Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Cảm nhận về âm hưởng văn học dân gian qua bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.91 KB, 8 trang )

Đề  bài: Cảm nhận về  âm hưởng văn học dân gian qua bài thơ  Thương Vợ  của  
Trần Tế Xương
Bài làm
Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn, sự biết ơn  
sâu sắc công lao bà Tú:
“Quanh năm buồn bán ờ mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để  nuôi con và nuôi mình. Cách nói đáng lưu ý. Một  
năm có 365 ngày. Chả nhẽ bà chạy chợ hết cả 365? ít nhất bà cũng có mấy ngày nghỉ Tết  
nhất giỗ chạp hoặc về bên ngoại thăm bố mẹ, em út… nhưng ở đâỵ  ông Tú vẫn tính tất 
cho bà trọn 365 ngày, trọn cả  quanh năm, mà “quanh năm” tức là “quanh nam” rồi lại  
“quanh năm”… Cách nói như  là sự  xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong  
trường hợp này chính là sự  bày tỏ  lòng biết  ơn bà Tú một cách triệt để. Người dân lao  
động xưa, muốn nói cảnh làm ăn cơ  cực của mình – cũng một cách triệt để  để  tạo ra  
thành ngữ “quanh năm tận tháng” bên cạnh thành ngữ “đầu tắt mặt tối”. Ông Tú học cách 
nghĩ, cách nói đó của quần chúng để  ghi công lao của bà Tú về  mặt thời gian lao động.  
Còn cái nơi mà bà Tú buôn bán? – “ở  mom sông”. Có người ghi chú rằng: “Mom sông là 
nơi đất nhô ra sông(?).Mom sông Vị là vùng đất gần làng Phù Long, ở chỗ nhà máy nước 
thành phố Nam Định bây giờ”, Có người còn cho biết thêm: Mom sông Vị là nơi đầu chỗ 
sông Vị  Hoàng chảy thông ra sông Nam Định. Thời sông Vị  Hoàng chưa bị  lấp thì mom 
sông này là nơi buôn bán của bà con tiểu thương, thuyền bè qua lại hay đậu ờ đấy. Bà Tú  
có ngôi hàng buôn chung gạo với người khác  ở  mom sông đó. về  sau, sông Vi Hoàng b
̣
ị 
lấp. Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như  Xuân Diệu nhận xét (ngay  
khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom là cheo leo, chênh vênh chứ không phải ở một cái  
bến ngang sông tấp nập bình thường. Cảnh ngộ làm ăn như  thế  mà bà Tú vẫn “Nuôi đủ 
năm con với một chồng”. Tất cả những sáu miệng ăn, trừ bà Tú chưa tính. Thành tích này, 
nói là bà Tú tân t
̀ ảo vất vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì cũng là tần tảo vât v
́ ả, cũng là vị 


tha, cao cả hết mực. Nhưng  ở đây, nói sự việc là bất công, vô lí thì củng là hết mực vô lí  
bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải nuôi chúng nó khôn lớn. Trách nhiệm 
đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi, Nhưng anh chồng “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng  


cày vợ  cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì  ở đây làm gì có. ông Tu không ph
́
ải loại chông đó,
̀
 
Ông là loại chồng “Tiền bạc phó cho con mụ  kiếm” loại chông “Th
̀
ưng đấu nhờ  lưng 
một mẹ  mày”, ông Tú không cùng bà nuôi con đã đành. Mà như  có kẻ  ác khẩu đã châm  
biếm: ông còn là một “thứ  con” đặc biệt để  bà Tú phải nuôi riêng! Đoảng thế  là cùng! 
Chế độ xah̃ ội cu đa san sinh ra lo
̃ ̃ ̉
ại ông chồng đoảng, loại ông chổng “dài lưng tốn vải,  
ăn no lại nằm” như ông Tú không ít.
Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù 
lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ  của Tú Xương trở  nên dễ  thương  ở  điểm  
này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã  
đành, mà còn là nuôi mình, nói theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng 
miệng, lại như  vừa nói vừa tủm tỉm cười, tự  trách sao mình vô tích sự, lại để  vợ  phải  
nuôi. Việc nuôi chồng của bà Tú, có thể  là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm  
hai bữa; cả  kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là sung sướng,  
chắc còn xa sự  sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không dám đòi hỏi gì hơn. Ông đã 
thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và do  
như  thế  mà ngay trong cặp thơ  đề, hình  ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp vô  
cùng. Cả đám cha con ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà con đang  

