1. Lời giới thiệu
Trong nền giáo dục truyền thống từ xa xưa đến nay, chúng ta đã khá quen thuộc với
hình ảnh những ông đồ mặc áo dài the gõ đầu trẻ; rồi đến hình ảnh người thầy đứng trên
bục giảng say sưa giảng bài, người học ngồi dưới cắm cúi, hý hoáy chép từng từ từng
chữ. Kết quả sau đó chắc ai trong chúng ta cũng đã nắm được, người học như những cỗ
máy kiến thức khô khan, không biết thực hành hay ứng dụng vào thực tiễn. Đó chính là
hệ quả của một nền giáo dục truyền thống với việc lạm dụng quá nhiều kiến thức lý
thuyết mà không có sự chú trọng tới vận dụng, thực hành. Với cách dạy học như vậy,
nền giáo dục không thể đạt được mục tiêu giáo dục của thời đại mới là nhằm đào tạo
một con người toàn diện, một công dân toàn cầu với những kỹ năng tự học suốt đời, tư
duy phê phán, kỹ năng làm việc trong môi trường hợp tác… Đã đến lúc chúng ta phải
thay đổi, và phải có một cuộc cải cách giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy: Thay
vì phải ép người học phải ngồi hàng tiếng đồng hồ nghe những bài giảng đã quá quen
thuộc và thiếu sự hấp dẫn, tại sao chúng ta không tận dụng quãng thời gian đó dành cho
các hoạt động tương tác trên lớp? Bởi lẽ những hoạt động đó mang lại nhiều giá trị,
nhiều lợi ích cho người học hơn trong yêu cầu của xã hội hiện nay.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển như
vũ bão. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) thâm nhập và chi phối hầu hết các
lĩnh vực trong đó có giáo dục. Nhờ sự hỗ trợ của ICT mà giáo dục đã có thể thực hiện
được các tiêu chí mới: học mọi nơi (any where), học mọi lúc (any time), học suốt đời
(life long), dạy cho mọi người (any one) ở mọi trình độ tiếp thu khác nhau. Năng lực tự
học trở thành năng lực cốt lõi cần phải hình thành cho người học ngay từ bậc học phổ
thông, đặc biệt là đối với học sinh trung học phổ thông (THPT). Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh THPT trong thời đại công nghệ thông tin
hiện nay? Những năm gần đây, chắc hẳn những người quan tâm đến giáo dục đã không
còn xa lạ với thuật ngữ E-learning – học trực tuyến, một hình thức tự học hiện đại dựa
trên nền tảng ứng dụng Công nghệ thông tin và truyền thông. E-learning mang lại sự
thay đổi lớn lao trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên giáo dục cùng với hàng loạt
các ưu điểm khác nhau như thoải mái, linh hoạt, cá nhân hóa người học,... mở ra nhiều
cơ hội, điều kiện học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi người, góp phần bồi
dưỡng năng lực tự học cho học sinh (HS). Tuy nhiên, E-learning cũng bộc lộ nhiều
1
nhược điểm như đòi hỏi học sinh phải có tính tự chủ lớn, có động lực học tập cao. Thông
qua E-learning, HS chủ yếu học được kiến thức hơn là học được cách vận dụng kiến
thức và không có nhiều điều kiện để học và rèn luyện các năng lực cần thiết như năng
lực giao tiếp, năng lực làm việc theo nhóm và năng lực tự học như ở các lớp học chính
khóa. Như vậy có thể thấy rằng không thể thay thế, phủ nhận vai trò của lớp học chính
khóa đối với việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Thời gian trên lớp dùng để
triển khai kênh giao tiếp trực tiếp giữa GV với HS và giữa HS với nhau, giúp khuyến
khích, nâng cao động lực học tập, góp phần bồi dưỡng cho HS năng lực tự học. Trên lớp,
HS không chỉ được học kiến thức mà còn được học nhân cách, phương pháp truyền đạt
kiến thức, cách thức làm việc, học tập, nghiên cứu của thầy, trao đổi, học hỏi với các
bạn,… là những nhược điểm mà E-learning chưa giải quyết được. Mặt khác, trong điều
kiện giáo dục Việt Nam, lớp học chính khóa ở bậc THPT còn gặp nhiều khó khăn như bị
giới hạn thời gian của tiết học, phụ thuộc nhiều vào kiến thức nền tảng và khả năng học
tập của mỗi HS.
