Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.93 KB, 8 trang )

Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống
sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường
Vũ Thị Khánh Minh

Học viện Ngân hàng- Phân viện Phú Yên

Bất kỳ hoạt động sản xuất nào của doanh nghiệp (DN) cũng xả thải ra môi
trường và nguy cơ gây ra các loại ô nhiễm về nước, không khí, tiếng ồn, mùi
hôi, rung động, chất thải độc hại vùi sâu dưới đất. Theo các báo cáo của
Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 20181, Việt Nam là một quốc gia đã nằm
trong tình trạng báo động về các loại ô nhiễm2, 3. Bộ Tài chính hiện chưa có
hướng dẫn đánh giá đầy đủ chi phí môi trường của những sản phẩm, dịch
vụ và điều này dẫn đến sự tác động về 3 phía: (i) về phía DN, việc gian lận
không ghi nhận chi phí môi trường, dù dẫn đến đóng thuế thu nhập doanh
nghiệp cao hơn, nhưng DN sẽ chấp nhận để bỏ qua các chi phí lớn hơn về
xây dựng hệ thống xử lý các tác hại đến môi trường; (ii) về phía quản lý
Nhà nước, chưa có cơ sở đề ra các biện pháp quản lý nguồn ô nhiễm; (iii)
The use of lifecycle costing method in environmental costing management accounting

Abstract: All production activities of the enterprise also discharge into the environment, and Vietnam is a
country that has been on the alert of pollution types. The reason is that there is not yet a specific guidance
of the Ministry of Finance on the full assessment of environmental costs of products and services. This leads
to the impact on three sides: (i) on the side of enterprises, the extra cost calculation will make businesses pay
higher corporate income tax, but businesses will accept to ignore the larger costs of construction system to
handle environmental harms; (ii) on the side of state management, if the environmental damage resulting
from the production of products is assessed, a decision to eliminate the production of products may be made;
(iii) on the people’s side, people need to be careful with their production and business activities in the areas
where such enterprises operate so as not to be damaged by pollution effects. This article will cover the life
cycle cost method, the environmental costs that occur in the product life cycle, and make recommendations for
managers to help produce to become cleaner productio, improving the environmental performance.
Keywords: Environmental Costing, Environmental Costing Management Accounting, Life Cycle Costing- LCC,


Cleaner Production
Minh Thi Khanh Vu.
Email:
Banking Academy, Phu Yen Campus
/>2, 3
Việt Nam là một quốc gia đã nằm trong tình trạng báo động về các loại ô nhiễm: đứng thứ 17/109 quốc gia về
lượng rác thải nhựa phát sinh, 4/5 quốc gia có lượng thải nhựa ra biển, theo />1

Ngày nhận: 01/10/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 214- Tháng 3. 2020

Ngày nhận bản sửa: 29/11/2019

44

Ngày duyệt đăng: 20/12/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X


VŨ THỊ KHÁNH MINH

về phía người dân, không có thông tin để cân nhắc hoạt động trong các
vùng bị ảnh hưởng ô nhiễm. Bài viết này trình bày về phương pháp đánh
giá chi phí chu kỳ sống (Life Cycle Costing- LCC) của sản phẩm, các chi
phí môi trường xảy ra trong chu kỳ sống của sản phẩm và đưa ra các đề
xuất chủ động áp dụng LCC cho nhà quản lý, giúp quá trình sản xuất sản

phẩm sạch hơn, bảo vệ được môi trường.
Từ khóa: chi phí môi trường, kế toán quản trị chi phí môi trường, chu kỳ
sống sản phẩm (LCC).

