ĐỀ BÀI: Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng đã khắc họa thành công bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc gắn liền với kỉ niệm về chặng đường hành quân của người
lính
Bài văn mẫu
Nhìn về thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, ta ngỡ ngàng vì chính
cuộc trường chinh máu lửa ấy đã hun đúc nên hình tượng người lính Vệ quốc hào hùng,
hiên ngang, chói ngời lí tưởng cao đẹp! Khác với người lính cụ Hồ trong bài thơ “Cá
nước” của Tố Hữu, người trai “chưa trắng nợ anh hùng” trong bài thơ “Ngày về” của
Chính Hữu hay anh bộ đội “xuất kích” trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm… trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng lại hiện lên hình tượng người lính kiêu
dũng với những nét mới lạ, sự lẫm liệt hòa lẫn với chất hào hoa, đa tình. “Tây Tiến” – bài
thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, minh chứng cho hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng
và tài hoa của nhà thơ. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng đã khắc họa thành công
bức tranh thiên nhiên Tây Bắc gắn liền với kỉ niệm về chặng đường hành quân của người
lính, đồng thời gợi về những kí ức đẹp trong đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân.
Bài thơ mang dấu ấn của cảm hứng lãng mạn!
Quang Dũng không viết bài thơ “Tây Tiến” trong những ngày tháng cùng đoàn quân Tây
Tiến dãi dầu mưa nắng trên chiến trường miền Tây mà ông đặt bút viết bản thảo bài thơ
khi ông đã xa rời đoàn quân Tây Tiến. Cả bài thơ là một dòng hồi tưởng không ngắt quãng
về thiên nhiên Tây Bắc nơi in hằn vết chân của đoàn binh đi qua, về khoảnh khắc nghỉ
ngơi giao lưu văn nghệ cùng đồng bào, về sự hi sinh bi tráng của đồng đội. Đó là những kỉ
niệm không thể nào vơi trong tâm trí Quang Dũng, bấy giờ trở nên tươi nguyên, lung linh
sống dậy trên trang thơ. Bằng ngôn từ nghệ thuật, Quang Dũng đã xây dựng những hình
tượng nghệ thuật tuyệt đẹp: hình tượng thiên nhiên, hình tượng người lính – khiến mọi
thứ hiện lên y như thật, bộc lộ linh hồn, thần thái của hiện thực run rẩy, phập phồng
biến hóa.
Nhà thơ Sóng Hồng từng cho rằng: “Thơ là nhạc, là họa, là chạm khắc theo một cách
riêng”. Đúng là như vậy! Bút pháp “Thi trung hữu họa” quen thuộc trong thơ ca cổ điển
bấy giờ được Quang Dũng vận dụng để vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc. “Tây Tiến” là họa! Tây Bắc khi đi vào trong thơ Quang Dũng vẫn giữ
được chất hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở muôn đời:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Xa rồi một thời Tây Tiến, Quang Dũng – người lính năm nào làm sao mà quên được cung
đường chiến đấu mà ông và đồng đội đã từng đi qua? Làm sao có thể quên những tháng
ngày gian nan, vất vả chinh phục thiên nhiên, trong lòng ngùn ngụt ngọn lửa yêu nước,
lòng căm thù, tinh thần “Nhất khứ bất phục hoàn” (Một đi không trở lại)? Những chàng
trai trẻ phần đông là thanh niên trí thức Hà Thành, đang ngồi trên ghế nhà trường bỗng
nghe tiếng gọi của quê hương, tự nguyện dấn thân vào cuộc hành binh máu lửa. Tay cầm
bút giờ đây cầm súng. Chân từng đi trên con đường bằng phẳng rợp màu cờ Thủ đô nghìn
năm văn hiến nay phải leo lên dốc cao “khúc khuỷu” gập ghềnh. Quang Dũng đã dựng lên
hình ảnh những con dốc Tây Bắc quanh co, hiểm trở. Từ láy “thăm thẳm” giàu giá trị tạo
hình, diễn tả chiều kích không gian mà thấp thoáng đằng sau là sự nhọc nhằn, gian khổ
của người lính Tây Tiến. Dòng thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” mở ra hai hình ảnh,
một là thiên nhiên mây mù giăng lối, mây bềnh bồng trên đỉnh núi, đỉnh núi nhạt nhòa
trong mây (“cồn mây”); hai là bóng dáng người lính Tây Tiến đang leo lên dốc núi, họng
súng chếch lên tựa hồ như chạm cả đỉnh trời, qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng đã
trở thành “súng ngửi trời”. Đến dòng thơ thứ ba, câu chữ như đang bị bẻ đôi ra uốn mình
theo thế núi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Một quãng đường dài “ngàn
thước”, hết lên cao rồi lại đổ xuống, chông chênh gập ghềnh, thử hỏi người bộ hành sao
không khỏi mệt nhoài vắt cạn sức mình cho được? Tiết trời Tây Bắc đau dịu dàng như
tiết trời Hà Nội? Khí hậu miền núi khắc nghiệt, lạnh giá hơn nhiều, những cơn mưa
trắng trời bất chợt đến rồi bất chợt đi. Khi Quang Dũng cùng đồng đội vừa đến bản Pha
Luông thì cơn mưa ập đến, lạnh sắt se. Hai tiếng “Nhà ai” nghe sao thân thương quá!
