Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong văn học Việt Nam trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.99 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 25 - Tháng 12/2014

LÝ GIẢI VỀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ
Ở CÁC NGÂM KHÚC TRỮ TÌNH TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
LƯU THỊ LOAN(*)

TĨM TẮT
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác
phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm
thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn
giải bày, thổ lộ tình cảm khơng còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan
đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào
ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như khơng thể tiệm cận giữa hai thể loại.
Từ khóa: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, ngâm khúc, yếu tố tự sự, tâm trạng, tình
cảm, thể loại
ABSTRACT
While frameworks play an important main part in works of narration, ngam khuc are
works of lyric which always show people’s melancholic emotion lasting for a long time.
How we can do to show our mood with hundred lines of poetry. There is no way to express
our emotion except retell something which relates to that feeling. Therefore, works of lyric
partly consist of some elements of narration. Narration, which is in ngam khuc, erases the
distance of two these forms literature.
Key words: work of narration, work of lyric, ngam khuc, element of narration, mood,
emotion, forms
1. MỞ ĐẦU
(*)
Mỗi thể loại văn học đều có một cách
thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo thành


một chỉnh thể nghệ thuật. Việc nghiên cứu
thi pháp như một hệ thống các ngun tắc,
phương thức, phương tiện thể hiện nghệ
thuật, đòi hỏi phải xác lập các chỉnh thể
văn học như là các đơn vị mang thi pháp.
Cho đến nay, các nhà khoa học thường nói
đến các chỉnh thể sau: Thứ nhất, tác phẩm
văn học là một chỉnh thể, bởi đó là đơn vị
sáng tạo tồn vẹn, có mở đầu, có kết thúc,
có sự thống nhất hồn mĩ giữa nội dung và
(*)

hình thức; thứ hai, sáng tác một tác giả,
mặc dù một tác giả có thể sử dụng nhiều
thể loại (sáng tác nhiều thể loại) nhưng
trong q trình sáng tác đó có thể giữ lại
những hình thức cảm nhận và miêu tả vững
bền gắn liền với phong cách cá nhân; thứ
ba, sáng tác một thời đại, một trào lưu,
khuynh hướng trong đó ngự trị những
ngun tắc cảm nhận và miêu tả thế giới
bền vững chiếm ưu thế; thứ tư, các thể loại
văn học với tư cách là kết cấu văn học
vững bền, có ký ức thể loại.
Mỗi tác phẩm ngâm khúc là một chỉnh
thể nghệ thuật bởi nó có sự tổng hợp của
nhiều yếu tố như: thể loại, nội dung, hình

ThS, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam


125


thức, phong cách cá nhân, ngôn ngữ đặc
biệt là có sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và
trữ tình trong nội dung tác phẩm tạo thành
một chỉnh thể thống nhất.
2. NỘI DUNG
Nếu như trong tác phẩm tự sự, cốt
truyện có vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là
những tác phẩm thơ trữ tình dài hơi
(trường thiên) diễn tả những tâm trạng đau
buồn, u uất triền miên của con người
thường không có cốt truyện hoặc có cốt
truyện đơn giản. Vấn đề đặt ra ở đây là làm
thế nào để tác giả có thể kéo giãn hàng
trăm câu thơ chỉ với một mục đích là phơi
bày tâm trạng như thế? Làm thế nào để lôi
cuốn và khẳng định sức sống của các tác
phẩm chỉ bằng thế giới tâm trạng tuy có
phong phú nhưng ít biến chuyển mà phần
lớn như đúc ra một khuôn tình cảm đau
khổ, buồn rầu mà nhà nghiên cứu Đặng
Thai Mai gọi là“sự ngưng đọng trên một
khối sầu”. Vấn đề sẽ được giải quyết khi
chúng ta thấy sự xuất hiện của yếu tố tự sự.
Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi
khoảng cách tưởng chừng không thể tiệm
cận giữa hai thể loại.
Muốn giãi bày, thổ lộ tình cảm không