1. Khái niệm Chi phí môi trường và Kế
toán quản trị Chi phí môi trường
Theo Cơ quan Phát triển Bền vững của
Liên hợp quốc (UNDSD, 2001), “Chi phí
môi trường có thể hiểu là các chi phí gắn
với thiệt hại môi trường và bảo vệ môi
trường của doanh nghiệp. Chi phí này bao
gồm các chi phí để ngăn ngừa, tiêu hủy,
lập kế hoạch, kiểm soát, thay đổi hành
động, khắc phục những thiệt hại có thể
xảy ra ở doanh nghiệp và ảnh hưởng tới
Chính phủ, mọi người”.
Chi phí môi trường (CPMT) là một trong
những đối tượng kế toán của kế toán quản
trị chi phí môi trường, và kế toán quản trị
chi phí môi trường là một bộ phận của kế
toán quản trị môi trường (KTQTMT).
Xem xét định nghĩa của Cơ quan Phát
triển Bền vững của Liên hợp quốc
(UNDSD, 2001): “KTQTMT là việc nhận
dạng, thu thập, phân tích và sử dụng loại
thông tin cho việc ra quyết định nội bộ:
Thông tin vật chất (phi tiền tệ) về sử dụng,
luân chuyển và thải bỏ năng lượng, nước
và nguyên vật liệu (bao gồm chất thải); và
thông tin tiền tệ về các chi phí, lợi nhuận

và tiết kiệm liên quan đến môi trường”.
Định nghĩa của Liên đoàn Kế toán Quốc tế
(IFAC, 2005): “KTQTMT là quản lý hiệu
quả kinh tế và môi trường thông qua việc

xây dựng và triển khai hệ thống kế toán và
thực hành phù hợp với môi trường có thể
bao gồm báo cáo và kiểm toán”.
Như vậy, có thể hiểu: Kế toán quản trị
chi phí môi trường là một bộ phận của
KTQTMT nhằm cung cấp các thông tin
chi phí môi trường của doanh nghiệp giúp
nhà quản lý nâng cao lợi nhuận đồng thời
bảo vệ môi trường.
2. Khái niệm phương pháp Chi phí chu
kỳ sống sản phẩm (LCC- Life Cycle
Costing)
Khái niệm về LCC được chấp nhận trong
Tiêu chuẩn nước Anh từ năm 1992. Định
nghĩa LCC đã được sửa đổi vào năm 2000
và được đưa vào tiêu chuẩn quốc tế ISO
15686 phần 1- Lập kế hoạch cho vòng đời
sản phẩm dịch vụ. Trong đó LCC được mô
tả một cách thận trọng trong tiêu chuẩn
ISO 15686 như sau: “Một kỹ thuật cho
phép đánh giá chi phí so sánh được, thực
hiện trong một khoảng thời gian xác định,
có tính đến tất cả các yếu tố kinh tế có liên
quan cả về chi phí ban đầu và chi phí hoạt
động trong tương lai”. ISO 15686 phần 5Life Cycle Costing thì trình bày nội dung

áp dụng phương pháp này. Sau đó, do
nhu cầu áp dụng nên dự án phương pháp
chung của châu Âu về chi phí chu kỳ sống
trong ngành xây dựng ra đời do Davis

Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

45


Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí
môi trường
Hình 1. Các giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm, dịch vụ

Nguồn: Peter Atrill and Eddie McLaney, 2009

Langdon (2007) làm chủ nhiệm Dự án.
Kết quả cuối cùng được báo cáo năm 2007
là “Một phương pháp chung của châu Âu
cho chi phí vòng đời”, trong đó đưa ra các
phương pháp được đề xuất nhằm tương
thích với ISO 15686- phần 5.
1
Theo nghiên cứu của Renata
Schneiderova Heralova (2017) thì có
nhiều nghiên cứu mở rộng ngoài ngành
xây dựng về LCC như: Sterner đã phát
triển một mô hình để đánh giá đấu thầu,
trong đó sử dụng phương pháp LCC để
tính tổng chi phí năng lượng cho các tòa

nhà, Aye và các cộng sự đã sử dụng LCC
để phân tích một loạt các lựa chọn trong
bất động sản và xây dựng, Bogensttter ủng
hộ khả năng sử dụng tính toán LCC trong
giai đoạn thiết kế ban đầu của các dự án,
đặc biệt Cộng hòa Séc yêu cầu kế toán phải
định lượng LCC khi quyết định xây dựng
Renata Schneiderova Heralova. (2017). Life cycle
costing as an important contribution to feasibility study
in construction projects.
1