Trong thơ ca, người ta thường không chỉ sự vật, hiện tượng thuộc về sở hữu của một
người nào đó cụ thể mà thường dùng “ai” vừa hỏi vừa bộc lộ cảm xúc (“Tiếng ai tha
thiết bên cồn”, “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” – Tố Hữu…). Trong tầm mắt người
lính, những ngôi nhà đồng bào đang bềnh bồng trong biển mưa trắng xóa. Một cảnh
tượng đẹp đẽ, mờ ảo mà khắc nghiệt biết chừng nào.
Trong bốn dòng thơ này, hình tượng người lính không xuất hiện trực tiếp mà thấp thoáng
đằng sau khung cảnh thiên nhiên. Ấn tượng về người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này
không phải là dáng vẻ mà là nỗi vất vả nhọc nhằn khi gồng mình đi trên con đường hiểm
trở. Trên chặng đường gian khổ đó, có biết bao người đã ngã gục vì không còn chút sức
lực nào, bỏ lại hành trình dài và giấc mơ phía trước. Nhưng cũng có bao người nỗ lực
vượt lên, súng trên tay, mắt nảy lửa, hào khí ngút trời. Nghĩ về chặng đường nguy nan ấy,
người lính năm nào sao không khỏi xúc động, xót xa?
Theo dòng hồi tưởng, Quang Dũng đưa ta vào bầu không khí ấm áp của đêm liên hoan văn
nghệ ấm tình quân dân. Trong thơ ca thời kháng chiến, tình quân dân “cá nước” cũng là
cảm hứng chính cho sáng tạo nghệ thuật. Sau chặng đường gập ghềnh khúc khuỷu, sau
phút giây đối mặt với quân thù, những anh lính trẻ có khoảnh khắc lắng đọng lòng mình
để rồi ngơ ngẩn, đắm say trước vũ điệu man sơ và âm nhạc ngọt ngào phương xa xứ lạ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Kí ức người lính hướng về đêm hội trại có ánh đuốc bập bùng, con người ngất ngây trong
giai điệu cùng vóc dáng yêu kiều của người thiếu nữ. Chỉ với từ “bừng lên” thôi mà
không gian thơ trở nên lung linh, sáng rực lạ thường. Hình ảnh những bó “đuốc hoa” hợp
lại thành “hội đuốc hoa” thắp sáng rừng hoang núi thẳm, sưởi ấm lòng người sau những
trắc trở hiểm nguy. Dòng thơ tiếp theo gợi tả cảm xúc ngỡ ngàng của người lính Tây
Tiến trước vẻ đẹp của cô em xóm núi: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Đang ngắm nhìn ánh
sáng “đuốc hoa”, người lính Tây Tiến bất ngờ trông thấy sự xuất hiện của người thiếu
nữ xuân thì “xiêm áo tự bao bao giờ”, xinh đẹp và lộng lẫy như những tiên nữ giữa đêm
hội hoa đăng nào đó trong mơ tưởng. Hai tiếng “Kìa em” nghe sao tha thiết quá! Phải
chăng những lính ấy xuất thân từ đất Hà Thành, cốt cách thanh lịch hào hoa, trẻ trung, yêu
đời, yêu người, vì thế mà thỏa lòng, sung sướng, say mê trước bóng hình kiều diễm?!
Tiếng “Khèn” văng vẳng, người thiếu nữ uốn mình trong điệu Lăm Vông múa tặng
những người lính, gieo vào lòng người những hình ảnh tươi đẹp khó có thể phai mờ.
