Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khám phá các bí ẩn tại đảo Phục Sinh tồn tại đến ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.05 KB, 7 trang )

KHÁM PHÁ CÁC BÍ ẨN TẠI ĐẢO PHỤC SINH TỒN TẠI ĐẾN NGÀY NAY
Đảo   Phục   Sinh hay   còn   được   gọi   là   đảo   Rapa   Nui   theo   ngôn   ngữ   của   người  
Polynesia. Hay trong tiếng Tây Ban Nha, hòn đảo có tên gọi khác là Isla de Pascua.  
Đây là hòn đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển phía tây Chile.
TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ ĐẢO PHỤC SINH
Hòn đảo này được nhà thám hiểm người Hà Lan, đô đốc hải quân Jacob Roggeveen 
phát hiện. Trong hành trình vượt biển của mình, ông đã tìm ra hòn đảo vào ngày chủ 
nhật đầu tiên của tháng tư năm 1772. Sở dĩ hòn đảo này được đặt tên là Phục Sinh bởi  
nó được phát hiện ngay đúng ngày lễ Phục Sinh. Kể từ ngày đó, hòn đảo này đã có tên  
chính thức trên hải đồ quốc tế là đảo Phục Sinh.
Hòn đảo có diện tích khoảng 165km2, nằm  ở phía đông nam Thái Bình Dương. Vị  trí 
cách bờ  biển phía tây của Chile khoảng 3700km và cách 4000km về  phía đông của  
Tahiti. Hình dạng của hòn đảo khá giống hình tam giác. Đây là một phần lãnh thổ của 
Chile kể từ cuối thế kỷ 19. Phục Sinh là một trong những hòn đảo có vị trí xa đất liền 
nhất trên thế giới.

Hòn đảo Phục Sinh nằm ở ngoài khơi bờ biển phía tây Chile.


Về mặt tổng thể, đảo Phục Sinh có hình dạng là một hình tam giác. Được tạo thành từ 
3 núi lửa là Poike, Rano Kau và Terevaka. Trong đó, núi lửa lớn nhất trên hòn đảo là  
Rano Kao, độ  cao 600m so với mực nước biển. Từ đó, hòn đảo được hình thành qua  
các vụ  phun trào núi lửa kết hợp với khí hậu cận nhiệt đới và ôn hóa. Địa hình trên 
đảo với nhiều đồi núi hiểm trở. Ngoài ra còn có rất nhiều hang động ngầm dẫn tới các 
miệng núi lửa. Điểm này đã thu hút không ít các nhà khoa học cũng như khách du lịch  
đến khám phá.
KINH TẾ TRÊN ĐẢO HIỆN NAY
Kinh tế  trên đảo hiện nay vẫn phụ  thuộc chủ yếu vào ngành du lịch. Người dân tại 
đây sử  dụng tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ  chính. Bên cạnh đó, không ít người dân 
vẫn còn sử dụng ngôn ngữ Rapa Nui cổ.
Theo ước tính, có khoảng 3000 người Rapa Nui bản địa sống trên đảo khi lần đầu tiên 


nơi đây được phát hiện bởi Jacob Roggeveen. Tuy nhiên, sau cuộc nội chiến vài năm 
sau đó, dân số của đảo bị suy giảm mạnh. Số lượng người dân ước chừng 600 – 700  
nam giới và chưa tới 30 phụ nữ. Tính đến năm 1877, số người Rapa Nui chỉ còn sót lại 
111 người. Do sự xuất hiện của người châu Âu đã khám phá ra vùng đất này. Họ  đã  
mang đến đây nhiều dịch bệnh như giang mai, bệnh đâu mùa cũng như  chế  độ  nô lệ.  
Dựa vào số liệu năm 2012 của chính phủ Chile, hiện dân số trên đảo khoảng gần 6000  
người. Với hơn nửa số đó là dân bản địa gốc của đảo.
NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC TRÊN ĐẢO
Đảo Phục Sinh là một trong bốn hòn đảo nằm cách biệt nhất với thế giới. Kể từ khi  
được phát hiện cho đến nay, đảo Phục Sinh vẫn luôn tồn tại những điều huyền bí. Đó 
vẫn luôn là đề tài được giới khoa học và những người yêu thích khám phá về một nền 
văn minh đã mất. Hòn đảo nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ cùng những lễ hội Tapati sôi 
động. Hệ  thống ngôn ngữ  viết Rongo – rongo đầy bí  ẩn. Và hơn 900 bức tượng đá 
(Moai) cùng ngôn ngữ Rongorongo được tạo ra bởi người Rapa Nui cổ. Năm 1995, đảo 
Phục Sinh được UNESCO công nhận là một Di sản thế giới. Đa phần, diện tích đảo 
được bảo vệ trong vườn quốc gia Rapa Nui.
Mặc dù nơi đây mang lợi thế sở hữu cảnh quan tự nhiên tươi đẹp và vị  trí địa lý độc 
đáo. Chính quyền nơi đây được mệnh danh là “cô lập nhất hành tinh”. Bởi họ  không 
hề có ý định biến nơi đây thành một điểm du lịch thu hút khách tham quan. Người dân  
trên đảo luôn có ý thức cao trong việc giữ gìn phong tục truyền thống của tổ tiên. Họ 
gần như không bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập của nền văn minh bên ngoài.
TƯỢNG ĐÁ MOAI – ĐẶC TRƯNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH TẠI ĐẢO PHỤC  
SINH