46

các công trình thuộc khu vực công và LCC
đã trở thành một tiêu chí trong đấu thầu
công khai.
Như vậy, chi phí chu kỳ sống từ lâu đã
được thừa nhận là công cụ ước tính và tập
hợp các chi phí bao trùm toàn bộ thời gian
tồn tại của một sản phẩm, dịch vụ với lưu
ý rằng đây là chu kỳ sống vật lý của sản
phẩm (Selin Gundes, 2015).
Theo quan điểm của nhà sản xuất, chu kỳ
sống của một sản phẩm được xem là có ba
giai đoạn riêng biệt: (1) giai đoạn hoạch
định; (2) giai đoạn sản xuất; (3) giai đoạn
hủy bỏ. Kế toán quản trị chi phí thông
thường tập trung tối ưu hóa chi phí sản
xuất sản phẩm ở giai đoạn 2, đánh giá hiệu

quả kinh doanh dựa trên lợi nhuận kế toán.
Nếu kế toán quản trị sử dụng công cụ
LCC thì sẽ phải tìm hiểu thêm các chi phí
ẩn khác ở giai đoạn 1 và 3, sẽ giúp đánh
giá được hiệu quả kinh doanh dựa trên lợi
nhuận kinh tế.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020


VŨ THỊ KHÁNH MINH

Từ việc tìm tất cả các chi phí xảy ra trong
một vòng đời của sản phẩm, dịch vụ sẽ
giúp cho chúng ta tìm ra được các chi phí
ẩn, chi phí ít hữu hình hơn, đó thường là
các chi phí DN không chịu bỏ ra để khắc
phục các thiệt hại môi trường do DN mình
gây ra, hoặc chi phí chủ động bảo vệ môi
trường (Hình 1).
Trong đó, chi phí môi trường có thể xảy ra
ở các giai đoạn được kể đến như là:
- Ở giai đoạn hoạch định: Chi phí môi
trường do sản xuất thử nghiệm sản phẩm.
- Ở giai đoạn sản xuất: Chi phí xử lý chất
thải là chi phí môi trường phổ biến nhất
phát sinh trong giai đoạn sản xuất, gồm
chi phí xử lý ô nhiễm bị gây ra bởi hoạt
động máy móc, thiết bị; chi phí xử lý phế
liệu của quá trình sản xuất tạo chất thải ra

môi trường.
- Ở giai đoạn hủy bỏ: Chi phí xử lý sản
phẩm sau sử dụng nhưng vẫn còn hình thái
và có tác động xấu đến môi trường như rác
thải nhựa, kim loại; hoạt chất trong pin…
Tính toán đúng các CPMT trong giai đoạn
sản xuất sẽ cung cấp thông tin chính xác
về giá thành sản xuất. Còn tính đúng các
CPMT (thường bị bỏ qua ở giai đoạn đầu
khi hoạch định, triển khai sản xuất và giai
đoạn cuối) sẽ tính được Lợi nhuận kinh tế
của DN nhằm đánh giá tốt hơn về hiệu quả
kinh doanh của DN.
3. Thực trạng hạch toán kế toán quản trị
chi phí môi trường ở Việt Nam hiện nay
Xem xét Thông tư 200/2014/TT-BTC
ngày 22/12/2014 hướng dẫn thực hiện
chế độ kế toán doanh nghiệp ta thấy: (1)
Thông tư không có hướng dẫn chi tiết về
các loại CPMT nên dẫn đến kế toán có
hạch toán các CPMT nhưng không ghi

nhận và đo lường đầy đủ; (2) Thông tư
không có hướng dẫn hạch toán doanh thu,
thu nhập môi trường nhằm làm giảm lợi
nhuận, giảm thuế TNDN phải nộp. Các
CPMT sau khi ghi nhận thường được phân
loại là chi phí sản xuất chung, và nếu như
có liên quan đến nhiều sản phẩm thì phải
dùng tiêu thức phân bổ chứ thường không

