Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, giữa lối sống “ngất ngưởng với tâm niệm nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung có gì mâu thuẫn không? Phân tích bài thơ để nêu rõ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.84 KB, 4 trang )

Đề bài: Trong bài thơ  "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ, giữa lối sống  
“ngất ngưởng" với tâm niệm "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung" có gì mâu thuẫn  
không? Phân tích bài thơ để nêu rõ ý kiến của anh (chị)
Bài làm
"Bài ca ngất ngưởng" là bài thơ có vị trí đặc biệt trong văn nghiệp của Nguyễn Công Trứ.  
Nó vừa thể hiện cái tôi độc đáo của ông vừa là một tuyên ngôn sống đầy hào khí. Trong  
bài thơ, ông đã thể hiện rõ sự hòa hợp giữa hai lối sống tưởng như mâu thuẫn của mình: 
lối sống "ngất ngưởng" với tâm niệm "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung".
Lúc bình Tây cờ đại tướng
Bài ca ngất ngưởng ra đời vào năm 1848 khi Nguyễn Công Trứ đã dứt áo khỏi chốn quan  
trường. Ông viết bài thơ như lời tổng kết cho cuộc đời đầy sóng gió cho cuộc đời mình.
Bài thơ có tên: Bài ca ngất ngưởng. Điểm đáng chú ý là từ ngất ngưởng, chứ không phải  
là “bài ca” (cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng viết nhiều bài ca: Sa hành 
đoản ca (Bài ca ngắn “đi trên cát”, Đằng tiên ca (Bài ca cái roi song)...). Từ  ngất ngưởng 
vôn diễn tả trạng thái không vững, ở chỗ cheo leo, dễ đổ, dễ rơi. Đấy là lớp nghĩa thông  
thường, càng không phải  ở  trong trường hợp của Nguyễn Công Trứ. Đáng chú ý hơn,  
trong bài thơ, tác giả  sử  dụng tất cả  năm lần (kể  cả  tiêu đề). Hai lần đầu trong bài, từ 
ngất ngưởng xuất hiện ở cuối một khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh. Lần thứ nhất, kể từ 
khi ông Hy Văn đỗ  Thủ  khoa, rồi làm quan Tham tán và tới chức vụ rất cao (Tổng đốc), 
ông đã ngất ngưởng. Rồi khi bình Tây, lúc về  Phủ  doãn Thừa Thiên và tới ngày đô môn  
giải tổ, ông đều ngất ngưởng. Khi thực sự  cáo quan, sống cuộc sống bình thường, ông 
càng ngất ngưởng. So ra, trong triều, chẳng có ai ngất ngưởng như  ông. Như  vậy, ngất 
ngưởng là một thái độ, một phong cách sống của Nguyễn Công Trứ. Nó vượt lên muôn  
vạn người thường, nó cũng không Phật, không Tiên, không vướng tục. Nó là một cá nhân 
­ cá thể, là bản ngã của chính nhà thơ.
Có thể  nói, đây là bài thơ  duy nhất Nguyễn Công Trứ  trực tiếp thể  hiện thái độ, phong 
cách sống của mình. Sự  thể hiện đó chỉ  có thể  có được trên cơ  sở  một sự  tự ý thức sâu 
sắc về những giá trị của bản thân, về chốn quan trường và rộng hơn là cả xã hội thời bấy  
giờ. Điều này, trong văn học trung đại Việt Nam, khá hiếm hoi, nhất là với những nhà thơ 