Đảo Phục Sinh được nhiều người biết đến vì sở  hữu hàng trăm bức tượng khổng lồ 
bằng đá. Những bức tượng đá cổ  xưa này còn được gọi với cái tên là Moai. Moai  
chính là bằng chứng lớn nhất cho một nền văn hóa đã từng phát triển hùng mạnh của 
người Rapa Nui. Không phải là tượng đá trang trí, chúng là biểu trưng cho một nền 
văn minh đã bị lãng quên trong quá khứ.


Những bức tượng Moai được đặt trên các tấm móng hành lễ còn được gọi là ahu.
Cho đến ngày nay, tượng đá Moai vẫn luôn là một bí ẩn đối với nhân loại. Thông qua 
các bức tượng, chúng ta có thể thấy được tài năng của những người sáng tạo ra chúng. 
Họ được nhiều người công nhận là những thợ thủ công, kỹ sư bậc thầy của nền văn  
hóa Polynesia. Bức tượng đá Moai đã từng được đề  cử  vào danh sách Bảy kỳ  quan  
mới của Thế giới.
Đến nay, đã có rất nhiều suy đoán và giả  thuyết được đưa ra về  mục đích tạo ra các  
bức tượng Moai. Cách thức xây dựng và vai trò của các bức tượng này vẫn đang được  
các nhà khảo cổ nghiên cứu.


NIÊN ĐẠI CỦA CÁC BỨC TƯỢNG ĐÁ MOAI
Tượng đá Moai có niên đại ít nhất từ thế kỷ 12 được phát hiện trên đảo. Nhiều nhà 
khoa học đã chỉ  ra rằng chúng đều được tạc dựa theo hình  ảnh tổ  tiên của những  
người thổ dân bản địa nơi đây. Chúng có kích thước khá lớn, khối lượng nặng từ vài 
chục đến hàng trăm tấn. Chiều cao của các bức tượng dao động từ 2 – 20m. Đặc tính 
của mỗi pho tượng cũng rất khác nhau như cao, thấp, béo, gầy,… Các bức tượng nơi  
đây đều được chạm khắc vô cùng tinh xảo.
Ban đầu, tượng được đặt trên các tấm móng hành lễ còn được gọi là ahu. Hiện chỉ còn 
khoảng 250 – 300 tấm được đặt vòng quang bờ  biển của đảo. Tượng lớn nhất đặt  
thành công là tượng Paro với khối lượng lên đến 82 tấn.
Pho tượng lớn nhất trong tất cả  các tượng tên là ElGigante mang ý nghĩa là người  
khổng lồ. ElGigante có chiều dài 20m, nặng khoảng 270 tấn. Tuy nhiên, pho tượng này 
vẫn còn bị bỏ lại tại mỏ đá Rano Raraku quarry. Bên trong mỏ đá này có khoảng 394 
tượng đá bỏ phế. Ở phía đông nam đảo còn phát hiện thêm hàng trăm pho tượng khác 
đang trong tình trạng chế tác dang dở. Giữa những năm 1800, tất cả Moai bên trong và  
ngoài mỏ  đá đã bị  lật đổ. Ngày nay, khoảng 50 tượng đá Moai đã được dựng lại ở vị 
trí cũ của chúng. Theo các nhà khoa học, khoảng ¼ số  tượng trên đảo đã được hoàn  
thiện xong. Số tượng đá còn lại vẫn đang trong tình trạng chế tác dang dở.

TƯỢNG ĐÁ MOAI CHỈ CÓ PHẦN ĐẦU?
Hầu hết nhiều người đã nghĩ tượng đá Moai chỉ có phần đầu. Tuy nhiên, trên thực tế, 
Moai có đầu và thêm phần thân mình đã bị  chôn lấp bên dưới đất. Không ai ngờ  đến  
phía dưới những chiếc đầu tượng Moai lại chứa đựng cả một bức tượng khổng lồ.


