TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Số 6 (31) - Tháng 8/2015
Văn hóa học và ứng dụng trong nghiên cứu phim cải biên
Cultural studies and the application in film adaptation
ThS. Đào Lê Na
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP.HCM
M.A. Dao Le Na
University of Social Sciences and Humanities
National University Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Lý thuyết văn hóa cho thấy tác phẩm cải biên có tiếng nói riêng trong việc xây dựng văn hóa của thời
đại mà tác giả cải biên đang sống. Bởi vì, khơng ai có thể phủ nhận được tính chất diễn ngơn của tác
phẩm cải biên. Mỗi tác phẩm cải biên đều mang trong đó mục đích của đạo diễn, tác giả điện ảnh nên nó
sẽ khơng bao giờ trung lập hoặc khách quan. Mặt khác, vì đóng vai trò diễn ngơn của đạo diễn nên tác
phẩm cải biên sẽ phục vụ cho mục đích của đạo diễn. Do đó, nó sẽ được lựa chọn cải biên những chi
tiết, những nội dung… phù hợp với tư tưởng của đạo diễn. Nhà làm phim sẽ tùy thuộc vào vị trí, điểm
nhìn của mình mà có những lựa chọn cải biên khác nhau.
Từ khóa: văn hóa học, cải biên, tác giả điện ảnh, diễn ngơn…
Abstract
Cultural theory shows that the adapted works have their own voice in building the culture of the era
which their authors are living. Because, no one can deny the quality of discourse in the adapted works.
Each work obtains the purposes of the director, auteur so it will never be neutral or objective. On the
other hand, because adapted work is the discourse of director, it will serve the director’s purposes.
Therefore, it will have adapted details, the contents matching the director's ideology. The film makers
will depend on their position and point of view so that there are different choices to adapt.
Keywords: cultural studies, adaptation, auteur, discourse…
người sáng tạo ra trong lịch sử”. Khái niệm
này cũng gần với khái niệm về văn hóa mà
UNESCO đưa ra năm 2002: “Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của
những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một
nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,
ngồi văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
1. Vài nét về văn hóa học
Lâu nay, khi bàn đến văn hóa, người
ta thường chú ý đến những khía cạnh như:
giá trị, truyền thống, con người, lịch sử…
Trong Đại từ điển tiếng Việt do tác giả
Nguyễn Như Ý chủ biên và Nhà xuất bản
Văn hóa Thơng tin xuất bản năm 1998 thì
khái niệm văn hóa được định nghĩa là
“những giá trị vật chất, tinh thần do con
19
truyền thống và đức tin”1. Rõ ràng, đây là
cách hiểu, quan điểm truyền thống về văn
hóa được sử dụng trong nhiều tài liệu,
nhiều công trình nghiên cứu. Trong công
trình Những vấn đề văn hóa học – Lý luận
và ứng dụng của nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Thêm, khái niệm văn hóa được hiểu
theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo
tác giả, “văn hóa theo nghĩa hẹp thường
được đồng nhất với văn hóa tinh hoa. Văn
hóa tinh hoa là một tiểu văn hóa chứa
những giá trị đáp ứng các nhu cầu bậc cao
của con người. Quy luật chung là những
giá trị đáp ứng các nhu cầu càng xa những
đòi hỏi vật chất, đòi hỏi đời thường, đòi hỏi
nhất thời bao nhiêu thì tính giá trị, tính
người càng cao bấy nhiêu, và do vậy càng
mang tính tinh hoa về văn hóa. Theo nghĩa
này, văn hóa thường được đồng nhất với
các loại hình nghệ thuật, văn chương”. Còn
“giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được
dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh
vực (văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh
doanh…). Giới hạn theo không gian, văn
hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù
của từng vùng (văn hóa Tây Nguyên, văn
hóa Nam Bộ…), Giới hạn theo thời gian,
văn hóa được dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình,
văn hóa Đông Sơn…). Giới hạn theo hoạt
động thì văn hóa theo nghĩa hẹp thường
được đồng nhất với văn hóa ứng xử”2.