tham gia vào chốn quan trường. Nói rộng hơn, những kiểu tự  ý thức như  Nguyễn Công 
Trứ  báo hiệu cho sự  đòi hỏi bức thiết về  sự  xuất hiện và khẳng định cái tôi trong văn  
học, cũng như ngoài đời. Hơn nữa, bài thơ  được Nguyễn Công Trứ  viết khi đã cáo quan 
về  nghỉ  và bước vào tuổi bảy mươi. Do đó, nó là sự  tổng kết, tự  đánh giá một cách 
nghiêm túc, sâu sắc của một người từng trải, chứ không phải nhất thời, bồng bột khi  ở 
tuổi thanh xuân.
Trong bài hát này, Nguyễn Công Trứ đã tự kể về mình, tự thuật, tự đánh giá về bản thân. 
Giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính một lần nữa cho thấy ông sòng phẳng, thẳng 
thắn và có ý thức rõ ràng về phong cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ tự hào vì đã có  
một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội:
Khi Thủ khoa, khi Tam tán. Khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Nhà thơ đã sử dụng thành công thủ pháp liệt kê, giọng thơ đầy hào sảng thể hiện niềm tự 
hào bởi suốt cuộc đời mình đã nắm giữ nhiều chức vị quan trọng, chủ chốt của triều đình. 
Đồng thời, ông cũng tự hào vì dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễ và danh giáo.
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Sau khi từ  quan, cách ông nghỉ và chơi cũng rất ngông, rất khác thường, ông đeo mo vào  
đuôi bò, ông dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, ông đi hát ả đào và tự đánh giá cao các việc 
làm  ấy. Ông có quyền ngất ngưởng vì ông về  hưu trong danh dự, sau khi đã làm được 
nhiều việc hữu ích cho dân cho nước. Theo ông, điều quan trọng nhất của nhà Nho là 
hoạt động thực tiễn chứ không phải là nếp sống uốn mình theo dư luận, ồng thích hát nói  
vì đó là môn nghệ  thuật ông say mê từ  nhỏ. Vì thế  khi về  hưu ông vẫn đi hát vì không  
muốn tỏ ra mình là một bậc phi phàm, khác đời như các thánh nhân. Chẳng những vậy, đi 



thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì". Rõ ràng 
trong bộ  dạng từ  bi Nguyễn Công Trứ  vẫn vương đầy nợ  trần, vẫn đèo bòng đằng sau 
mấy bóng giai nhân. Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là  ở  đó... Đó là lối  
sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để  ngạo  
đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm  
sống, triết lý sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được  
mất là lẽ  thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để  sống thảnh thơi, tự do, tự tại để 
hướng mọi lạc thú, cầm, kỳ, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế  một cách thoả 
thích:
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chè phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những cái đối lập nhau để thể hiện thái 
độ ngất ngưởng của mình.
Nhân vật trữ  tình xuất hiện trong tác phẩm là một con người có cá tính ngông, một con 
người đầy tự tin, yêu thích cuộc sống tự do tự tại, coi thường danh lợi. Con ng ười  ấy t ự 
tin vào tài năng và tin tưởng vào quan điểm sống của mình nên đã rất bản lĩnh vượt lên  
trên thói thường cuộc đời để sống và làm điều mình thích. Nhưng dù ngất ngưởng, ngông  
ngạo đến đâu, ông vẫn ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vì thế, sau 
những phút giây cao hứng, thả mình phóng túng cùng trời đất tự  do, ông vẫn không quên  
tự nhắc: “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Tư tưởng ấy không hề mâu thuẫn với cái  
ngông ngạo, ngất ngưởng của ông. Trên thực tế  Nguyễn Công Trứ  là một nhà Nho có  
trách nhiệm với đất nước. Tuy cuộc sông quan trường gặp nhiều lận đận nhưng ông vẫn 
luôn một lòng trung thành với triều đình. Dù ham cuộc sống tự do phóng túng nhưng ông  
vẫn nhiệt tình thực hiện trách nhiệm quân thần.
Có thể nói, qua bài thơ "Bài ca ngất ngưởng", Nguyễn Công Trứ đã thể hiện một lối sống  

tiến bộ, biết dung hòa giữa cái tôi đầy cá tính mang đậm phong cách cá nhân với việc 
sống công hiến cho dân, cho nước. Lối sống ngông ngạo "ngất ngưởng" khác đời, khác 


người không hề  mâu thuẫn với tâm niệm "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ  chung", ngược  
lại, chúng bổ sung cho nhau góp phần tạo nên chân dung một cá tính độc đáo nổi bật trong  
văn đàn Việt Nam thế kỉ XIX.



×