Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.77 KB, 13 trang )

Đề bài: Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế 
Bài làm
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô  
của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng 
tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền 
hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể  và tính thần mang ý nghĩa quốc  
hồn quốc túy, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế  giới. Năm 1993, Huế  đã  
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và 
sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ  quan hàng ngàn năm  
của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá  
do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian  đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu 
thế  kỷ  20 trên địa bàn kinh đô Huế  xưa; nay thuộc phạm vi thành phố  Huế  và một vài 
vùng phụ  cận thuộc tỉnh Thừa Thiên­Huế  Quần thể  di tích Cố  đô Huế  có thể  phân chia  
thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng 
thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, 
cung điện…
Nằm giữa lòng Huế bên bờ  Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ  Tây 
sang Đông, hệ  thống kiến trúc biểu thị  cho quyền uy của chế độ  trung ương tập quyền 
nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành 
Huế  Hoàng thành Huế  Tử  cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố  trí đăng 
đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là  
một mẫu mực cùng sự  kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và  
Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công  
xây dựng từ  1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành  
Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp  
đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế  gồm: Kỳ 


Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú 
Xuân, Hồ  Tịnh Tâm, Tàng thư  lâu Viện Cơ  Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị  thần 


công.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng 
nhất của triều đình, các miếu thờ  tổ  tiên nhà Nguyễn và bảo vệ  Tử  Cấm Thành – nơi 
dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung 
là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ  Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại 
Triều Nghi, Triệu Tổ  Miếu, Hưng Tổ  Miếu, Thế  Tổ  Miếu, Thái Tổ  Miếu, Cung Diên  
Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới  
hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào 
độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố  đô: Ngọ  Môn, chính là khu vực 
hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng 
tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở  và sinh hoạt của vua và 
hoàng gia. Các di tích trong Tử  Cấm Thành gồm: Tả  Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện  
Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình 
những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu 
Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn 
Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn 
nhỏ  bố  trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi  ẩn khi hiện giữa những sắc  
màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về  phía Tây 
của Kinh thành, nằm hai bên bờ  sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: 
Lăng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong 
hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị  cho xây dựng đế 
chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố  đô Huế  12 km. Lăng Tự  Đức được chính vua Tự 


Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi 
Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất  
của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi 

Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 – 1907) kế  vị  trong bối cảnh đất 
nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để 
thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phố chưa đầy 
2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải 
Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được 
xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim  
cổ  lạ  thường, với các tác phẩm nghệ  thuật ghép tranh sành sứ  độc đáo. Lăng Thiệu Trị 
còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền  
nhiệm và kế  vị, lăng Thiệu Trị  có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về 
hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời  
Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang 
yên nghỉ.
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trấn Bình đài nằm  ở  vị  trí  
Đông Bắc kinh thành Huế  Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế  phía  
trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, 
hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông 
Hương, là trụ  sở  để  đón tiếp các sứ  thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh  
Miếu là nơi thờ  Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miếu, là nơi thờ 
phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ  trọng ba khoa thi võ 
dưới triều Nguyễn.   Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế  trời. Hổ 
Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là  
đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục  
vụ  nhu cầu giải trí tiêu khiển. Điện Voi Ré để  thờ  các vị  thần bảo vệ  và miếu thờ  bốn  
con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên 
núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên –  
Huế. Ngày xưa người Chăm thờ  nữ  thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ  bà 


xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, 
tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa  

