trong sự đồng khởi chung của con người và quê hương Kinh Bắc. Cùng với 
sự vận động của dòng sông, Hoàng Cầm còn thể hiện sự vận động đầy ý nghĩa của thời  
gian, từ khi “đêm buông xuống dòng sông Đuống” và cuối cùng “Nắng sắp lên rồi ­ Chân  
trời đã tỏ”. Cả dòng sông Đuống, cả quê hương Kinh Bắc đang nỗ lực hành trình từ bóng  
tối ra ánh sáng, từ tăm tối khổ đau đến hồi sinh tươi sáng, yên bình...
Từ vị trí “đứng bên này sông”, ý thức được dòng sông biểu tượng như một ranh giới hiện  


hữu không thể vượt qua, Hoàng Cầm hướng toàn bộ  tâm trí của mình về quê hương bên 
kia sông Đuống với biết bao “xót xa”, “nhớ  tiếc”. Quê hương Kinh Bắc hiện về qua nỗi 
nhớ, qua hình dung, nhưng vẫn chân thực, sinh động lạ  thường. Đó là một miền quê có 
truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời, với một vẻ đẹp cổ kính, với biết bao giá trị quý  
giá thiêng liêng: lúa nếp, tranh Đông Hồ, hội hè đình đám, tình mẹ, tình con... Mỗi giá trị, 

mỗi vẻ đẹp của miền quê đều đã trở thành kỉ niệm, khắc sâu vào nỗi nhớ nhà thơ, kể cả 
mùi hương lúa nếp nhỏ  bé, mơ  hồ. Đó đâu chỉ  là hương vị  thứ  nếp cẩm đã trở  thành di  
sản của Kinh Bắc, mà còn tiêu biểu cho hương vị của dân tộc với nền văn minh lúa nước,  
thứ hương vị trầm tích vào ngay trong sự tích bánh chưng bánh dày như một nét đặc trưng  
cho tâm hồn, cốt cách cha ông. Nhưng hiện thân cho vẻ  đẹp lí tưởng trong thế  giới thơ 
Hoàng Cầm, thế  giới Kinh Bắc có lẽ  chính là người phụ  nữ. Nàng là trung tâm của sự 
sống, kết tinh cho vẻ đẹp đất trời. Nàng xuất hiện ở đâu là ở đó sáng lên những sắc màu  
rực rỡ, những vẻ đẹp tinh khôi, những đường nét thanh tú. Vì vậy thơ Hoàng Cầm và thế 
giới Kinh Bắc đầy vẻ đẹp nữ tính. Đó là “những khuôn mặt búp sen”, “những cô hàng xén 
răng đen”, “những nàng môi cắn chỉ  quết trầu”, "những nàng dệt sợi”, những thiếu nữ 
“mặc yếm thắm”, “thắt lụa hồng”, đi “trẩy hội non sông”... Nhưng tất cả những vẻ đẹp,  
những giá trị ấy đều đã thuộc về quá khứ, hoặc đang bị kẻ thù hủy hoại. Thay cho “Chợ 
Hồ, chợ  Sủi người đua chen ­ Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ  nghẽn lối” trong quá khứ  là  
hình ảnh phiên chợ nghèo tan tác, đớn đau: “Lá đa lác đác trước lều ­ Vài ba vết máu loang  
chiều mùa đông”. Tấm lòng thơm thảo khiến đứa con xa quê muốn gửi về  quê hương  
“một tấm the đen”, nhưng “Gửi về  may áo cho ai”?. Đâu chỉ  con người, ngay cả  cuộc  
sống của những loài vật hiền lành vô tội cùng bị đảo lộn, từ cánh cò hoảng hốt giữa thời  
buổi tên rơi đạn lạc “bay vùn vụt” đến “Chó ngộ  một đàn ­ Lưỡi dài lê sắc máu – Kiệt  
cùng ngõ thẳm bờ  hoang". Theo tôi, không nên hiểu đây là hình  ảnh tượng trưng cho lũ  
giặc mà nhà thơ  viết lên bằng tất cả  lòng ghê tởm, uất hận kẻ  thù. Đó là hình  ảnh tả 
thực, nhưng lại có sức tố cáo mạnh mẽ nhất, ẩn giấu nhiều đau đớn nhất trước tội ác kẻ 
thù ­ cái tội ác hủy diệt sự  sống, hủy diệt môi trường sống ­ mà Nguyễn Trãi từng thể 
hiện trong Bình Ngô đại cáo: “Tàn hại cả côn trùng cây cỏ.”
Ít ở đâu lại có nhiều mất mát, đớn đau như thế. Quê hương Kinh Bắc mất toàn những giá  


trị lớn lao, những vẻ đẹp thiêng liêng, lí tưởng. Càng đau đớn hơn khi những mất mát ấy 
cứ diễn ra như một quy luật, một sự định đoạt từ bên ngoài của cuộc đời khắc nghiệt, mà  
dù nỗ  lực đến đâu, nhà thơ  cũng không thể  nào ngăn được, Bên kia sông Đuống, vì vậy,  
chính là nỗi đau của những điều nghịch lí của một khát vọng quá tầm tay với. Bài thơ 

cũng vì thế mà dày đặc những sự đối lập, mâu thuẫn, tương phản rất đặc trưng cho cảm 
hứng lãng mạn. Còn gì nói được nhiều hơn, hay hơn, bản chất hơn những điều nghịch lí 
của cuộc đời, của tình yêu, của kiếp người bằng những thủ pháp tương phản ấy?
Với sự đối lập giữa bên này và bên kia, tự do và mất tự do, quá khứ và hiện tại; con sông  
Đuống đã trở  thành một hình tượng nghệ  thuật độc đáo, giàu ý nghĩa biểu tượng, góp 
phần quan trọng trong việc thể hiện nỗi đau xót nghẹn ngào của nhà thơ, một nỗi đau đã 
khiến nhà thơ  như  hóa đá, cứ  đứng bên này sông mà trông ngóng. Bên kia sông Đuống  
thực sự là tiếng kêu nhỏ máu của Hoàng Cầm, của một trái tim đỗ quyên đang khắc khoải  
vọng về quê cũ.



×