xác định được chi phí này là trực tiếp của
sản phẩm nào.
Tại Việt Nam, qua tham khảo các văn bản
hướng dẫn thực hiện kế toán thì thấy rằng
chưa có một văn bản kế toán nào hướng
dẫn đầy đủ về kế toán quản trị môi trường
nên các DN thường có cách xử lý sau:
Kế toán có tính toán CPMT cung cấp
thông tin để nhà quản lý ra quyết định về
số tiền bỏ ra để mua hệ thống xử lý chất
thải, tuy nhiên nó chỉ là một phần nhỏ của
nội dung KTQTMT.
Kế toán thường không xác định đầy đủ hết
các chi phí; không tính toán được doanh
thu, thu nhập liên quan đến môi trường,
số tiền tiết kiệm chi phí do thiết kế lại quy
trình sản xuất tốt hơn… nên không cung
cấp được thông tin cho nhà quản lý ra
quyết định tiết kiệm chi phí trong sản xuất,
cắt giảm lãng phí môi trường, xây dựng
quy trình sản xuất sạch hơn, đánh giá đúng
hiệu quả kinh doanh từng sản phẩm…
Từ các phân tích nêu trên cho thấy, việc
phải tính toán tìm ra được các CPMT
trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm
là rất cần thiết vì nó sẽ cung cấp thông
tin chính xác về hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Đồng thời, việc tính toán
được các CPMT mà DN đã bỏ qua không
chi bằng tiền để khắc phục, gây thiệt hại

cho xã hội thì sẽ đánh giá được các trách
nhiệm của DN với môi trường, nhà quản

Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

47


Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí
môi trường

lý có cơ sở xem xét việc cho dừng hoạt
động của DN nếu số tiền bỏ ra khắc phục
thiệt hại môi trường lớn hơn các lợi ích
DN mang lại.
4. Đề xuất áp dụng phương pháp Chi
phí chu kỳ sống sản phẩm (LCC) trong
kế toán quản trị chi phí môi trường
Bất cứ một sản phẩm, dịch vụ nào ra đời
thì cũng sẽ luôn gây ra các CPMT. Kế
toán quản trị CPMT là một bộ phận của
KTQTMT nhằm cung cấp các thông tin
CPMT của doanh nghiệp, vì vậy để tính
toán đầy đủ các CPMT của sản phẩm, dịch
vụ thì cần phải nhận diện được toàn bộ
chi phí ấy trong chu kỳ sống sản phẩm.
Vận dụng các kết quả đã được nghiên cứu
và áp dụng trên thế giới, kế toán quản trị
áp dụng phương pháp LCC cho quản trị
CPMT như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu các tiêu chuẩn ISO,
vương quốc Anh, hoặc Châu Âu về LCC
trong việc xây dựng công trình, lập dự án
sản xuất kinh doanh để tính toán đầy đủ
chi phí để ra quyết định có nên thực hiện
dự án hay không.
Thứ hai, nhà quản lý sử dụng công cụ chi
phí LCC trong việc tối ưu chi phí sản xuất
sản phẩm.
Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát, mỗi
DN sản xuất phải giải quyết bài toán tiết
kiệm chi phí sản xuất một cách hợp lý và
hiệu quả bằng cách tận dụng mọi cơ hội
tiết kiệm chi phí. Trong giai đoạn hoạch
định, bằng phương pháp kế toán chi phí
mục tiêu (target costing), DN sẽ đặt ra chi
phí mục tiêu và dùng các giải pháp tiết
kiệm chi phí để thiết kế sản phẩm không
vượt quá chi phí mục tiêu. Từ chi phí mục
tiêu, kế toán tính toán tiếp để dự kiến chi

48

phí chu kỳ sống sản phẩm có chấp nhận
được không. Nếu chi phí chu kỳ sống chấp
nhận được thì sẽ đưa sản phẩm vào sản
xuất. Nếu tính toán chi phí chu kỳ sống
chứa nhiều chi phí như xử lý chất thải ra
môi trường, chi phí tiêu hủy sản phẩm
thì phải cân nhắc lại việc thiết kế lại sản