còn con đường nào khác là phải kể ra, thuật
lại những sự việc có liên quan đến tình cảm
ấy, những “hỉ, nộ, ái, ố” của con người là
vì đâu, do đâu, hay những hoàn cảnh, trạng
huống và sự kiện nào làm nảy sinh tâm tình
ấy? Thật khó hình dung một trạng thái cảm
xúc, bất định được nói ra một cách vô tận
mà không có một chỗ neo bám cụ thể nào.
Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có
yếu tố tự sự. Việc đưa yếu tố tự sự vào
trong thơ cũng là gợi ý để sáng tạo những
thể loại mới. Khi tự sự và trữ tình có chức
năng ngang quyền thì thể thơ trường thiên
ra đời. Khi tự sự đóng vai trò chủ yếu, trữ

tình chỉ là yếu tố điểm qua thì truyện thơ
xuất hiện.
Ngâm khúc – loại tác phẩm thường có
dung lượng lớn, kết cấu theo phương thức
trữ tình vẫn không thể tách rời các yếu tố
tự sự: các sự kiện, các chi tiết, nhân vật.
Chính các sự kiện, chi tiết, nhân vật (kể,
thuật, tả) đó đã tạo nên yếu tố tự sự trong
khúc ngâm. Trên đây đã nói đến sự xuất
hiện của yếu tố tự sự và sự phá vỡ làn ranh
giới giữa tự sự và trữ tình trong ngâm khúc.
Tuy nhiên, sự phá vỡ này chưa đi đến mức
độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn toàn cả hai
yếu tố. Phải thấy rằng, tự sự tuy có đi vào
phương thức trữ tình trong tác phẩm nhưng

không vì thế nó thực hiện cuộc soán ngôi,
đánh tan những phẩm chất trữ tình nhằm
tạo nên một thể loại mới (thể thơ tự sự).
Chức năng biểu hiện tình cảm vẫn là chức
năng chuyên biệt và trung tâm của khúc
ngâm. Mọi yếu tố tự sự được vận dụng
trong tác phẩm đều nhằm hướng đến nội
dung phơi bày tâm trạng và phát huy tối đa
chức năng đó. Nói đúng ra, tự sự dừng
chân trong khúc ngâm chỉ như một sự xâm
nhập của thể loại chứ chưa đến mức xóa
nhòa ranh giới giữa tự sự và trữ tình. Yếu
tố trữ tình luôn giữ một vai trò chủ đạo, cơ
bản trong mỗi khúc ngâm, còn yếu tố tự sự
chỉ là sơ đẳng. Chính sự kết hợp của hai
yêu tố này đã tạo nên tính chỉnh thể của
khúc ngâm.
Tự sự là một trong ba phương thức (tự
sự, trữ tình, kịch) tái hiện đời sống gắn liền
với các yếu tố quan trọng như: tính khách
quan, cốt truyện, nhân vật, trần thuật (kể).
Theo Lại Nguyên Ân “Nét đặc thù của tự
sự là vai trò tổ chức của trần thuật. Nó
thông báo về các biến cố, các tình tiết như
thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và
được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh,
hành động và dáng nét các nhân vật, nhiều
126



khi còn thêm cả những lời bàn luận” [1,
359].
Đối với tác phẩm tác phẩm trữ tình,
nguyên tắc chủ quan đóng vai trò chủ đạo
trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố
quan trọng quy định những điểm cốt yếu
của tác phẩm. Tác phẩm trữ tình thể hiện
tâm trạng, do đó thường không có cốt
truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Tuy nhiên
các sự kiện, chi tiết vẫn giữa một vai trò
quan trọng đối với loại trữ tình dài hơi như
ngâm khúc. Ở đây các yếu tố tự sự (sự
kiện, chi tiết, nhân vật) vẫn giữ một vai trò
quan trọng.
Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu
của phương pháp tự sự là cách xử lý mối
quan hệ giữa người kể chuyện và câu
chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể
chuyện để tạo ra một câu chuyện mới
[chuyển dẫn từ 4, 195]. Ông cũng cho biết
thêm: “nói đến nghệ thuật kể chuyện, ngày
nay người ta không còn giản đơn là nói tới
cách kể theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba
một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu tố
bên trong đã chi phối đặc điểm, chất lượng
của ngôi kể ấy. Ngôi kể ấy vẫn có ý nghĩa
riêng trong việc tạo thành giọng kể, một
điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự
sự hiện đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự,
tức là nói đến phương pháp cảm nhận nhìn