cổ  nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ  mặt biển) là một thành lũy dùng để 
bảo vệ  kinh đô triều Nguyễn được xây dựng  ở  cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh 
Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ  dùng làm nơi nghỉ  chân của nhà vua trước khi đi  
xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ 
sông An Cựu, là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua,  
sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú 
với nhiều yếu tố  biểu tượng sẵn có tự  nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là 
những bộ  phận của Kinh thành Huế  – đó là núi Ngự  Bình dòng Hương Giang, cồn Giã  
Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà  
lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con  
người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của 
Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố  Huế  lại đón chào ngày lễ  hội trọng 
đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể  và tinh thần mang ý nghĩa  
quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và 
thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế  giới, mãi mãi là niềm  
tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước  
cũng như quốc tế.
Bài số 2
Cố đô Huế là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam hàng năm thu hút  
rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Huế là vùng đất kinh kỳ  xưa được nhà Nguyễn 
xây dựng làm trung tâm chính trị, kinh tế  và văn hóa của cả  nước từ  đầu thế  kỷ  19 đến  
nửa đầu thế kỷ 20.
Nơi đây từng là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, nơi chứng  
kiến biết bao thăng trầm trong một giai đoạn lịch sử  chuyển giao giữa thời kỳ  Phong  


kiến, thuộc địa và thời kỳ xây dựng đất nước trong thời đại mới. Ngày nay, Huế hầu như 
còn lưu giữ khá nguyên vẹn các công trình kiến trúc đặc trưng của chế độ phong kiến nhà 
Nguyễn trải qua 143 năm từ  năm 1802 đến năm 1945. Một trong những công trình kiến  

trúc đặc trưng tiêu biểu và hoành tráng nhất trong quần thể di tích cố  đô Huế  đó là Kinh 
Thành Huế. Hệ thống kinh thành ngày này gồm rất nhiều công trình kiến trúc quan trọng,  
nơi từng là trung tâm chính trị của cả nước và là nơi trị vì của 13 vị vua triều Nguyễn.
Địa điểm lý tưởng nhất để hướng dẫn viên giới thiệu về Kinh Thành Huế chính là ở lầu  
Ngũ Phụng, nơi du khách có thể nhìn thấy được dòng sông Hương, núi Ngự Bình phía xa  
và Cồn Hến, cồn Dã Viên. Đây chính là một trong những yếu tố  phong thủy cho Kinh 
Thành Huế. Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long, là vị vua khai quốc 
của triều đại nhà Nguyễn.
Công cuộc khảo sát để xây dựng Kinh Thành Huế bắt đầu từ năm 1803, chính thức khởi 
công vào năm 1805 hoàn chỉnh vào khoảng những năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. 
Có thể nói rằng, kinh thành Huế là một trong những thành tựu vĩ đại của vua Gia Long và  
triều Nguyễn.
Kinh thành Huế được xây dựng trên diện tích khoảng 520 ha có chu vi 10km cao 6,6m dài  
21m. Thành có kiến trúc hình Vauban được xây khúc khỉu với những pháo đài phòng thủ 
được bố trí gần như điều nhau trên mặt thành. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến  
cuối thời vua Gia Long thành mới được cho  ốp gạch như  chúng ta thấy ngày hôm nay. 
Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hộ thành hào chạy dọc theo chân thành có tác dụng  
như là chướng ngại vật có chức năng phòng thủ vừa có chức năng giao thông thủy.
Kinh thành Huế  xoay mặt về  hướng Nam theo phong thủy trong K ịch d ịch “Thánh nhân  
nam diện, vi thính thiên hạ” Có nghĩa là “Vua phải quay mặt về hướng nam để trị vì thiên  
hạ”.
Kinh thành Huế lấy núi ngự bình cao 104m về phía nam làm yếu tố Tiền Án, Sông hương 
chảy qua trước mặt kinh thành làm yếu tố Minh Đường. Hai bên tả hữu sông có cồn Hến  
và cồn Dã Viên làm yếu tố  tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ. Tổng cộng kinh thành Huế 


có tất cả 13 của ra vào cả đường bộ và đường thủy. Thành có 10 của chính gồm:
Cửa Chính Bắc (Còn gọi là cửa Hậu, nằm phía sau kinh thành)
Cửa Tây – Bắc (Cửa An Hòa)
Cửa Chính Tây