được “mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà thân tình đến 
kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, nói như 
nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu. Ông Tú không gộp sáu cha con lại  
mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một chồng” riêng. Như thế là vì con ơn mẹ là chuyện  
con với mẹ đã đành. Còn phần ông, ông chịu  ơn vợ  thì ông phải nói riêng ra cho thật rõ,  
nói riêng ra để khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý thơ, ông không tính đến bà 
Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Không tính đến bà thì cái lòng vị 
tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri ân của ông – thay mặt cả lũ trẻ con 
năm đứa nữa – đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà Tú. Chẳng hay ông  
Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ  sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ 


non”, từ  bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà mẹ  láng giềng hay chính là ru Trần Tế 
Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ 
Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng  
con cũng từ  lâu đã đi vào hồn thơ  giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa  
thương cảm. Để  giờ  đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò  ấy bỗng vụt dậy vỗ  cánh 
bay và thi hứng “Thương vợ” của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con cò lặn lội bờ sông”,  
trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ  sông. Khung cảnh đã mênh  
mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú, có cái rợn ngợp của không gian, lại còn 
thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như  thế, dễ 
thường mất đi cái hoang vắng của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ. Ca dao  
nói: “Con cò lặn lội”. Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn lội” chen  
lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương nói “thân 
cò”. Ý thơ  cứ  xoáy sâu vào sự  cực khổ. “Thân” trong ngôn từ  văn chương tiếng Việt  
trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”. (Truyện 
Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người “Thân này ví đổi thành trai được,  

sự  nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” – Hồ  Xuân Hương: “Thân lươn bao quản lấm đầu,  
chút lòng trinh bạch từ  sau xin chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong văn học xưa là 
đau khổ, là ê chề, tủi cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ ngôn ngữ có độ dày 
của giời gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không “khóc nỉ  non”. Bởi  ở 
đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng đau. Câu thơ đó vẫn bị rỉ 
rả  tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Tú Xương đã nâng cái tầm 
khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một mức để  nói cho hết tấm lòng thương 
cảm da diết của mình đối với cuộc đời làm ăn vất vả  của bà Tú. Câu thơ  trở  thành như 
một bức họa phác thảo về  một người dàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình  
kiếm sống giữa cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm khuya để  nuôi chồng nuôi  
con giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi nghĩa tình đã bạc quá vôi, chính  
là người đàn bà trong bức họa phác thảo đó.
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái vất vả, cái cô đơn. 
Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có chuyện đụng chạm đến người 


chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú thích: “Cứ  buổi trưa hay chiều có chuyến đò  
chở  những người đi buôn gạo  ở  những chợ  Thông, chợ  Quán (bên kia bên Tân Đệ) về 
quán bánh dày ở đầu tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là “Mom”, những  
người này thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú thích: “Eo sèo là kỳ 
kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh cuớp giật gì nhau ghê  
gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong bọn thống trị với nhau và 
giữa bọn thống trị  đối với dân lao động bị  áp bức trong xã hội đó. Cảnh làm ăn của lớp  
tiểu thương như  bà Tú với nhau trong xã hội cũ về  bản chất không có như  vậy.  Ở  đây, 
trước hết, chỉ  mới là sự  chen chúc. Vì cái sống mà phải chen chúc. Chen chúc với nhau  
trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi 
quá chừng! Và dường như  sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ  chơi vơi, 
mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Và tội nghiệp bà Tú. Hẳn đã có lần  
bà nghe mẹ dặn: “Con  ơi, mẹ dặn câu này, sông sâu chớ  lội đò đầy chớ  khoan sang” (ca  

dao).
Ấy thế  mà bây giờ, vì cuộc sống của chồng con mà con gái của mẹ  vẫn bất chấp, vẫn  
phải liều lĩnh để  sang sông “buổi đò đông”. Lời mẹ  dặn, có thể  vì cuộc sống mà quên. 
Hoặc nhớ nữa, nhưng biết làm sao hở mẹ? Cuộc sống trong xã hội bất công khắc nghiệt 
với con người đến thế. Bọn bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng, sống trên mồ hôi nước mắt của 
người bị trị.
Người dân lao động luôn luôn bị cái quy luật cạnh tranh sinh tồn, đặc biệt là cái quy luật 
bần cùng hóa của chế độ thực dân nửa phong kiến uy hiếp, nên lắm lúc vì cái ăn cái mặc 
hàng ngày của gia đình mà buộc phải liều lĩnh, phải bực dọc, phải cau có, phải mè nheo, 
phải chen lấn… thì cũng là điều thường tình, dễ hiểu và đáng thương hơn đáng trách. Sự 
tha hóa của con người có khi chính là bắt đầu từ những dấu hiệu đó. Tú Xương nhận biết 
sâu sắc cái hiện thực phũ phàng, bất nhân đó mà càng xót xa thương vợ  khi viết câu thơ 
trên:
“Một duyên hai nợ âu đành phận.
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Trong  ấn tượng của ông Tú, kiếp sống của bà Tú thật là căng thẳng, nặng nhọc. Một  
cuộc đời, một kiếp sống như thế mà không sinh ra vật vã, dằng dặc với nó sao chịu được. 