thấy con người và sự vật được kể. Phương
pháp tự sự thực chất là phương pháp nhìn
thấy sự vật và con người, phương pháp phát
hiện về con người” [4, 195].
Theo Trần Đình Sử: “Điểm quan trọng
nhất của các khúc ngâm đã tạo thành một
kiểu trữ tình mới, có tính chất tự sự, có thể
làm phong phú cho ngôn ngữ tự sự. Đó là
lối trữ tình nhập vai. Đặng Trần Côn đã
nhập vai người chinh phụ để viết Chinh phụ
ngâm khúc, cũng như Nguyễn Gia Thiều đã
thác lời người cung nữ để nói lên cảm nhận

hư huyễn về cuộc đời. Trong lời trữ tình ấy,
chủ thể trữ tình đóng hai vai, một vai người
trần thuật (người kể), một vai người trong
cuộc – người trữ tình” [2, 99].
Cái vai kép vừa tự sự vừa trữ tình là sự
mở đầu cho lối tự sự nửa trực tiếp trong
các khúc ngâm. Chẳng hạn lời giới thiệu,
mở đầu Chinh phụ ngâm bản dịch của
Đoàn Thị Điểm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên?
Lời than (trữ tình):
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!
Cung oán ngâm khúc mở đầu với lời
than, lời trách, lời hỏi:
…Duyên đã may cớ sao lại rủi,

Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang.
Vì đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi
mình.
Tiếp theo là lời tự sự (kể) tài năng và
sắc đẹp của mình:
Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa,
Vẻ phù dung một đóa khoe tươi,
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung…
- Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
- Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu lạ gã Tiêu lang.
Dẫu mà miệng hát tay dang,
Thiên tiên cũng ngảnh, Nghê Thường
trong trăng.
Qua khảo sát các ngâm khúc trong văn
học Việt Nam trung đại, chúng tôi thấy có
khá nhiều yếu tố tự sự.
Đó là lời tự sự miêu tả về sắc đẹp của
người cung phi trong Cung oán ngâm:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành.
Bóng gương lấp ló trong mành,
127


Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Còn đây là lời tự sự của cung phi trong

cái đêm đầu tiên được nhà vua ân ái, gây
cho nàng một cảm giác tuyệt vời, một hy
vọng được trở thành hậu phi:
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập
trùng.
Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím đào,
Gió đông thôi đã cợt đào, ghẹo mai.
Đoàn Thị Điểm hóa thân vào người
chinh phụ để dịch Chinh phụ ngâm. Trong
Chinh phụ ngâm cũng có khá nhiều lời tự
sự.
Đây là lời tự sự miêu tả về chân dung,
diện mạo, hành động của người chinh phu
lúc mới xuất chinh:
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang
beo.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Còn đây là lời tự sự miêu tả cảnh chia
tay:
Nhủ rồi tay lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại,
Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy

trùng.
Đây là lời kể, tả về gia cảnh của người
chinh phu:
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương,
Tóc già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa vả dương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ đã kể
về cảnh sai nha ập vào nhà ông phá phách:

Năm ba kẻ thước người hèo,
Ngõ nhan lôi cái đan biều đập tan.
Gà eo óc vừa tàn giấc mộng,
Nhặng vo ve sực nức hồn kinh.
Cảnh vợ con nheo nhóc:
Tiểu đồng thổn thức xung quanh,
Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than.
Cao Bá Nhạ tự nói về bản thân mình:
Chim hồng mong chấp cánh bay,
Năm xe kinh sử một tay vẽ vời.
Và đây là lời tự tình thuật nghẹn trước
giờ ly biệt:
Ngoảnh vào ái ngại thê nhi,
Ngoảnh ra án cũ cầm thi ngại ngùng.
Trong Ai tư vãn, chủ thể trữ tình là
người trong cuộc:
- Trong sáu viện, ố đào, ủ liễu,
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm ghê.
- Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ,

Cất chân tay thương khó xiết chi.
Đinh Nhật Thận hòa vào tâm trạng
người “lữ thứ” để tả cảnh:
Thơ nhã ái bốn câu lỡ vận,
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Trước đèn ngồi tựa như trai,
Não lòng đất khách ngậm ngùi người
xưa.
Các yếu tố tự sự trong các tác phẩm
ngâm khúc như đã nói ở trên, gồm khá
nhiều yếu tố, tuy nhiên thể hiện rõ nhất là
một cốt truyện sơ giản.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học coost
truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể,
được tổ chức theo yêu cầu và tư tưởng
nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình
thức động của tác phẩm văn học thuộc các
loại tự sự và kịch” [4, 99].
Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc
đáo của nhà văn. Mọi cốt truyện đều trải
qua một tiến trình vận động có hình thành,
phát triển và kết thúc.
128