Xuất phát từ những khái niệm thế này,
sẽ chẳng có bất kỳ nghi ngờ nào khi gọi
Đạo Mẫu là văn hóa của người Việt, áo dài
là văn hóa của người Việt, trống đồng
Đông Sơn là văn hóa của người Việt… bởi
người ta cho rằng tất cả đều là những vật
chất, tinh thần có giá trị trong lịch sử. Đạo
Mẫu xuất phát từ tín ngưỡng thờ cúng các
Thánh Mẫu, Nữ thần trong dân gian.
Chẳng hạn như thờ cúng Thánh Mẫu Liễu
Hạnh, mẹ Âu Cơ, Thánh Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ… Tuy nhiên, tên gọi Đạo Mẫu không
xuất hiện cùng thời với các tín ngưỡng thờ
cúng đó mà xuất hiện lần đầu trong công
trình Đạo Mẫu Việt Nam của nhà nghiên
cứu Ngô Đức Thịnh xuất bản năm 1994.
Như vậy, tính lịch sử trong khái niệm về
văn hóa cần được xem xét lại. Tương tự,
Trống Đồng Đông Sơn, một hiện vật được
tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á và
Trung Quốc nhưng vẫn được cho là văn
hóa của Việt Nam bởi theo Hậu Hán Thư,
quyển 14 viết rằng: “Dân Giao Chỉ có linh
vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất
hăng lúc lâm trận...”3. Nhiều nhà nghiên
cứu còn xem những trang phục trên hình vẽ
trống đồng là trang phục của người Việt
Cổ. Cho đến tận cuối thế kỷ 19, nguồn gốc
của trống đồng vẫn chưa được các học giả
xác định. Nhiều học giả phương Tây tham
gia vào công cuộc khảo cứu nơi khai sinh
trống đồng nhưng kết luận vẫn chưa thống
nhất: có người bảo ở Trung Quốc, có người
bảo ở Việt Nam. Mặc dù chưa có sự ngã
ngũ về xuất xứ trống đồng nhưng lịch sử
Việt Nam vẫn ghi nhận hiện vật này như
biểu tượng của văn hóa Việt Nam. Vậy,
khái niệm văn hóa ở đây nên được hiểu
như thế nào? Và lý thuyết văn hóa học làm
sao có thể giải quyết vấn đề này?
Lý thuyết văn hóa học lấy đối tượng
nghiên cứu chính là văn hóa. Ở đây, chúng
tôi thống nhất sử dụng khái niệm văn hóa
được hiểu theo quan điểm phương Tây, tức
là: địa thế có căn cứ vững chắc thực sự của
thực tiễn, các đại diện, ngôn ngữ và phong
tục của bất kỳ xã hội cụ thể. Quan điểm
quan trọng nhất về văn hóa chính là: “văn
hóa liên quan tới những câu hỏi về ý nghĩa
xã hội được chia sẻ, có nghĩa là, chúng ta
tạo ra ý nghĩa của thế giới từ những cách
khác nhau thông qua các ký hiệu, đặc biệt
là ngôn ngữ”4.
Từ khái niệm văn hóa nêu trên, tiếp
20
nên có tên gọi là crime art9.
Từ ví dụ nêu trên, có thể thấy rằng,
nghiên cứu văn hóa không thể tách rời yếu
tố chính trị. Bởi vì để củng cố quyền lực,
các nhà cầm quyền xây dựng nên hệ thống
diễn ngôn của riêng mình và thông qua đó,
văn hóa được tạo lập. Rõ ràng, hệ thống
diễn ngôn ấy được xây dựng với một mục
đích rõ ràng nên sẽ “không bao giờ là một
hiện tượng trung lập hoặc khách quan mà là
vấn đề của tính vị trí, đó là của nơi mà từ đó
người ta nói, với ai, và vì mục đích gì”10.
Bởi vì văn hóa liên quan đến các đại
diện nên nghiên cứu văn hóa không tách rời
quyền lực. Các biểu hiện của quyền lực
được nghiên cứu văn hóa khám phá bao
gồm giới tính, chủng tộc, giai cấp, chủ
nghĩa thuộc địa, các kết nối giữa các hình
thức của quyền lực. Như vậy, trong nghiên
cứu văn hóa, các nhà nghiên cứu không bao
giờ được phép bỏ qua quyền lực vì nó chi
phối tất cả các mối quan hệ xã hội. Quyền
lực vừa “gắn kết mọi xã hội với nhau”,
“làm cho tập hợp người này phụ thuộc
người khác” vừa “tạo ra và cho phép các
hoạt động, các mối quan hệ và trật tự xã
hội”11. Để duy trì và củng cố quyền lực, và
tạo ra bản sắc riêng cho quốc gia trong bối
cảnh toàn cầu, các nhà cầm quyền tạo ra ý
thức hệ “như là những sự thật toàn cầu, là
sự hiểu biết cụ thể mang tính lịch sử”12.