phẩm.
Phân tích chi phí theo Hình 2, các biện
pháp đưa ra gồm tiết kiệm chi phí, cắt
giảm lãng phí để nhằm thực hiện được tối
ưu chi phí theo chi phí mục tiêu, tối ưu chi
phí trong toàn bộ LCC.
Công cụ này đặc biệt còn có ý nghĩa đối
với những doanh nghiệp mà chi phí hoạch
định và triển khai lớn, hoặc những doanh
nghiệp có chi phí hủy bỏ sản phẩm lớn vì
nếu chỉ căn cứ vào mỗi chi phí sản xuất
mà bỏ qua chi phí chu kỳ sống sản phẩm
thì chỉ tính toán được Lợi nhuận kế toán
chứ không phải Lợi nhuận kinh tế của sản
phẩm, mà Lợi nhuận kinh tế mới là chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất
sản phẩm.
Thứ ba, nhà quản lý áp dụng LCC vào quy
trình sản xuất sạch hơn, từ đó giúp môi
trường được bền vững.
Để DN cải thiện lại quy trình sản xuất
giúp sản xuất sạch hơn, giúp môi trường
phát triển bền vững thì kế toán CPMT
trong một dự án không chỉ dừng lại ở
cung cấp số liệu về CPMT để xác định lợi
nhuận của dự án, mà cần phân tích, đánh
giá LCC của dự án đó, phải nhận diện
và đo lường được các tác động đến môi
trường của việc sản xuất sản phẩm thì mới
giúp DN có cơ hội thiết kế lại quy trình

sản xuất sạch hơn với môi trường.
Việc đánh giá LCC phải được tiêu chuẩn

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020


VŨ THỊ KHÁNH MINH

Hình 2. Các công cụ chi phí để ra quyết định

Giai đoạn
hoạch định

Sản phẩm
Giá bán mục tiêu
Lợi nhuận mục tiêu
Chi phí mục tiêu

Thay đổi thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất chủ yếu

Thiết kế có đáp ứng chi phí mục tiêu
không?

Chi
phí
chu kỳ
sống

Không


Chi
phí
mục
tiêu


Ước tính chi phí chu kỳ sống

Chi phí chu kỳ sống dự kiến có chấp nhận
được không?

Không


Giai đoạn
sản xuất

Đưa sản phẩm vào sản xuất

Thay đổi thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất thứ yếu
Giai đoạn
loại bỏ

Chi
phí
Kairen

Loại bỏ sản phẩm
Nguồn: Robert S. Kaplan and Anthony A. Atkinson, 1998


Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

49


Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí
môi trường
Bảng 1. Sự khác biệt phương pháp kế toán ghi nhận LCC thông thường và Phương pháp
kế toán quản trị đánh giá LCC

Cơ sở
đánh giá
về chi phí
môi trường

Phương pháp kế toán
ghi nhận LCC thông
thường
Kế toán tính toán chi phí
thông thường của sản
xuất sản phẩm

Phương pháp kế toán quản trị đánh giá LCC

Kế toán đánh giá cả chi phí thông thường và các chi phí
ẩn hoặc ít hữu hình hơn trong LCC, là các chi phí không
được ghi nhận bên kế toán tài chính như chi phí hủy bỏ,
tái chế chất thải sau khi sử dụng.
Kế toán ghi nhận CPMT Kế toán phân bổ CPMT cho từng sản phẩm nhằm vừa
là chi phí sản xuất

dự tính được LCC, vừa đánh giá được LCC (CPMT xảy
chung, không phân bổ
ra do sản xuất sản phẩm đó). Từ đó so sánh được trạng
chi tiết cho sản phẩm
thái hiện tại với tương lai hay phương án A so với B để
cải tiến, lựa chọn quy trình sản xuất sạch hơn.
Cơ sở
Kế toán tài chính không Kế toán có ghi nhận lợi ích kinh tế của các biện pháp
đánh giá
ghi nhận lợi ích kinh tế
kiểm soát ô nhiễm môi trường, hay số tiền tiết kiệm chi
về lợi ích
của các biện pháp kiểm phí do thiết kế lại quy trình sản xuất tốt hơn nhằm để
môi trường soát ô nhiễm môi trường đánh giá Lợi nhuận kinh tế.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

hóa về phương pháp thực hiện. Trong
phần giới thiệu ISO 14040 (ISO 2006a)
nhận định “Đánh giá LCC giải quyết
các khía cạnh môi trường và tác động
tiềm tàng (ví dụ đánh giá việc sử dụng
tài nguyên và hậu quả tác động đến môi
trường) trong suốt vòng đời sản phẩm, từ
thu mua nguyên liệu thông qua sản xuất,
sử dụng đến giai đoạn cuối cùng là loại
bỏ”. Phương pháp đánh giá LCC này còn
được White và cộng sự (1996) định nghĩa
“Đánh giá LCC là phân tích toàn diện, dài
hạn về toàn bộ chi phí nội bộ và tiết kiệm
do các dự án ngăn ngừa ô nhiễm và các