Cửa Tây – Nam (Cửa Hữu, bên phải Kinh Thành)
Cửa Chính Nam (Cửa Nhà Đồ)
Cửa Quảng Đức
Cửa Thể Nhơn (Cửa Ngăn)
Cửa Đông Nam (Cửa Thượng Tứ)
Cửa Chính Đông (Cửa Đông Ba)
Cửa Đông Bắc (Cửa Kẻ Trài)
Ngoài ra kinh thành còn 1 cửa thông với Trấn Bình Đài hay còn gọi là đồn Mang Cá một 
góc thành nhỏ ở phía Đông Bắc. Đặc biệt kinh thành Huế còn có 2 cửa Thủy được đặt tên 
là:
– Đông thành Thủy Quan hay còn gọi là Cống Lương Y thông giữa sông Ngự Hà và sông  
đào Đông Ba.
– Tây Thành Thủy quan hay còn gọi là cống Thủy Quan thông giữa sông Ngự Hà và sông  
đào kẻ Vạn ở khu vực Kim Long.
Phía trước kinh thành Huế  về hướng Nam là hướng quan trọng nhất của Kinh Thành có 
Kỳ đài hay còn gọi là Cột Cờ cố đô Huế. Kỳ Đài được xây dựng vào năm 1807 dưới thời  
vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, Kỳ  Đài được tu sửa hoàn chỉnh vào các năm 
1829, 1831 và 1840.


Kỳ Đài gồm 2 phần chính là Đài và Cột cờ.
Đài gồm 3 tầng hình chóp cụt hình chữ nhật chồng lên nhau tượng trưng cho Thiên địa và  
Nhân. Tầng thứ  nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6m, tầng trên cùng cao hơn 6  
m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối 
đi nhỏ   ở  phía trái Kỳ  Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, 
tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có  
xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát  
gạch vuông và gạch vồ, có hệ  thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai  
chòi canh và tám khẩu đại bác.
Cột cờ  nguyên xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị  thứ  6 

(1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ 16 
(1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm  
1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948,  
cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37m hiện nay mới được xây dựng
Ngày nay Kỳ Đài Huế được treo Quốc kỳ của nước Việt Nam có diện tích 9 x 12m.
Cửu vị  Thần Công: Cửu vị  Thần Công là tên gọi của 9 khẩu Đại Bác được đặt hai bên 
cửa Quảng Đức và Thể  Nhơn. Hiện nay, du khách khi vào tham quan Hoàng Thành Huế 
sẽ  bắt gặp khi đi qua cửa Quảng Đức và Thể  Nhơn. Cửu Vị  thần Công được các nghệ 
nhân đúc đồng Huế đúc theo lệnh của vua Gia Long sau khi đánh bại triều Tây Sơn. Năm  
1803 sau khi chiếm lại kinh đô Phú Xuân, vua Gia Long lên ngôi đã truyền tập hợp tất cả 
các binh khí bằng đồng của triều Tây Sơn đúc thành 9 khẩu đại bác và đặt tên là Cửu Vị 
Thần Công nhằm kỷ  niệm chiến thắng. Mỗi khẩu  đại bác dài 5,1m và nặng khoảng  
17,000 kg. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rõ kích cỡ và trọng lượng được khắc trên mỗi  
khẩu đại bác. Đồng thời còn ghi rõ cách thức sử  dụng súng cũng như  thuốc súng  ở  trên  
mỗi khẩu Đại Bác. Mỗi khẩu thần công được đặt theo Ngũ Hành gồm 5 khẩu hiện nay 
để ở cửa Quảng Đức là : Kim, Mộc, thủy, Hỏa, Thổ và 4 khẩu được đặt theo tứ thời là: 
Xuân, Hạ, Thu, Đông ngày nay được đặt ở cửa Thể Nhơn.