Chẳng hạn, ở Mỹ, chế độ nô lệ da đen
thống trị trong một thời gian dài nên tâm
thức ghét bỏ người da đen, phân biệt chủng
tộc đã ăn sâu vào tâm trí của nhiều người
nên họ bị gọi là mọi đen, bị xa lánh và thậm
chí ngay cả những người da trắng giúp đỡ
họ cũng bị xa lánh. Đây là điều đã được nhà
văn Harper Lee phản ánh trong tác phẩm
Giết con chim nhại, tác phẩm sau này cũng
được cải biên thành một tác phẩm điện ảnh
xuất sắc. Người bố Atticus trong tác phẩm
là một luật sư, ông phải bào chữa cho một
cận một vấn đề, hiện tượng nào đó theo
hướng nghiên cứu văn hóa, không phải là
mô tả vấn đề, hiện tượng đó như thế nào
mà là “tập trung vào câu hỏi của đại diện,
đó là làm thế nào thế giới về mặt xã hội
được xây dựng và đại diện cho và bởi
chúng ta theo những cách có ý nghĩa”5. Để
làm được điều này, cần phải bóc tách các
lớp vỏ văn bản của ý nghĩa. Như vậy, trong
nghiên cứu văn hóa, cái cơ bản nhất theo
Baker chính là trò chơi ngôn ngữ của
nghiên cứu văn hóa.
Nghiên cứu văn hóa quả thực là một
lĩnh vực rất rộng lớn và có thể tìm thấy
bóng dáng của nó trong nhiều nghiên cứu
tự nhiên lẫn xã hội như vật lý, sinh học, xã
hội, nhân học, ngôn ngữ. Chẳng hạn,
“Thuyết Darwin mới về văn hóa xã hội”,
“Ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn
hóa”. Rõ ràng, khi đặt những vấn đề nghiên
cứu như thế, ranh giới giữa nghiên cứu văn
hóa và các loại hình nghiên cứu khác trở
nên nhạt nhòa. Mặc dù vậy, nhà nghiên cứu
Hall (1992) vẫn cho rằng “phải có điều gì
đó đang bị đe dọa trong nghiên cứu văn
hóa làm cho nó khác với các khu vực lệ
thuộc khác”6. Hall diễn giải thêm rằng, cái
đang đe dọa ấy chính là “sự kết nối mà
nghiên cứu văn hóa tìm cách để làm thành
những vấn đề của quyền lực và chính trị
văn hóa”7. Đó là “sự khám phá những đại
diện của và ‘cho’ các nhóm xã hội bị thiệt
thòi và sự cần thiết phải thay đổi văn hóa”8.
Sự ra đời của loại hình vẽ tranh tường
nghệch họa (graffiti/crime art) chính là một
đại diện như vậy. Nó đại diện cho nhóm xã
hội bị thiệt thòi ở khu phố Bronx, New
York. Những hình vẽ bằng sơn phun trên
ga tàu điện ngầm hay các bức tường nhà,
đường phố như là một sự phản kháng đối
với những chính sách về văn hóa xã hội
của chính phủ hiện thời. Chính vì vậy, loại
hình nghệ thuật này bị xem là bất hợp pháp
21
người da đen và phải chịu sự gièm pha của
rất nhiều người. Cuộc trò chuyện của
Francis và Jean Louise đã chứng thực điều
đó: “Bà nội nói chuyện ba mày để tụi mày
sống bừa bãi đã đủ tệ rồi, nhưng giờ ông té
ra lại thành kẻ yêu bọn mọi đen thì chúng ta
sẽ không bao giờ có thể đi lại trên đường
phố Maycomb được nữa. Ông ấy đang hủy
hoại dòng họ này, ông đang làm vậy đó”13.
Rõ ràng, chuyện “hủy hoại dòng họ”,
chuyện “bọn mọi đen” không phải là những
cái cố hữu mà là do những định kiến xã hội,
chịu áp đặt từ quyền lực mà mặc nhiên thừa
nhận như cái gì đó hoàn toàn đúng.