Tú Xương nói chuyện ông bà lấy nhau, chuyện bà Tú lấy ông Tú. Kể  cũng là cái duyên,  
về tư cách làm chồng thì quả là ông còn nhiều khuyết điếm. Nhưng chẳng gì thì ông cũng 
có chân Tú Tài để may khỏi tiếng “cha cu”. Ông cũng hào hoa, cũng duyên dáng, cũng thơ 
phú lừng danh, đặc biệt là đối xử  với bà Tú cũng tử  tế, cũng nhiều lúc đùa vui, tình tứ.  
Còn về đường con cái, thì “Trời cho” cũng “năm con” rồi. Một cảnh chồng con như thế,  
bình thường không đáng gọi là duyên sao. Nhưng  ở  đây, sao đã nói đến “một duyên” rồi 
lại nói đến “hai nợ”? Nghe lại nặng nề, chua chát, éo le, thậm chí còn như dằn vặt, vật vã  
nữa. Trước hết có vấn đề chữ nghĩa nên hiểu thế nào? “Một duyên hai nợ”, một hai là số 
chỉ  thứ  tự  hay số lượng? Có lẽ  cái âm hưởng dằn vặt của câu thơ  này và cả  cái lối nói 
cũng theo kiểu tăng cấp, bồi thán (năm nắng mười mưa) trong luật đối của câu thơ  sau,  
dễ khiến ta hiểu theo nghĩ thứ hai. Và như thế thì ý thơ muốn nói: duyên thì có một mà nợ 

lại thành hai. Trở lại nguồn gốc xa xưa của chữ nghĩa thì đúng là giáo lý của đạo Phật đã 
nói đến túc trái tiền duyên. Đạo Phật – quan niệm rằng sự vật, con người có quan hệ với 
nhau ví như vợ chồng lấy nhau là do có cái duyên từ kiếp trước. Và như thế thì cái duyên  
cũng là cái nợ  từ  kiếp trước mà con người  ở  kiếp này phải trả. Duyên và nợ, theo quan  
niệm đó của đạo Phật thành ra như một. Trong văn học chịu ảnh hưởng của đạo Phật, từ 
lâu cũng nói đến duyên nợ “Ví chăng duyên nợ ba sinh, làm chi đem thói khuynh thành trêu  
người”. (Truyện Kiều). Nhưng cũng từ lâu, trong văn học và trong ngôn ngữ  dân gian đã 
có hiện tượng dân gian hóa quan niệm về duyên nợ theo hướng làm mờ nội dung triết lý  
siêu hình của nó và muốn tách duyên riêng nợ  riêng. Nói đến duyên là nói đến sự  may  
mắn, thuận chiều. Nói đến nợ là nói đến sự đau khổ, phải chịu đựng. Ở Tú Xương trong 
trường hợp này, xu hướng dân gian hoá đó dường như  dẫn đến một sự  tách chia đã khá  
rạch ròi duyên và nợ. Câu thơ  của Tú Xương muốn nói: Cuộc đời của bà Tú “duyên” thì  
có một mà “nợ” thì đến hai, nghĩa là một cuộc đời oái oăm, cay đắng mà đành cam phận.  
Tú Xương thương xót cho cuộc đời đó mà thành ra dằn vặt thay, vật vã thay. “Một duyên 
hai nợ âu dành phận”. Âm hưởng của câu thơ đúng là âm hưởng dằn vặt, vật vã. Và nói là  
“đành phận” thì đúng lại là vừa cam chịu vừa như không muốn cam chịu. Cái ý có vẻ như 
ngược chiều nhau này chính là tâm trạng của Tú Xương trong khi nghĩ đến cuộc đời của  
bà vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và tâm trạng chủ quan thương vợ của ông Tú xen 
lẫn trong ý thơ. Hai câu luật vừa nổi lên hình ảnh bà Tú vị tha, cao cả vừa ngầm chứa ý  