Với những khó khăn trên, tôi mạnh dạn đề xuất tới phương pháp dạy học theo mô
hình lớp học đảo ngược (FL) – một mô hình có thể hạn chế tối thiểu những nhược điểm
nội tại của cả E-learning và lớp học chính khóa. Lớp học đảo ngược sẽ điền khuyết
những vấn đề còn thiếu sót của E-learning và ngược lại. Trong lớp học đảo ngược, Elearning được sử dụng như một phương tiện hiện đại, giúp phân phối các tài nguyên học
tập, các bài giảng video, câu hỏi đóng kiểm tra mức độ tiếp thu giúp cá nhân hóa việc
học, để HS tự học ở nhà,... Giờ học ở lớp sẽ được GV tận dụng tối đa tổ chức cho HS
vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc triển khai các dự án, giải quyết các
vấn đề mở, giúp HS hiểu sâu hơn đồng thời bồi dưỡng cho học sinh các năng lực tự học.
Môn Lịch sử với phương pháp dạy học truyền thống nhiều năm trước đã không còn
gây được hứng thú, chú ý và sự yêu thích của nhiều thế hệ học sinh. Bởi đặc thù kiến
thức khiến nhiều học sinh cảm thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc,…, lại thêm phương
pháp giáo dục truyền thụ một chiều, thiếu sự linh động và hấp dẫn đã khiến cho nhiều
học sinh cảm thấy chán nản và xa rời dần bộ môn này. Những năm gần đây, với sự bùng
nổ của công nghệ thông tin và quyết tâm đổi mới căn bản toàn diện của Bộ giáo dục, đặc
biệt là đổi mới về phương pháp dạy học, nhiều giáo viên đã cố gắng tìm tòi, thử nghiệm
nhiều phương pháp dạy học tiên tiến có sự ứng dụng khá hiệu quả của các phương tiện
công nghệ thông tin. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều giáo viên vẫn chưa ứng dụng tốt
2
công nghệ thông tin, khiến bài giảng trở thành một bài thuyết trình với những slide trình
chiếu đơn thuần, hoặc vì áp dụng quá nhiều phương pháp và hoạt động vào tiết học, dẫn
đến hiện tượng “cháy giáo án” hoặc làm cho học sinh cảm thấy ngạt thở, rối rắm, không
tập trung được vào kiến thức cơ bản. Mô hình “Lớp học đảo ngược” – Flipped
Classroom sẽ là một giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch
sử. Đây là mô hình dạy học dựa trên bài giảng điện tử Elearning kết hợp hài hòa giữa
học trực tuyến và học chính khóa được nhiều giảng viên tại các trường học ở Mỹ,
Autralia và nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và áp dụng; những năm gần đây đã bắt
đầu xuất hiện ở Việt Nam. Hy vọng với phương pháp dạy học mới này sẽ phần nào giải
quyết được những khó khăn của giáo dục nói chung, của việc dạy và học môn Lịch sử
nói riêng, góp phần làm cho chất lượng giáo dục được nâng cao.
2. Tên sáng kiến: “Xây dựng và sử dụng bài giảng E-learning vào dạy học Tiết 20 Bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935” (T1 - Lịch sử lớp 12 cơ bản) theo mô
hình lớp học đảo ngược.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: ……….