Nghiên cứu văn hóa được dẫn dắt bởi
các nhà cấu trúc luận. Họ quan tâm đến việc
tạo thành ý nghĩa văn hóa và tìm cách giải
mã nó. Các nhà cấu trúc luận xem tất cả các
mối quan hệ của con người, hình ảnh, âm
thanh, vật chất, ý thức… là những ký hiệu
văn hóa và có cấu trúc tương tự như ngôn
ngữ. Vì vậy, các nhà ngôn ngữ học mà tiêu
biểu là Lévi - Strauss đã tiến hành phân tích
quá trình tạo nghĩa của các văn bản văn hóa
bằng cách phân xuất các cặp đôi trong sự
tương phản nhau. Chẳng hạn, để phân tích
mô hình mối quan hệ họ hàng, cấu trúc luận
sẽ phân ra thành cặp đôi có thể kết hôn được
và bị cấm kết hôn; để phân tích mô hình
thực phẩm của con người, cấu trúc luận sẽ
phân thành cặp đôi thực phẩm ăn được và
thực phẩm không ăn được…
Tuy nhiên, cách phân xuất cấu trúc
như thế này sẽ mặc nhiên thừa nhận sự ổn
định của ngôn ngữ, văn hóa. Trong khi đó,
ý nghĩa của các văn bản văn hóa lại được
giải mã, chia sẻ bởi các người đọc khác
nhau và chúng được tạo ra một cách chủ
quan bởi người cầm quyền nên không thể
có những ý nghĩa ổn định. Cùng với sự ra
đời của liên văn bản, các nhà hậu cấu trúc
trên cơ sở kế thừa những luận điểm cơ bản
về cấu trúc đã bác bỏ tính ổn định về ý
nghĩa cũng như tháo dỡ các khái niệm về
tính thứ bậc, cặp đôi.
Cả Derrida và Foucault đều chống lại
cấu trúc ngôn ngữ và cho rằng đó là “một hệ
thống quy tắc điều chỉnh tự trị”14. Điều này
có nghĩa là các đối tượng vật chất lẫn thực
tiễn xã hội bộc lộ ý nghĩa thông qua ngôn
ngữ. Theo Foucault, “ngôn ngữ quy định
không chỉ những gì có thể được nói trong
điều kiện xã hội và văn hóa nhất định mà
còn ai có thể nói, khi nào và ở đâu”15. Điều
này sẽ dẫn đến sự phân tán quyền lực trong
xã hội và quyền lực được hình thành thông
qua “các mối quan hệ xã hội và bản sắc”16.
Đóng góp lớn nhất của giải cấu trúc
trong nghiên cứu văn hóa chính là giải
chân tính của ngôn ngữ bởi theo họ “có thể
không có sự thật, đề tài, bản sắc bên ngoài
của ngôn ngữ”17. Rõ ràng, một khi ngôn
ngữ đã không có tính ổn định thì làm sao
có thể có đại diện cho chân lý hay bản sắc.
Ngay cả trong toán học, cũng không có
những tiên đề, định luật luôn luôn đúng.
Tiên đề Euclid thừa nhận tính chất: “Qua
một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta
vẽ được một và chỉ một đường thẳng song
song với đường thẳng đã cho”. Tuy nhiên,
tính chất này chỉ đúng khi và chỉ khi điểm
và đường thẳng đã cho nằm trên cùng một
mặt phẳng. Còn nếu xét trong không gian
thì tiên đề này sẽ không còn đúng nữa.
Giống như tiên đề vừa nêu, sự thật hay bản
sắc đều không phải là những vấn đề phổ
quát trong tự nhiên mà là những vấn đề
tương đối và mang tính chủ quan, “là
những sản phẩm của nền văn hóa trong
thời gian và không gian cụ thể”18.
Nghiên cứu văn hóa trong bối cảnh hậu
hiện đại sẽ mỉa mai trước những đại tự sự,
“từ chối sự thật như một đối tượng vĩnh cửu
cố định” và bác bỏ tất cả những “tượng đài”
ngôn ngữ, những tuyên ngôn, giáo huấn,
“những câu chuyện lớn có thể cung cấp cho
22
chúng ta kiến thức chắc chắn để định
hướng, ý nghĩa và con đường đạo đức của
“sự phát triển'con người”. Văn hóa hậu hiện
đại hoài nghi tất cả những gì được cho là
chắc chắn, chân lý, vĩnh cửu, giáo điều…đã
tồn tại trong xã hội và đem đến “một cảm
giác về chất lượng rời rạc, không rõ ràng và
không chắc chắn của thế giới, cùng với mức
độ cao của phản ứng cá nhân và xã hội”19.