Trong Chinh phụ ngâm khúc, người
đọc nhận ra cáy ý bao trùm lên khúc ngâm
là tiếng nói tố cáo, phản đối chiến tranh.
Chiến tranh đã cướp đi tình yêu, hạnh

phúc, tuổi trẻ của con người. Cốt truyện
trong Chinh phụ ngâm xoay quanh câu
chuyện một đôi vợ chồng trẻ đang sống
yên ấm, hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra,
người chồng vội vã lên đường theo lệnh
nhà vua:
Trống Tràng Thành lung lay bóng
nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất
chinh.
Người chinh phụ trở về khuê phòng,
tưởng tượng về cảnh sống của chồng nơi
chiến địa. Nàng lo lắng cho chồng ở ngoài
chiến trường đầy khốc liệt:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
Đoạn tiếp theo của khúc ngâm, chủ yếu
nói về tâm trạng nhớ thương, mong đợi của
người chinh phụ trong cảnh cô quạnh.
Người chồng lần lữa, chín hẹn mười
thường đơn sai nhưng người vợ ở nhà vẫn
làm tròn bổn phận của mình: phụng dưỡng
cha mẹ già và nuôi con nhỏ. Nỗi sầu cứ
chồng chất, người chinh phụ chán chường
và tuyệt vọng không thiết tha đến điều gì
chỉ mong được sống cùng chồng. Kết thúc

tác phẩm, người chinh phụ hình dung ngày
chồng nàng trở về trong niềm vui chiến
thắng khải hoàn, được nhà vua ban thưởng
và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh
bình, yên ả:
Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
Ngân nga xin gửi chữ tình:
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.

Trong Cung oán ngâm khúc, cốt truyện
xoay quanh việc một cô gái trẻ đẹp và có
tài, nàng được nhà vua tuyển vào trong
cung:
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
Lúc đầu nàng được nhà vua cưng
chiều, sủng ái, ân ái mặn nồng thắm thiết:
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương đóa một cành mẫu đơn.
Nhưng chẳng bao lâu, nàng đã bị nhà
vua chán bỏ. Ở trong cung, nàng xót
thương cho thân phận của mình và oán
trách nhà vua phụ bạc:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Cung nữ muốn “đạp tiêu phòng mà ra”,
khát khao trở về với cảnh đời “cục mịch
nhà quê” thuở trước nhưng nàng vẫn tiếp
tục bị giam cầm trong cung điện vàng son,
trong nỗi buồn đau, sầu thảm và oán hờn

chất chứa. Cuối cùng nàng vẫn khát khao
có được những cuộc ân ái hiếm hoi khi
xưa:
Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.
Nàng vẫn mong chờ được nhà nhà vua
đoái hoài đến và lo lắng không giữ được
sắc đẹp như xưa:
Phòng khi động đến cửu trùng,
Giữ sao cho được má hồng như xưa.
Trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ,
người đọc nhận ra cái ý bao trùm của khúc
ngâm là cái ý oán hận vì tác giả phải trả cái
tội mà mình không làm. Đại để đó là sự
quanh co, bực bội, âu sầu của người tù Cao
Bá Nhạ. Qua tâm sự ấy, ta nhận thấy trước
hết là đạo nghĩa rất mạnh của Nho gia. Qua
tâm sự ấy ta còn nhận thấy một Bá Nhạ
giàu tình cảm: lòng nhớ quê hương, thương
129


cha me, thương vợ con và thương thân trải
ra trong nhiều câu lâm ly.
Theo Phạm Thế Ngũ, tác giả làm ra
khúc ngâm này chủ ý biện hộ cho mình
trước “tội lỗi” (theo quan điểm của nhà
Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát gây