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Họ và tên: …………
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Học sinh lớp 12 trường THPT…………
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đâu: 10/11/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến: (Nội dung sáng kiến)
7.1. Những vấn đề chung.
7.1.1. Một vài nét chung về bài giảng điện tử E-learning:
Khái quát chung:
3
Trong những năm qua, với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin và
truyền thông, việc dạy - học với sự hỗ trợ của máy tính và mạng internet đã và đang trở
nên quen thuộc, đặc biệt là thuật ngữ E-Learning đã ngày càng phổ biến. Thuật ngữ ELearning được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ sáng
kiến này, người viết đề cập đến bài giảng E-learning theo tài liệu tập huấn bài giảng điện
tử E-learning của Cục công nghệ thông tin – Bộ giáo dục và Đào tạo như sau: Elearning (Còn gọi là Đào tạo điện tử, Giáo dục điện tử) là một thuật ngữ dùng để mô tả
việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông. Bài giảng Elearning là sản phẩm được tạo ra từ các công cụ tạo bài giảng, có khả năng tích hợp đa
phương tiện gồm: phim, hình ảnh, đồ họa, hoạt hình, âm thanh,… và tuân thủ một trong
các chuẩn như HTML, SCROM.
Như vậy, qua cách tiếp cận trên cho thấy bài giảng E-learning khác hoàn toàn với các
khái niệm như giáo án điện tử, bài trình chiếu hoặc bài giảng điện tử (power point)
thường thấy. Những bài giảng điện tử thông thường không có khả năng tương tác với
người học, và chỉ được sử dụng làm công cụ hỗ trợ cho giáo viên trong các giờ học
chính khóa. Còn bài giảng E-learning có thể dùng cho học ngoại tuyến (offline) hay trực
tuyến (online) và có khả năng tương tác với người học, giúp người học có thể tự học mà
không cần đến thầy dạy, không cần đến trường lớp, không bị gò bó bởi thời gian. Để
soạn được bài giảng điện tử E-learning có thể dùng rất nhiều phần mềm soạn thảo.
Nhưng trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ xin đề cập tới cách soạn thảo
bài giảng E-learning dựa trên phần mềm M-Powerpoint kết hợp với phần mềm Ispring
8.7 cùng một số phần mềm hỗ trợ như Camtasia,…
Đặc điểm của E-learning
Trên cơ sở các nghiên cứu thực tiễn, các nhà nghiên cứu giáo dục đã khẳng định hiệu
quả của việc ứng dụng E-Learning trong hoạt động dạy và học, bồi dưỡng cho HS
những năng lực cần thiết. Từ các kết quả nghiên cứu có thể rút ra những đặc điểm của Elearning như sau:
- Tính linh hoạt: Với mỗi bài học E-learning có thể tùy biến theo nhu cầu và hoàn cảnh
của học viên. Người học tự do lựa chọn bài học, chương trình học theo ý thích, phù hợp
với trình độ, tốc độ tiếp thu của bản thân, mở ra nhiều cơ hội học tập cho mọi người.
4
- Sự thoải mái: Với bài giảng E-learning, người học không bị giới hạn bởi không gian và
thời gian. Người học có thể học tập mọi nơi, mọi lúc theo nhu cầu của mình chỉ cần có
máy tính, Tablet, smartphone được kết nối mạng. Tất cả các bài giảng và tài liệu cần
thiết được cung cấp qua các nền tảng trực tuyến, dễ dàng để truy cập. Khi học với Elearning, người học không phải mất thời gian, chi phí đi lại đến lớp, không cần tuân thủ
theo thời gian biểu cứng nhắc (phải dậy sớm, mặc quần theo quy định khi đến lớp...).
- Khả năng tự học - tự định hướng: Người học tự xác định lịch trình học tập theo nhu cầu
cá nhân của mình; có thể hoàn thành các mục tiêu bất cứ lúc nào. Với ưu điểm này, Elearning cho phép họ tiến bộ với nhịp điệu riêng, phù hợp với họ. Tuy nhiên trong một
số trường hợp, khóa học E-learning có thể yêu cầu thời hạn hoàn thành. Ví dụ, HS phải
hoàn thành khóa học trước khi khóa học kết thúc theo lịch quy định của nhà trường.