Ranh giới giữa những phân biệt thực tế và
mô phỏng bị xóa mờ bởi tất cả các văn bản
văn hóa đều được xem xét trong tính liên
văn bản, đa phương pháp và tự ý thức. Điều
này cũng giúp các nhà nghiên cứu đánh giá
lại những tác phẩm điện ảnh cải biên một
cách khách quan hơn, công bằng hơn.
Những “tượng đài văn hóa”, những vị trí
độc tôn của những sản phẩm được viết ra
bởi ngôn ngữ cũng bị đánh giá lại, bị hoài
nghi. Nghệ thuật điện ảnh cũng tham gia
vào việc xây dựng các văn bản văn hóa của
thời đại bằng những đặc trưng riêng của nó,
bằng việc chiến thắng sự đồng thuận trong
văn hóa đương đại.
2. Văn hóa học trong nghiên cứu cải biên
Từ lý luận văn hóa học, có thể thấy rõ
ràng, quy trình cải biên một tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh được soi chiếu
rất nhiều và tác phẩm cải biên cũng có
tiếng nói riêng của nó trong việc xây dựng
văn hóa của thời đại mà tác giả cải biên
đang sống. Bởi vì, không ai có thể phủ
nhận được tính chất diễn ngôn của tác
phẩm cải biên. Mỗi tác phẩm cải biên đều
mang trong đó mục đích của đạo diễn, tác
giả điện ảnh và nó sẽ không bao giờ là
trung lập hoặc khách quan. Người ta không
thể đòi hỏi đạo diễn điện ảnh phải trung
thành với tác phẩm văn học khi mà tác
phẩm văn học cũng là một văn bản văn hóa
và đòi hỏi phải được luận giải bằng nhiều
cách khác nhau. Ngay khi mở đầu cuốn
sách lý luận về văn hóa học của mình,
Baker đã viết: “Nghiên cứu văn hóa không
nói chuyện bằng một giọng điệu, nó không
thể được nói bằng một giọng điệu, và tôi
cũng không có một giọng điệu nào đó để
đại diện cho nó”20.
Mặt khác, vì đóng vai trò diễn ngôn
của đạo diễn nên tác phẩm cải biên sẽ phục
vụ cho mục đích của đạo diễn và do đó, nó
sẽ được lựa chọn cải biên những chi tiết,
những nội dung phù hợp với tư tưởng của
đạo diễn. Nhà cải biên sẽ tùy thuộc vào vị
trí, điểm nhìn của mình mà có những lựa
chọn cải biên khác nhau. Cùng là một tác
phẩm văn học, nhưng nếu nhà cải biên
đứng về phía những người nắm giữ quyền
lực thì sẽ có sự lựa chọn tác phẩm cho phù
hợp, còn nếu nhà cải biên đứng về phía
những người có vị trí thấp trong xã hội thì
sẽ thường lựa chọn những tác phẩm mà
nhân vật trung tâm của họ là những người
lao động, những người tri thức nghèo,
những người nô lệ. Đó là lý do tại sao
nhiều lần đạo diễn Kurosawa Akira thay
đổi bối cảnh của tác phẩm văn học mà ông
cải biên. Ở Kurosawa Akira, văn hóa Đông
– Tây quyện hòa rất rõ rệt. Mặc dù phong
cách làm phim của ông rất “Tây” nhưng
những nội dung mà ông đề cập, triết lý, văn
hóa trong phim ông lại mang đậm chất
phương Đông, chất Nhật Bản. Đặc biệt
nhất, phông nền văn hóa Phật giáo, tư
tưởng Phật giáo là yếu tố quyết định phong
cách cải biên của Kurosawa Akira. “Loạn”
(Ran) là bộ phim như thế. Mặc dù được cải
biên từ tác phẩm Vua Lear (King Lear) của
William Shakespeare nhưng vua Lear của
Kurosawa lại là một lãnh chúa Nhật Bản.