Hoàng Thành Huế: Hoàng Thành Huế  là vòng thành thứ  2 bên trong Kinh Thành Huế  có 
chiều dài mỗi mặt thành khoảng 600m và gần như là vuông. Chiều cao khoảng 4, và dày  
1m được xây bằng gạch vồ. Hoàng Thành chính là trái tim và là nơi quan trọng nhất của 
Kinh thành Huế, nơi đặt các cung điện, ngai vàng, trung tâm chính trị và nơi ở và làm việc  
của Hoàng gia triều Nguyễn. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. 
Hoàng Thành được xây dựng vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long nhưng mãi đến năm 
1833 mới hoàn chỉnh hệ  thống cung điện với khoảng 147 công trình lớn nhỏ  khác nhau. 
Hoàng Thành được trổ 4 cửa để ra vào gồm: Cửa Ngọ Môn nằm ở phía nam được xem là  
cửa quan trọng nhất nơi đặt lễ đài là lầu Ngũ Phụng được xem như là bộ mặt của Quốc  
gia, nơi đón sứ thần các nước. Cửa phía Bắc được đặt tên là cửa Hòa Bình, tả hữu hai bên  
là cửa Hiển Nhơn và Chương Đức. Các cầu và hồ xung quanh hoàng thành điều có tên gọi  

là Kim Thủy. Hoàng Thành và các Cung điện bên trong điều được bố trí trên một trục đối  
xứng gọi là trục Thần Đạo. Trong đó chính giữa trục Thần Đạo chỉ  bố  trí các công trình 
dành cho vua như cửa Ngọ  Môn, cầu Trung Đạo, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Cửa 
Hòa Bình. Hai bên trục thần đạo tính từ  trong ra ngoài được bố  trí tuân theo nguyên tắc:  
Tả Văn Hữu Võ, Nam tả nữ Hữu hay Tả Chiêu Hữu Mục.
Ngọ Môn – Lầu Ngũ Phụng:
Cửa Ngọ môn là cửa chính của Hoàng Thành Huế là cửa quan trọng nhất trong 4 cửa của  
Hoàng thành nơi dành để cho vua đi trong các dịp lễ quan trọng và là nơi diễn ra các buổi  
lễ quan trọng như lễ: đón tiếp sứ thần các nước, lễ xướng tên các Tiến Sĩ, lễ Ban Sóc và  
lễ  Duyệt Binh. Vị  trí của cửa Ngọ  Môn trước đây có tên là Nam Khuyết Đài được xây 
dựng vào thời vua Gia Long, phía trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa tả hữu 
Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng thứ 14 tức năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch  
lại toàn bộ kinh thành Huế đã cho phá bỏ Nam Khuyết Đài và xây dựng của Ngọ Môn và  
Lầu Ngũ Phụng như ngày hôm nay. Cửa Ngọ Môn gồm có 2 phần chính là phần Đài Cổng 
và Phần lầu Ngũ Phụng. Phần cửa Ngọ Môn hay còn gọi là phần nền đài được xây dựng  
bằng gạch vồ và đá Thánh, móng được gia cố  chịu lực bằng đồng thau. Nền đài có hình 
chữ U vuông góc có chiều dài đáy 57,77m chiều dài cánh 27,06m chiều cao 5m với diện  


tích tính phần chữ  U là 1560m2.  Ở  phần giữ  nền đài nhìn từ  ngoài vào có 3 cổng chính:  
Cổng chính giữa đặt tên là Ngọ Môn và chỉ được dành cho Vua, hai cửa hai bên được đặt  
tên là Tả  Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn và quan võ theo nguyên tắc Tả 
Văn Hữu Võ.
Đặc biệt hai bên cánh chữ  U có 2 cửa vòng nhỏ  mà chỉ  được nhìn thấy từ  phía trong ra  
ngoài đó là Tả  Dịch Môn và Hữu Dịch Môn. Hai cửa quanh này chỉ  dành cho voi ngựa,  
quân lính và đoàn tùy tùng khi vua xuất hành qua cửa Ngọ Môn.
Phần lầu Ngũ Phụng: Công trình kiến trúc đẹp nhất trong quần thể  Hoàng Thành Huế 
được xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Lầu Ngũ Phụng có mặt bằng hình chữ U 
dựa theo nền móng của cửa Ngọ  Môn gồm 2 tầng lầu và hai tầng mái. Lầu được dựng 
trên nền cao 1,14m xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ  Môn. Khung của lầu được dựng  