dự án môi trường khác được thực hiện bởi
một công ty”. Vì vậy, đánh giá LCC là
phương pháp đánh giá của kế toán quản
trị, nên nó có sự khác biệt với kế toán ghi
nhận LCC thông thường (Bảng 1).
Phương pháp đánh giá chu kỳ sống LCC
là sẽ giúp kế toán so sánh được trạng thái
hiện tại của hệ thống sản xuất với trạng
thái tương lai hoặc so sánh 2 phương án
sản xuất kinh doanh để lựa chọn phương
án sản xuất, cải tiến quy trình sản xuất

50

theo hướng giúp môi trường bền vững.
Tư duy của phương pháp đánh giá chu
kỳ sống LCC là dựa vào LCC, kế toán sẽ
cung cấp thông tin về toàn bộ chi phí vòng
đời sản phẩm để DN đánh giá Lợi nhuận
kinh tế và cải thiện hiệu suất môi trường.
Đây là cơ sở để bộ phận quản lý nhà nước
hoàn thiện quy trình cấp giấy phép hoạt
động cho các DN sản xuất phải an toàn
với môi trường. Đây còn là cơ sở để phía
quản lý nhà nước kiểm tra việc DN có
tuân thủ luật pháp môi trường; đánh giá
trách nhiệm xã hội của DN và thiết lập các
chế tài pháp luật để xử phạt đối với các
DN vi phạm.
5. Kết luận

Bài viết đã thảo luận về lý thuyết và tính
hữu ích thực tế của phương pháp LCC
trong việc đưa ra các quyết định đầu tư
có trách nhiệm với môi trường. Kế toán
quản trị CPMT khi áp dụng phương pháp
LCC sẽ giúp DN kiểm soát được chi phí
phát sinh, tiết kiệm được chi phí để phù

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020


VŨ THỊ KHÁNH MINH

hợp thiết kế ban đầu và đánh giá lại hiệu
quả sản xuất có an toàn với môi trường
hay không. Bên cạnh việc nhà quản trị
chi phí chủ động áp dụng phương pháp
LCC và đánh giá lại nó để thực hiện hoạt
động sản xuất của DN mình sạch hơn, nhà
quản lý doanh nghiệp cần hoàn thiện càng
nhanh càng tốt chế độ kế toán quản trị môi
trường để DN có cơ sở thực hiện và làm
khuôn khổ pháp lý để chống các tác hại
từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
gây ra cho môi trường ■

Tài liệu tham khảo
1. ISO (2006a). Environmental management—Life-cycle assessment: Principles and framework. Geneva:
International organisation for standardisation.
2. ISO 15686 part 5 - Life-cycle costing

3. Marianna Lena Kambanou and Mattias Lindahl. (2016). A Literature Review of Life Cycle Costing in the ProductService System Context. At />4. Marketa Spickova and Renata Myskova. (2015). Costs Efficiency Evaluation using Life Cycle Costing as Strategic
method. At />5. Peter Atrill and Eddie McLaney. (2009). Management Accounting for Decision Makers. 6th edition, Prentice Hall
Europe, chapter 5.
6. Renata Schneiderova Heralova. (2017). Life cycle costing as an important contribution to feasibility study in
construction projects. At />7. Robert S. Kaplan and Anthony A. Atkinson. (1998). Advanced Management Accounting. 3rd edition, Prentice Hall,
Upper Saddle River, New Jersey 07458, chapter 6.
8. Selin Gundes. (2015). The Use of Life Cycle Techniques in the Assessment of Sustainability. At https://www.
sciencedirect.com/science/article/pii/S1877042815062680
9. Walter Klöpffer, Isa Renner. (2008). Life-Cycle Based Sustainability Assessment of Products. Environmental
Management Accounting for Cleaner Production. Springer, chapter 5
10.White, A. L., Savage, D., & Shapiro, K. (1996). Life-cycle costing: Concepts and application. In M. A. Curran
(Ed.), Environmental life-cycle assessment (pp. 1–19). New York: McGraw-Hill.

Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

51



×