Cả bộ phim là một bức tranh cuộn mà khi
khai mở, triết lý Phật giáo dần dần được
hiển lộ một cách sâu sắc.
Vua Lear của Shakespeare bắt đầu bi
kịch khi các cô con gái chia sẻ tình cảm
của mình đối với cha. Tuy nhiên, cách chia
23
sẻ thẳng thắn và chân thật của cô con gái út
khiến nhà vua nổi giận và ông quyết định
chia giang sơn của mình cho hai cô con gái
lớn và thu hồi phần tài sản của cô con gái
út. Bi kịch của ông mở ra khi hai cô con
gái lớn có được đất nước của vua cha nên
bộc lộ rõ chân tướng và đuổi ông ra khỏi
giang sơn. Từ đó, nhà vua bắt đầu chặng
đường gian khó để đến với triết lý nhân
sinh của cuộc đời, đến với cuộc sống của
những người cùng khổ và thấu hiểu được
tấm chân tình thực sự của cô con gái út.
Tuy nhiên, khởi nguồn bi kịch này của
vua Lear khiến Kurosawa cảm thấy vô
cùng thất vọng. Với tư cách là một độc giả,
ông nói: “Tôi yêu Shakespeare bao nhiêu
thì tôi lại thất vọng về vở kịch Lear bấy
nhiêu... Từ quan điểm Nhật Bản, Lear
dường như không có bất kỳ sự phản chiếu
nào vào quá khứ của mình. Nếu anh ta bắt
đầu ở một vị trí quyền lực lớn như vậy, và
sau đó ông điên loạn vì các cô con gái quay
sang chống lại ông, hẳn phải có một lý do
nào đấy… và lý do duy nhất phải nằm
trong hành vi quá khứ của ông. Ông ấy
phải là một bạo chúa khủng khiếp khi bắt
đầu vở kịch. Và các cô con gái của ông
phải học được từ ông điều ấy”21. Có thể
thấy, Kurosawa đã tiếp cận bi kịch của
Shakespeare trên tinh thần đối thoại.
Những hoài nghi, những trăn trở của
Kurosawa thông qua việc tiếp nhận vở kịch
Vua Lear không phải không có lý. Khi
bước vào vở kịch, người ta không biết gì
về vua Lear, không biết tại sao vị vua già
với nhiều năm kinh nghiệm trên ngai vàng,
với quyền lực cao quý như vậy lại không
phân biệt được lời nào là nịnh bợ, lời nào
là chân thật để dẫn đến sai lầm trong việc
đánh giá tình cảm của những cô con gái.
Bên cạnh đó, cách ứng xử của các cô con
gái đối với ông có phải là do học theo sự
bạo tàn của ông hay không bởi nếu các cô
có một vị cha tốt, sẵn sàng chia sẻ giang
sơn cho mình thì tại sao lại đối xử với vua
cha như thế? Chính vì mang theo những
hoài nghi đó, Kurosawa đã quyết định cải
biên Vua Lear để giải tỏa nỗi niềm chất
chứa trong lòng.
Việc Kurosawa đi tìm nguyên nhân
dẫn đến bi kịch của vua Lear là do ông bị
ảnh hưởng bởi triết lý nhân – quả của Phật
giáo. Hậu quả mà vua Lear gánh chịu ngày
hôm nay, ắt hẳn phải do cái “nghiệp” trong
quá khứ tạo sinh. Cái nghiệp ấy đáng sợ
hơn khi sự độc ác từ quá khứ của vua Lear
in hằn lên các con của ông, những người có
quan hệ tương sinh với ông và đồng thời
lại in hằn lên kẻ thù của ông, những người
có quan hệ đối kháng với ông. Như vậy,
việc đánh tráo cốt truyện, phân đôi hai hệ
thống nghiệp báo mà vua Lear phải gánh
chịu là cách mà Kurosawa đã khai thác rất
triệt để quan điểm nhân – quả và nghiệp
báo luân hồi của đạo Phật.