nghĩa tố cáo xã hội đương thời, cái xã hội ma quái đã dồn những con người chịu thương 
chịu khó như bà Tú đến bước cơ khổ, quằn quại, có duyên mà không vui được với duyên.  
Duyên có một mà nợ những là hai, vui sao được.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Không vui được, đã đành. Còn phải phát khùng lên với nó. Bài thơ  đã kết lại bằng một 
tiếng chửi mát. Nhìn cuộc đời bà Tú như thế, có chửi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng ở dây,  
ai chửi, chửi ai? Và chửi cái gì? Thì vẫn là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho 
bà Tú. Chứ  bà Tú mà dư  luật thành Nam đã hằng khen là chịu thương chịu khó, tần tảo  

nuôi chồng nuôi con, bà Tú “năm nắng mười mưa dám quản công” hẳn có bao giờ  lại 
chửi như thế. Ông Tú đã chửi mát chính ông Tú về  cái tội “ăn ở  bạc”, cái tội làm chồng  
mà “hờ hững cũng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ nghìn cực như thế! “Có 
chồng hờ hững cũng như không” chữ nghĩa của Tú Xương ở đây lại cũng buột ra quá cái 
mức tự  nhiên và giản dị  nhưng ý tình lại cũng sắc biết bao nhiêu, cảm động bao nhiêu.  
Ngày trước, Thúy Kiều trong buổi trao duyên, tự  nhiên cứ cố buộc vào mình cái tội phụ 
chàng Kim Trọng “Vì ta khăng khít cho người dở dang”, “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ 
đây” (Truyện Kiều) mà thực ra, Kiều đâu có phụ. Ở đây, Tú Xương đối với bà Tú, nói là  
không giúp đỡ  bà Tú được gì thì đúng, chứ nói “ăn  ở bạc” với bà Tú thì đâu đã đến thế.  
Và nói là “hờ hững” thì cũng một mặt thôi, chứ đâu tất cả là “hờ  hững”, đến mức là kết 
tội là “ăn ở bạc”. Đúng là giữa Thúy Kiều và Tú Xương, hai cảnh ngộ khác nhau rất xa,  
nhưng nhân cách lại có mặt giống nhau. Đó là nhân cách của những con người biết yêu 
thương cho người khác hơn mình biết nghĩ cho người khác hơn mình. Thúy Kiều là cho  
người yêu. Tú Xương là cho bà vợ. Tú Xương càng thương, càng nghĩ đến bà Tú bao  
nhiêu thì càng thấy mình “ăn ở bạc, càng thấy mình “hờ hững” bấy nhiêu. Đọc đi dọc lại 
câu thơ cứ thấy nhói lên một lời tự phán, một lời thương cảm của ông Tú. Nhớ lại xã hội  
thời ông Tú, trong tầng lớp của ông (thậm chí cả  trong nhân dân lao động một phần) có 
khối gì anh chồng lêu lổng chỉ  quen hách dịch, ăn bám vợ, không thỏa mãn thì giở  trò dã 
man đánh vợ. Ít tệ bạc hơn thì cũng ăn bám vợ mà chẳng bao giờ biết nghĩ mình ăn bám.  
Người vợ  đối với họ, thực tế  đã bị  biến thành một thứ  “nô lệ”, một thứ  nô lệ  đặc biệt, 
một thứ nô lệ  mà không bị gọi là nô lệ, vẫn được gọi là bu nó, bà nó, thế  thôi. Cho nên,  


thái độ, tình ý của thơ  của Tú Xương  ở  đây quả  là đáng quý, khiến cho mọi người dễ 
cảm thông.
Tú Xương tự phán, tự rủa mà vô hình trung lại để lộ rõ thêm nhân cách của mình, mà vô 
hình trung lại tự rũ bỏ được con người phong kiến, con người Nho gia trong mình để cho  
một Trần Tế Xương ân tình, một Trần Tế Xương nhân ái, một Trần Tế Xương nhân dân 
hiện lên, đáng quý biết bao nhiêu. Nhưng  ở  đây, Tú Xương chửi mình đã đành, lại còn 
chửi lây sang cả cái “thói đời” cái “thói đời ăn ở bạc”. Trong cái “thói đời ăn ở  bạc” ấy,  

