Đề bài: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong bài Chiếu cầu hiền của Ngô
Thì Nhậm
Dàn ý chi tiết
1/ Mở bài
Giới thiệu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, hình tượng vua Quang Trung: Qua bài
chiếu, ta thấy được tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của đức minh quân
Quang Trung.
2/ Thân bài
Vua Quang Trung nhận thức được tầm quan trọng của người hiền tài: người hiền tất
phải do thiên tử sử dụng
Ông nhìn nhận được những khó khăn trong việc thu phục người tài: những kẻ lúc đất
nước có nhiều biến cố vẫn giữ vững khí tiết
Lòng mong mỏi và tha thiết chiêu mộ người tài: mong đợi người hiền tài, chăm chú lắng
nghe những lời của người hiền
Cách nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung: xây dựng nền thái bình không chỉ mưu
lược của một kẻ sĩ
Tấm lòng vì dân vì nước của nhà vua: dân dân thì đang “khốn khổ còn chưa hồi sức
Sự công bằng nghiêm minh trong chính sách chiêu mộ người tài: Ai có tài năng học
thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc
3/ Kết bài: ý nghĩa hình tượng vua Quang Trung: một tư tưởng tiến bộ, đúng đắn và
trung thực, tâm huyết, sự chân thành và nhân cách cao đẹp của vua Quang Trung.
Bài tham khảo
“Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được viết bởi Ngô Thì Nhậm không chỉ mang giá
trị của một bài chiếu mà đó còn là tác phẩm có giá trị văn học. Tác phẩm được viết ra
nhằm kêu gọi, thuyết phục người hiền, sĩ phu Bắc Hà ra phụ giúp vua cùng xây dựng đất
nước ấm no giàu mạnh. Qua bài chiếu, ta thấy được tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn
xa trông rộng của đức minh quân Quang Trung.
Chiếu cầu hiền ra đời là một lời kêu gọi tha thiết người hiền tài ra giúp nước, ngay phần
mở đầu, ta đã thấy được quan điểm về người hiền – kẻ sĩ đời xưa của vua Quang Trung:
“người hiền ở trên đời như sao sáng ở trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người
hiền tất phải do thiên tử sử dụng”, nhà vua nhận thức được và khẳng định tầm quan
trọng của người hiền đối với vận mệnh đất nước. Nhưng cũng thấy được thực trạng
những khó khăn khi thu phục người hiền, những kẻ lúc đất nước có nhiều biến cố vẫn
giữ vững khí tiết, như “ngựa đứng trong hàng nghi lễ”, hay như “bậc cao ẩn giấu kín
danh tiếng không xuất hiện suốt đời”.
Tuy không phê phán cũng không ngợi ca nhưng đã khẳng định rằng “nếu giấu mình ẩn
tiếng, có tài mà không để cho đời dùng thì không đúng với ý trời sinh ra người hiền”. Đối
với nhà vua, người có hiền tài là phải đem tài đó ra giúp đời, giúp người, phục vụ tổ quốc.
Vua Quang Trung sớm hôm mong mỏi người hiền tài “trẫm hiện đương ngồi bên mép
chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”, nhà vua không ngồi ở chính giữa mà chỉ
ngồi ở “mép chiếu” để mong đợi người hiền tài, chăm chú lắng nghe những lời của
người hiền. Đoạn văn đã cho thấy sự mong mỏi tha thiết cháy lòng của vua Quang Trung
đối với những kẻ sĩ. Nhà vua coi trọng người hiền tài như vậy bởi vì ông biết đất nước
có thịnh được hay không là nhờ vào họ, nhà vua biết nhìn xa trông rộng, mang một tấm
lòng của bậc minh quân đêm ngày một nỗi lo vì nước vì dân. Câu hỏi của vua Quang
Trung: “Hay trẫm là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá hay chăng?”,
mang một nỗi tha thiết, khiến cho người đọc xúc động mà thiêng liêng, nhà vua đã tự phán
xét mình, suy ngẫm về chính mình, câu hỏi ấy như rút ruột giãi bày một cách chân thành
đáng để người đời ngợi ca.
Lo cho đất nước khi còn đang trẻ tuổi “mọi sự đang bắt đầu”, “kỉ cương triều đình còn
nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan” và dân dân thì đang “khốn khổ
còn chưa hồi sức, việc giáo hóa đạo đức chưa thấm nhuần”. Bài chiếu đi sâu vào tấm
lòng con người bởi chính tấm lòng chân thành của nhà vua, khiến cho người nghe xúc
động, tự chất vấn lại mình và khơi dậy lòng quyết tâm đem tài mình ra góp sức chung xây
dựng non sông đất nước. Những câu hỏi ấy của vua Quang Trung còn thể hiện niềm tin
vào dân “Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây, xây dựng nền thái bình
không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”. Nhà vua coi trọng sự đoàn kết của toàn dân tộc, tinh
thần chung sức đồng lòng của nhân dân, cũng như khẳng định có những người tài kiệt
xuất hơn ông “trong một ấp mười nhà cũng có người trung tín, huống chi một đất nước
rộng lớn có truyền thống văn chương như thế”. Điều đáng ngợi ca trong bài chiếu đó là
sự công bằng trong việc trổ tài của mọi người: “Ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp
ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc”. Ông cho rằng, nhân tài là ở
khắp nơi, phải biết lắng nghe và khuyến khích họ, bài chiếu cũng là lời trấn an để những
người sĩ phu đang đứng giữa ngã ba đường kia có thể đặt niềm tin vào vị vua mới.
“Người có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người có lời lẽ không dùng
được thì để đây, chứ không bắt tội nói viễn vông, không thiết thực”. Ông còn cho phép
các quan được tiến cử người tài “tùy tài mà bổ dụng”. Tất cả đã cho thấy tình cảm của
Quang Trung không chỉ tha thiết kêu gọi người tài mà còn làm ấm lòng dân bởi những
chính sách công bằng nghiêm minh.
Bài “Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm chứa đựng tấm lòng cao cả đáng khâm phục và
ngợi ca của vua Quang Trung, một tư tưởng tiến bộ, đúng đắn và trung thực, tâm huyết,
sự chân thành và nhân cách cao đẹp của vua Quang Trung trong việc kêu gọi người hiền
tài ra giúp nước.