Phần dưới tượng Moai với phần thân bị chôn dưới lòng đất đã được khai quật.
Phần lớn thân mình của các bức tượng này bị  chôn vùi dưới lòng đất. Đồng thời,  
chúng được phủ  với những dòng chữ  được gọi là tranh khắc đá. Ngoài ra, trên thân  
tượng Moai còn có chạm khắc các chi tiết cổ. Mang hình dáng những vòng xoáy tròn  
và hình thắt nút. Được cho là biểu tượng tượng trưng cho những chiếc xuồng của  
người dân địa phương. Nhưng một số giả thuyết lại cho rằng đây chính là biểu tượng  
của mặt trời và cầu vồng.
Ngoài việc thể hiện những vị tổ tiên đã mất. Moai cũng từng được dựng tại những địa 
điểm nghi lễ. Hoặc cũng có thể  từng được coi là hiện thân của các vị  thủ  lĩnh nhiều 
quyền lực đang sống.
QUÁ TRÌNH TẠC TƯỢNG ĐÁ MOAI
Theo các nhà khảo cổ, những bức tượng này được đẽo từ  mỏm cao nhất của thành 
ngọn núi lửa trên đảo. Tượng được tạc từ  tro núi lửa cô đặc. Tất cả  các bức tượng 
Moai đều được chế  tác từ  đá tảng nguyên khối. Sau khi bức tượng được đẽo xong,  
chúng đã được lăn hoặc được kéo xuống chân núi lửa. Sau đó, tượng sẽ  được dựng  
đứng thẳng lên và buộc dây thừng xung quanh thân bức tượng. Lợi dụng hệ  thống  
ròng rọc, bức tượng sẽ di chuyển đến vị trí đã định trước.


Những sợi dây thừng được quấn quanh bức tượng hoạt động như  một pu­ly truyền 
động. Khi đó sẽ  có khoảng 30 người đàn ông kéo một đầu sợi dây. Nhờ  lực kéo đó, 
một mặt của bức tượng được kéo tiến lên phía trước. Với cách làm trên, một mặt của  
bức tượng có thể đi được vài bước chân sau mỗi lần kéo. Quá trình này tiếp tục được 
làm ngược lại. Mặt còn lại của bức tượng sẽ được làm như mặt trước đó đã làm. Và 

công việc cứ được lặp đi lặp lại như vậy. Một bức tượng di chuyển vài dặm xuống  
đến bờ biển phải mất đến vài tháng.
Nhờ vào các dấu tích phấn hoa sót lại từ các sợi dây thừng. Sợi dây thừng được cho là  
có nguồn gốc từ  giống cọ Jubaea cao hơn 30m mọc trên đảo. Giống cọ  này rất thích 
hợp để làm ra những chiếc dây thừng vô cùng bền chắc. Từ đó, các nhà khoa học cho 
rằng đảo Phục Sinh đã từng là một hòn đảo có cây cối rất tươi tốt.
VĂN TỰ CỔ RONGO – RONGO ĐẦY BÍ ẨN TRÊN ĐẢO PHỤC SINH
Bên cạnh những bức tượng Moai với nguồn gốc khiến thế  giới s ửng sốt và ngỡ 
ngàng. Thì các văn tự cổ sử dụng ngôn ngữ viết Rongo – rongo đầy bí ẩn cũng là một  
trong những ẩn số mà các nhà khoa học vẫn mãi không giải mã hết được cho đến hiện  
nay.
Hệ thống chữ viết Rongo – rongo khác xa so với các hệ thống chữ viết trên thế  giới.  
Ngày nay, trên đảo chỉ  còn 26 tấm thẻ  gỗ  có dạng chữ  này. Dựa vào những kiệt tác  
trên của thổ  dân Rapa Nui. Không ít người đã tin vào giả  thuyết rằng cách đây nhiều 
thế kỷ trên đảo đã xuất hiện một nền văn minh tiến bộ và rực rỡ. Một điều đáng ngạc 
nhiên hơn nữa đó là hầu hết các cư dân trên các hòn đảo khác thuộc Thái Bình Dương  
đều không biết chữ. Kể cả những thổ dân da đỏ cũng không biết viết.


Ký tự Rongo Rongo được khắc trên phiến gỗ được tìm thấy trên đảo.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là ai đã dạy những người dân trên đảo Phục Sinh biết viết? 
Hay họ đã tự phát triển hệ thống chữ viết riêng của mình? Bởi trong lịch sử của nhân 
loại, chữ viết được sáng tạo ra lần đầu tiên ở châu Á chỉ vài ngàn năm TCN. Vì vậy,  
văn tự cổ Rongo – rongo vẫn là một câu đố bí hiểm với các nhà khảo cổ.
Ngoài những văn tự cổ bí ẩn, người ta còn phát hiện trên  đảo Phục Sinh còn có nhiều 
tác phẩm đá khắc. Trên đá khắc mô tả hình ảnh chim chóc và cuộc sống thường ngày  
của những cư dân xa xưa.
Xem   thêm:   />sinh­ton­tai­den­ngay­nay.html




×