Bên cạnh đó, mỗi bộ phim được cải
biên cũng chính là một đại diện văn hóa
được tạo tác nên nó liên quan đến câu hỏi
tại sao nó lại được tạo ra và có ý nghĩa như
thế nào? Nghiên cứu văn hóa sẽ đem đến
câu trả lời cho câu hỏi tại sao tác giả cải
biên lại phải cắt bỏ những chi tiết như thế
từ tác phẩm gốc. Ví dụ như, trong tác phẩm
Cuộc đời của Pi của Yan Martel, tác giả đã
dành rất nhiều trang để mô tả câu chuyện
con hổ ăn thịt một người đàn ông mù khi Pi
ở trên thuyền và gặp ông ta ở chiếc thuyền
đối diện. Câu chuyện này sau đó cũng
được Pi kể lại thành một kiểu khác, trong
đó nhân vật con hổ đã biến thành. Đây là
chi tiết quan trọng trong tác phẩm để thấy
rõ sự khắc nghiệt của Pi khi ở trên chiếc
thuyền có con hổ Bengal và nguy hiểm
luôn rình rập bất cứ lúc nào nhưng trong bộ
phim cải biên, đạo diễn điện ảnh đã cắt bỏ
đi chi tiết đó. Điều này, một phần xuất phát
24
từ quan điểm văn hóa của Lý An mà có thể
là được di truyền từ “các chuẩn mực xã
hội”, “biểu hiện những thiên hướng sinh
học ăn sâu vào các gien con người”22.
Ngoài việc bị kiểm duyệt bởi chính
người cải biên, tác phẩm cải biên còn bị
các cơ quan văn hóa kiểm duyệt khi bộ
phim được trình chiếu công khai và được
lưu truyền như một sản phẩm văn hóa. Sự
kiểm duyệt lần thứ hai này sẽ khiến cho bộ
phim hai lần chịu sự thiệt thòi, trong đó sự
thiệt thòi sau phải gánh chịu hậu quả nặng
nề hơn. Sự thiệt thòi đầu tiên là người cải
biên, vì một số quan điểm đạo đức, văn hóa
của xã hội hiện thời mà phải kiểm duyệt,
cắt bỏ và có sự lựa chọn các chi tiết từ tác
phẩm văn học cho phù hợp. Tuy nhiên, vì
sự tự kiểm duyệt này mà người cải biên có
thể sáng tạo ra những tình tiết, chi tiết khác
phù hợp hơn để thay thế và đôi khi nó lại là
mảnh đất ươm mầm sáng tạo. Thế nhưng,
sự kiểm duyệt lần thứ hai thì đem đến kết
quả ngược lại. Đó là các nhà làm phim bắt
buộc phải cắt bỏ một số chi tiết không phù
hợp với quan điểm văn hóa, xã hội, chuẩn
mực đạo đức hiện thời khi trình chiếu công
khai hoặc lưu hành. Trong điện ảnh, mỗi
cảnh, mỗi hành động, mỗi chi tiết đều có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Dưới bàn tay của
một nhà làm phim tài hoa, không bao giờ
có chỗ cho những điều “dư thừa”. Do đó,
các chi tiết bị cắt đi sẽ làm cho tính nghệ
thuật và những tạo dựng “có ý đồ” riêng
của nhà làm phim bị mất. Kết quả, sẽ dẫn
tới những diễn giải sai lệch nếu khán giả
không được xem tác phẩm đầy đủ.
Một bộ phim cũng giống như một văn
bản văn hóa, một sản phẩm mang tính đại
diện nên khi nghiên cứu cũng cần phải
tránh khuynh hướng giản luận hóa. Thế
nên, khi nghiên cứu một bộ phim được cải
biên theo hướng văn hóa cũng cần phải có
sự phối hợp giữa các yếu tố như nơi ra đời
của bộ phim, giới tính của nhà làm phim,
đề tài, nhân vật chính của phim… Những
yếu tố này hợp lại với nhau sẽ giải mã được
tư tưởng, chủ đề của nhà làm phim, đồng
thời thấy được những ảnh hưởng mang tính
văn hóa của nhà làm phim và bộ phim của
họ. Chẳng hạn, khi xem phim “Rừng Na
Uy” Trần Anh Hùng, nếu người ta giải mã
bộ phim từ góc nhìn của một đạo diễn Việt
kiều thì cách giải mã đó sẽ hoàn toàn thất
bại. Người xem phải biết kết hợp phong
cách phim Trần Anh Hùng với phông nền
văn hóa Nhật Bản, và chủ đề của tác phẩm
văn học mà Trần Anh Hùng tiếp nhận để
thấy được vì sao Trần Anh Hùng lại sắp
xếp khuôn hình các nhân vật chông chênh,
hiểu được vì sao đằng sau những khuôn
hình tuyệt đẹp lại ẩn chứa sự chết chóc, giải
mã được sự song hành của yếu tố nước và
lửa, nóng và lạnh trong bộ phim.