có anh “chồng hờ  hững cũng như  không” là ông Tú, nhưng còn bao nhiêu thứ  khác đáng  
chửi hơn. Cái tiếng chửi của Tú Xương lại chính là muốn hướng vào cái “thói đời ăn ở 
bạc” nói chung đó. Nghe lại tiếng chửi của Tú Xương. Đúng là ông đang thay bà Tú mà  
chửi cả cái “thói đời ăn ở bạc”, nghĩa là cả cái xã hội thực dân nửa phong kiến bất nhân 
đương thời. Cái xã hội đó đẻ ra cái thói đời đó. Cái thói đời đó là bạc bẽo, là đểu cáng, là  
chen lấn, là cướp giật, là sống chết mặc bây… để những người lương thiện như vợ ông 
Tú, tần tảo mà vẫn đói nghèo, thương chồng con mà thành khổ  cực, có duyên mà không  
vui nổi với duyên. Cái “thói đời” đó, Tú Xương không chửi vung lên sao yên. Tú Xương là  
bậc “thần thơ”, “thánh chữ”. Tú Xương chỉ  chửi một tiếng, có vẻ  như  chửi mát, chửi  
bâng quơ, chửi cái anh “chồng hờ hững” là mình, mà hóa ra lại là chửi cả cái xã hội, chửi 
cả cái đời bấy giờ. Nói chữ nghĩa nhưng chính là nói thái độ. Vấn đề bài thơ đặt ra không  
chỉ còn là vấn đề thái độ của Tú Xương đối với người vợ của mình mà đã mở rộng sang  
vận đề thái độ của Tú Xương đối với xã hội. Vai trò của các câu kết trong thơ Tú Xương 
thường làm nhiệm vụ  nâng cao, mở  rộng ý nghĩa xã hội của nội dung thơ  như  vậy. Nói  
kết nhưng lại là mở, chính là như vậy.
Bài thơ  Thương vợ  là tất cả  tấm lòng biết  ơn sâu sắc, là niềm thương cảm da diết của  
Tú Xương đối với cuộc đời cần mẫn, nhân ái nhưng vất vả  cực nhọc của bà Tú. Mặt 
khác, cũng là sự tự  phán, sự hối hận rất mực chân thành của Tú Xương về  những thiếu  
sót của mình đối với vợ, và đặc biệt cũng là thái độ của Tú Xương oán đời, giận đời bạc  
bẽo, gây khổ  cực cho những người chân chính như  bà Tú. Cảm xúc nghệ  thuật của Tú  
Xương vừa có cái độ dày của cảm xúc truyền thống, của nhân dân, của văn học dân gian,  
vừa nóng hổi cái cảm hứng thời cuộc của ông. Qua bài thơ  Thương vợ, hiện lên một bà 
Tú chưa phải là một bậc nghĩa liệt, nhưng là một người vợ, một người mẹ Việt Nam với  


bao nhiêu phẩm chất cao quý: Chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả  cho chồng cho con  
mặc dù cuộc đời phải ngược xuôi tất tả, tủi nhục, đắng cay. Thơ Thương vợ của ông Tú, 
chữ nghĩa giản dị mà ý tình lại sâu nặng.
Đặt bài Thương vợ  vào trong lịch sử thơ  cả cũ mà đối chiếu, lại càng thấy nó đáng quý 
bao nhiêu. Suốt thời đại phong kiến, trong văn học viết, hỏi đã mấy ai trực tiếp làm văn 

thơ  về  người vợ  của mình, trừ  lúc vợ  chết mà họ  thường làm văn tế. Hai trường hợp;  
Ngô thi sĩ viết “khúc ai lục”, Phạm Nguyễn Du viết “Đoạn trường lục” là quả  đặc biệt 
mà chính hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII đã cho phép. Sự sụp đổ tan tành của chế độ 
phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, sự trỗi dậy mãnh liệt của trào lưu tư  tưởng nhân đạo 
chủ nghĩa của quần chúng, đã đề ra “Đoạn trường lục” và “Khúc ai lục”. Nhưng sao đó,  
trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ XIX cũng không còn những tác phẩm như  vậy ra đời  
nữa. Trước sau Tú Xương một ít, có Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội  
Châu, đều có thơ  văn khóc vợ. Có nhiều trường hợp khá chân thành, thắm thiết, nhưng 
nói chung vẫn chưa ai làm thơ  văn về  vợ, đặc biệt là khi vợ  chồng đang sống với nhau  
kiểu Tú Xương. Phải chăng hệ  ý thức phong kiến đã không cho phép những bà vợ  Việt  
Nam xưa trở  thành đề  tài trong thơ  văn của chính những ông chồng của họ?  Ở  phương 
diện này, có lẽ Tú Xương thành ra một trường hợp mới mẻ, độc đáo của văn học. Bài thơ 
“Thương vợ” cũng thành ra một hiện tượng đặc sắc, quý báu của lịch sử văn học dân tộc.



×