trên 100 cây cột gỗ Lim tượng trưng cho Bách tính trăm họ trong thiên hạ, trong đó có 48  
cây cột xuyên suốt 2 tầng lầu. Hệ  thống mái dưới chạy quanh lầu xuyên suốt để  che 
nắng che mưa cho tất cả các phần lang cang phía dưới. Hệ thống mái tầng trên phức tạp  
hơn được chia làm 9 bộ mái trong đó bộ mái giữa cao hơn 8 bộ mái 2 bên được dành cho  
vua ngự. Bộ mái giữa được lợp bằng ngói Hoàng Lưu Ly màu vàng tượng trưng cho nhà 
vua. 8 bộ mái còn lại chia điều cho hai bên được lợp mái Thanh Lưu Ly màu xanh ngọc.
Chức năng của cửa Ngọ  Môn và Lầu ngũ phụng: Cửa Ngọc Môn và Lầu ngũ phụng là 
công trình kiến trúc quan trọng nó được xem như  là một lễ  đài và bộ  mặt của quốc gia.  
Nơi đây một năm chỉ  có vài ngày diễn ra các lễ  lớn quan trọng của đất nước, còn lại 
quanh năm cổng chỉnh được đóng kín và chỉ mở ra khi có dịp vua vi hành có đoàn tùy tùng  
hoặc khi vua xuất cung tế đàn Nam Giao.
Lễ truyền lô: Ngày nay khi tham quan lầu Ngũ Phụng, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng  
bức tranh sơn dầu mô tả lại lễ truyền Lô hay còn gọi là lễ xướng tên khác sĩ tử đỗ  Tiến  
Sĩ trong cuộc thi Đình tại Kinh Thành. Vào buổi lễ  truyền lô, đoàn xa giá của vua xuất 
phát từ điện Thái Hòa sau đó lên lầu Ngũ Phụng. Vua ngự trên ngai vàng được đặt chính 
giữa lầu Ngũ Phụng.


Phí dưới dân Ngọ  Môn. Các sĩ tử  đỗ  Tiến sĩ trong khoa thi Đình đứng lần lượt hai bên 
theo nguyên tắc tả văn hữu võ chờ  quan bộ Lễ tuyên đọc sắc phong vua ban. Sau đó lần  
lượt các sĩ tử sẽ nhận ấn tứ Vinh quy và được cưỡi ngựa về làng Vinh Quy Bái Tổ. Theo  
luật lệ triều Nguyễn. Làng nào có sĩ tử đỗ  khoa thi Đình sẽ được miễn thuế 3 năm. Cho 
nên nhân gian có câu truyền miệng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.
Lễ Ban Sóc: Lễ phát lịch hàng năm của nhà vua cho năm mới.
Lễ tiếp sứ thần các nước: Ngọ Môn cũng là nơi làm lễ tiếp đón các xứ thần các nước lân 
ban trong đó có xứ thần Trung Quốc.
Lễ Duyệt Binh.
Dấu mốc lịch sử quan trọng đã diễn ra tại Ngọn Môn:
Trải qua 143 năm trì vị của nhà Nguyễn, chứng kiến biết bao thăng trầm trong tiến trình 
lịch sử. Ngọ  môn bản thân nó cũng chứng kiến rất nhiều sự  kiện trọng đại của dân tộc  