Giống như bản sắc trong nghiên cứu
văn hóa, phong cách làm phim của người
cải biên cũng cần được chú ý. Đó là những
nét độc đáo mang thương hiệu riêng của nhà
làm phim, khiến cho bộ phim dù có phải là
cải biên hay không cũng tạo ra được sự
khác biệt và mang dấu ấn tác giả rõ nét. Nhà
làm phim có thể thực hiện quyền bá chủ đối
với tác phẩm của mình, xây dựng bản sắc
riêng cho tác phẩm để nó hoàn toàn thoát
khỏi cái bóng của tác phẩm mà nó cải biên.
Văn bản văn hóa trong bối cảnh hậu
hiện đại hoài nghi toàn bộ tính ổn định, sự
thật của ngôn ngữ. Tác phẩm cải biên theo
đó cũng có quyền chất nghi lại tác phẩm
mà nó cải biên. Nhà làm phim từ đó có thể
sáng tạo lại tác phẩm cải biên theo quan
điểm văn hóa của riêng mình. Khi một tác
phẩm văn học cũng là một văn bản văn
hóa, nhà làm phim cũng sẽ có vai trò như
một độc giả đặc biệt. Vị độc giả này sẽ có
cách giải mã văn bản văn hóa riêng của anh
ta và chia sẻ cách giải mã ấy thông qua bộ
25
phim của mình. Từ bộ phim này, một văn
bản văn hóa mới ra đời.
Như vậy, nghiên cứu văn hóa trong
phim cải biên không phải là nghiên cứu các
sản phẩm văn hóa thể hiện trong bộ phim
mà chính bản thân bộ phim cải biên ấy là
một sản phẩm văn hóa, một văn bản văn
hóa. Nghiên cứu cải biên sẽ xem xét văn
bản văn hóa này trong bối cảnh xã hội cụ
thể, sự tự điều chỉnh của văn bản văn hóa,
tính diễn ngôn của nó và sự thể hiện quyền
lực của nhà làm phim.
Practice, SAGE Publications, UK and USA
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
17
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
18
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
19
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
20
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
21
Peter Grilli (1985) “Kurosawa Directs a Cinematic
Lear” New York Times 15 Dec. 1985: 1, 17
22
Dominique Guillot (Tân Phong lược dịch) (2009),
“Thuyết Darwin mới về văn hóa xã hội”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật số 298, tháng 4-2009
16
Chú thích
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
/>2
Trần Ngọc Thêm, (2013), Những vấn đề văn hóa học
– Lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP
Hồ Chí Minh
3
/>%91%E1%BB%93ng
4
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
5
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
6
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
7
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
8
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
9
Trần Thị Bích Điệp (2009), “Văn hóa hip hop”, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật số 304, tháng 10 năm 2009
10
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
11
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
12
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
13
Happer Lee, (2008), Giết con chim nhại, Nxb Văn
học, Hà Nội
14
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
15
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Ngày nhận bài: 07/6/2015
1. Chris Barker, (2007), Cultural Studies:
Theory and Practice, SAGE Publications, UK
and USA.
2. Triệu Thanh Đàm (2009), “Michael Jackson
và nền văn hóa ảo phản nhân loại”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 304, tháng 10-2009.
3. Trần Thị Bích Điệp (2009), “Văn hóa hip
hop”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 304,
tháng 10 năm 2009.
4. Dominique Guillot (Tân Phong lược dịch)
(2009), “Thuyết Darwin mới về văn hóa xã
hội”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 298,
tháng 4-2009.
5. Happer Lee, (2008), Giết con chim nhại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
6. Peter Grilli (1985) “Kurosawa Directs a
Cinematic Lear” New York Times 15
Dec. 1985: 1, 17.
7. Trần Ngọc Thêm, (2013), Những vấn đề văn
hóa học – Lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa
- Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
8. />C3%B3a
9. />ng_%C4%91%E1%BB%93ng
Biên tập xong: 15/8/2015
26
Duyệt đăng: 20/8/2015