ra (cầm đầu khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin
triều đình ân xá. Tác phẩm gồm 680 câu
thơ song thất lục bát viết bằng chữ Nôm,
có thể chia làm 6 phần:
Mở đầu (8 câu): Sau khoảng tám năm
lẩn trốn (1854- 1862), tác giả giờ đây bị bắt
nên làm ra khúc ngâm này để bày tỏ tâm sự
của mình.
Giới thiệu về gia thế (từ câu 9 đến câu
36): Tác giả họ Cao ở làng Phú Thị, đã
mấy đời khoa bảng, vẫn luôn lấy sự thanh
liêm cần mẫn làm đầu.
Gia biến và lánh nạn (từ câu 37 đến
câu 188): Vì tội của chú (Cao Bá Quát) mà
cha tác giả phải tự sát, bản thân phải trốn ở
nơi hẻo lánh (Mĩ Đức thuộc Hà Đông cũ)
làm thày đồ tạm quên sầu muộn với sách
và hoa. Tác giả nói mình đã có vợ con, bấy
lâu nay chỉ mong được nhà vua ân xá.
Thuật lại việc bị bắt (từ câu 189 đến
câu 324): Không ngờ có người tố giác, bị
quan bao vây, bắt bỏ cũi đưa đi (Hải
Dương, Bắc Ninh), chịu nhiều khổ sở,
nhục nhã.
Kể tâm sự trong ngục (từ câu 325 đến
câu 572): Tác giả buồn tủi, đau đớn vì bị oan
ức nhưng vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng
và rất nhớ về cha mẹ, vợ con ở quê nhà.
Kết thúc (từ câu 572 đến 608): Tác giả
tin vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào

công lý của trời và phúc đức của nhà mình.
Cũng giống như hoàn cảnh của Cao Bá
Nhạ, Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao
Bá Quát. Khi Cao Bá Quát dấy binh khởi
nghĩa không thành, Đinh Nhật Thận bị
nghi ngờ có liên quan nên ông bị bắt và bị

giải về kinh đô (Huế) để xét hỏi. Nhưng
sau đó ông được tha và trở về quê nhà. Thu
dạ lữ hoài ngâm được ông làm trong thời
gian ông bị quản thúc ở Huế. Thu dạ lữ
hoài ngâm là câu chuyện về nỗi niềm của
nhà thơ: tình thương nhớ quê hương và gia
đình, là nỗi buồn đau, xót xa khi bị giam
cầm ở một nơi lạnh lẽo, xa lạ.
Còn cốt truyện trong Ai tư vãn thì lại
xác định theo bố cục sau:
Từ câu 1 đến câu 20: Kể công đức của
vua Quang Trung, kể về mối lương duyên
của bà:
Từ câu 21 đến câu 28: Kể về tình nghĩa
vua Quang Trung đối xử với nhà Lê:
Từ câu 29 đến câu 44: Vua Quang
Trung nhuốm bệnh rồi mất.
Từ câu 45 đến 108: Kể về nỗi niềm
thương xót của bà, bà hồi tưởng lại cảnh
sum vầy đẹp đẽ.
Từ câu 109 đến câu 130: Nỗi buồn
muốn chết theo chồng.
Từ câu 131 đến câu 144: Thương cho

cảnh côi cút của các con nhỏ và cảnh lẻ loi
của người góa bụa ở trong cung.
Từ câu 145 đến câu 164: Tâm sự đau
thương của bà.
3. KẾT LUẬN
Có thể thấy mọi chi tiết tự sự được sử
dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được
nói đến trong tác phẩm. Và không chỉ đơn
giản như một yếu tố phụ có vai trò làm
phông nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai
trò quan trọng. Không có nó, tâm trạng
nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm
tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm trạng
của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi
chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong
chiều của tác phẩm. Và một điều quan
trọng hơn, sự có mặt của yếu tố tự sự sẽ
giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”,
không gây cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt
130


cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định
như vậy? Có thể thấy, tâm trạng nhân vật
tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng
đều đồng quy từ một chữ buồn nên ít nhiều
nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này
cũng nằm trong dụng ý của khúc ngâm là
triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng,


không gì giải tỏa và vượt thoát được của
tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng
thú cho người đọc. Vì thế việc đưa vào chi
tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ
nhằm đổi khẩu vị thưởng thức cho độc giả,
khiến họ tưởng chừng như diện kiến một
gương mặt cảm xúc mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.

2.

Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3.

Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những ngâm khúc chọn
lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

4.

Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn) (2004), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 1),
Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
*Ngày nhận bài: 4/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014


131



×