Dường như âm nhạc đủ sức vọng vào “xây hồn thơ” trong tâm tưởng, nâng đỡ giấc mộng
của người lính trẻ hướng về Viên Chăn xa xôi.
Không phải chỉ ở bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng mới tái hiện xúc động tình quân dân.
Trong bài thơ “Những làng đi qua”, viết năm 1947, tình cảm của nhân dân đối với anh bộ
đội cũng được Quang Dũng nhắc đến bằng tất cả tấm lòng tri ân, trân trọng:
Buồng chuối tiễn quân em mới cắt
Nhựa cây còn tuôn như sữa vắt
Khúc hát đồng ca “Vệ quốc quân”
Cuối xóm trông theo vẫy mấy lần
Nhưng ở mỗi bài thơ, Quang Dũng lại có một cách thể hiện hoàn toàn khác nhau. Ở đoạn
thơ này, mọi vẻ đẹp của cảnh vật, văn hóa và con người Tây Bắc được cảm hồn trẻ
trung, lãng mạn, đa tình của những anh lính trẻ. Tình quân dân keo sơn được Quang Dũng
thể hiện thật xúc động trong đêm liên hoan văn nghệ ấm áp nghĩa tình. Chắc chắn rằng
những kỉ niệm này sẽ sống mãi trong tâm hồn người lính, tiếp thêm sức mạnh cho các anh
trên bước đường hành quân muôn dặm nghìn trùng.
Mỗi đoạn thơ là một nét vẽ khác nhau trong bức tranh mà thiên nhiên là phông nền, người
lính Tây Tiến là nhân vật trung tâm hiện lên với những nét đẹp đáng trân quý. Một Tây
Bắc hoang dã, hiểm trở thấp thoáng bóng dáng người lính Tây Tiến vắt kiệt sức lực chinh
phục thiên nhiên nhưng không bao giờ bỏ cuộc vì lý tưởng cao đẹp. Một Tây Bắc xinh
đẹp, lãng mạn, ấm áp tình người, những người lính trẻ trung, đa tình mở rộng lòng mình
đón nhận những điều tươi đẹp. Quang Dũng đã gợi nhiều hơn tả, không chỉ làm hiện lên
trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây mà còn ghi lại cái hồn
của cảnh vật. Cảm hứng lãng mạn là đặc điểm nổi bật trong hồn thơ Quang Dũng. Đôi
khi thơ ông chìm vào cái bi, lập tức Quang Dũng nâng cái bi bằng cảm hứng lãng mạn bay
bổng để hình tượng thơ tráng lệ, giọng thơ hào hùng, con người dũng cảm, kì vĩ hơn bao
giờ hết. Cảm hứng lãng mạn, nhất là chất trữ tình Cách mạng là một thành tố quan trọng
của thơ ca Cách mạng. Đời sống quân ngũ tuy gian nan, vất vả nhưng người lính Tây
Tiến vẫn vui, vẫn trẻ trung, yêu đời, nỗ lực hướng về phía trước. Chất lãng mạn của bài
thơ “Tây Tiến” giúp Quang Dũng khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam một thời
đã qua: trong chiến tranh khốc liệt, con người vẫn hiên ngang, vươn tới vẻ đẹp lí tưởng
và vẻ đẹp cuộc đời. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt qua thử thách
của chiến tranh.
Hơn bảy mươi năm trôi qua, “Tây Tiến” của Quang Dũng vẫn còn rung động tâm hồn
người đọc. Âm hưởng của bài thơ vẫn văng vẳng trong lòng người mỗi khi ngẫm nghĩ về
một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng. Bài thơ đã tạc vào tâm tưởng mỗi người bức
tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến – những người đã từng dâng hiến máu xương vì
lý tưởng cao đẹp của cuộc đời. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay lớn lên trong bầu không
khí thanh bình, được học tập, phát triển bản thân. Khói lửa chiến trường, “gươm kề tận
cổ súng kề tay” chỉ còn xuất hiện trong những trang sách, qua lời kể của những người đi
qua cuộc chiến. Chúng ta biết rằng để có được cuộc sống hôm nay, biết bao người đã đổ
máu xương gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng. Vậy nên, chúng ta hãy sống sao cho trọn vẹn
nghĩa tình, biết ơn thế hệ cha anh, sống nhiệt thành, mai này lớn lên làm tròn sứ mệnh
của mình đối với quê hương xứ sở. Ôi Tổ quốc! Hai tiếng ấy thật cao quý, thiêng liêng!