Việt Nam mà điển hình là lễ  thoái vị  của vua Bảo Đại, vị  vua cuối cùng của chế  độ 
Phong Kiến Việt Nam. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công vang dội trong cả nước, 
vua Bảo Đại lúc đó dưới sự  chứng kiến của đại diện chính phủ  lâm thời cách mạng đã  
trao ấn kiếm của nhà vua là biểu tượng quyền lực của chế độ  phong kiến cho ông Trần  
Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng. Vua Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị  và được ông Cù 
Huy Cận gắn huy hiệu công nhân Việt Nam lên áo. Tại đây, vua Bảo Đại đã có một câu  
nói nổi tiếng “Trẫm thà làm dân một nước tự do độc lập còn hơn làm vua của một nước 
nô lệ”.
Điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể 
Hoàng Thành Huế. Là nơi đặt ngai vàng của các vị vua nhà Nguyễn, là trung tâm chính trị 
của cả nước trong 143 năm. Điện Thái hòa được đặt ở Trung Tâm khu vực Hoàng Thành,  
theo phong thủy là nơi trung tâm của vũ trụ. Điện quay mặt về  hướng chánh nam được 
nối với cửa Ngọ Môn bằng một cây cầu đá bắc qua hồ Thái Dịch được gọi là cầu Trung 
Đạo. Xưa kia cầu Trung Đạo chỉ dành cho vua đi. Các quan văn võ phải đi hai lối hai bên 


tả  hữu để  vào sân chầu hay còn gọi là sân Đại Triều Nghi. Phía đầu và cuối cầu Trung  
Đạo được dựng hai chiếc cổng có hình lưỡng long chầu Nhật. Phía trên có khắc 4 chữ “  
Chính đại quang minh” và “Chính trực đẳng bình” có ngụ  ý rằng thiên tử  khi đi qua đây  
để trị vì thiên hạ phải có cái tâm chính trực bình đẳng và quang minh chính đại. Phía trước  
điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, nơi thiết hành lễ Đại Triều vào ngày mồng 1 và 15  
hàng tháng.
Về lịch sử xây dựng: Điện Thái Hòa được xây dựng vào tháng 2 năm 1805 dưới thời vua 
Gia Long và hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy  
hoạch lại toàn bộ  Hoàn Thành, điện Thái Hòa được dời về  mé phía Nam của Hoàng  
Thành và cho làm lại quy mô lớn và lộng lẫy hơn. Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để 
chuẩn bị  cho lễ  Tứ  Tuần của Nhà vua (Mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924,  
điện Thái Hòa lại được trùng tu thêm lần nữa.
Về  chức năng của điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng  
triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi  

quan trọng của triều đình như: lễ  Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ 
thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch  
hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ  các quan Tứ 
trụ  và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các  
quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ 
nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị 
trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu.
Kiến trúc: Điện Thái Hòa là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia, điện được xây trên nền 
cao 1 mét, diện tích 1360 m², nguy nga bề thế trông ra một sân rộng.
Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ  bằng 80 cột gỗ  lim  
được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây – một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng  
đế  và quần thần đúng như  chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của 
điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của 


hai mái nhà (thuật ngữ  kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với 
nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm 
giác ghép nối hai tòa nhà. Việc  ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây 
dựng điện, nó chẳng những che kín được sự  lõm xuống của nơi nối hai mái mà còn tạo  
nên nhịp điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến 
trúc cổ  truyền Việt Nam mà điện không thể  xây cao như  của Trung Quốc, vì vậy nửa  
ngoài mái cao hơn, nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian  
ngoài­ nơi bá quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi 
nên kín đáo, uy nghiêm. Hệ  thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ  làm theo 
kiểu "vì kèo cánh ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng 
rường – giả thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều  
liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn. Mái điện lợp ngói  
hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí 
lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái "chồng diêm", mục đích là để  tránh đi 
sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để  tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo  

giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của 
tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để  trang trí hình vẽ  và thơ 
văn (197 bài thơ) trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa. Trang trí cũng như 
kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5,  
và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của  
tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành 
đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp 
và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ 
nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng 
ở  sân Đại triều nhìn vào hay từ  phía Tử  Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi  
mái điện đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ 
phù đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…
Ở  nội điện cũng thế, từ  ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ  chung quanh cho đến mỗi 
mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng.




×