- Có khả năng tiêu chuẩn - tái hiện: Các khóa học E-learning được thiết kế theo một quy
trình chuẩn hóa và nhất quán trong việc phân phối nội dung. Nội dung học tập đa
phương tiện, phong phú, lôi cuốn. Người học dễ dàng xem lại, kéo nhanh hoặc lưu lại
lâu hơn ở các đơn vị kiến thức mà cá nhân quan tâm, cần hiểu rõ hơn. Tài liệu học, các
bài kiểm tra đã làm có thể được lưu trữ lại và người học có thể tham khảo lại khi cần.
- Tương tác chia sẻ: Người học có thể tương tác với nhau hoặc với GV, phản hồi và chia
sẻ những điều đã biết, qua đó tiếp nhận và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng của bản thân.
Khi cần hỗ trợ hoặc thắc mắc, người học chỉ cần truy cập bảng hỗ trợ để gửi câu hỏi đến
GV.
- Phản hồi tức thì: Thông thường cuối mỗi môđun, người học được làm kiểm tra để đánh
mức độ tiếp nhận kiến thức vừa học. E-learning hỗ trợ phản hồi kết quả ngay lập tức,
qua đó người học sẽ biết được mức độ tiếp thu của mình, kiến thức nào cần nghiên cứu
lại hoặc gửi thông báo chúc mừng họ đã hoàn thành môđun học đó.
- Tự do thể hiện: Trong quá trình học tập, đôi lúc người học có thể mắc các sai sót. E-
learning cho phép người học không phải xấu hổ khi bị sai sót. Điều này khuyến khích
việc khám phá và thử nghiệm các ý tưởng. Nếu làm sai, người học hoàn toàn có thể bắt
đầu lại mà không gặp trở ngại gì.
5
- Nâng cao kĩ năng sử dụng máy tính và Internet: Học tập với E-learning giúp người học
rèn luyện và nâng cao kĩ năng sử dụng máy tính một cách dễ dàng. Bằng cách sử dụng
máy tính mỗi khi học, họ sẽ dần dần trở nên giỏi hơn trong việc truy cập Internet và máy
tính.
Trên cơ sở những đặc điểm của E-learning, chúng ta có thể thấy đây là phương pháp
dạy học mới, có ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, tăng cường khả năng tự học của
Học sinh và sẽ trở thành môi trường học tập trong xã hội tương lai. Tuy nhiên, trong thời
điểm hiện tại khi kho bài giảng E-learning chưa thực sự được chuẩn hóa, cũng như
người học với khả năng tự học bằng giáo trình E-learning chưa cao thì việc có sự hướng
dẫn của giáo viên trên lớp để tiếp cận dần với bài giảng E-learning là vẫn rất cần thiết.
Nhất là bài giảng E-learning đôi khi chưa thể chuyển tải hoàn toàn đầy đủ các kiến thức
quan trọng hoặc đi vào chiều sâu của kiến thức, khả năng vận dụng kiến thức… Lúc này,
vai trò của thầy cô giáo trên lớp học cũng còn khá quan trọng trong việc giúp học sinh
tiếp cận dần với bài giảng E-learning cũng như giúp các em làm sáng tỏ những vấn đề
mà chưa tự mình tìm ra được, nâng cao khả năng tìm tòi sáng tạo và vận dụng kiến thức
vào thực tế cuộc sống.
7.1.2. Một vài nét về mô hình lớp học đảo ngược
* Khái quát chung:
Lớp học đảo ngược (FL - Flipped Classroom) là mô hình giáo dục tiên tiến được
ứng dụng dựa trên sự phát triển của công nghệ E-learning và phương pháp đào tạo
hiện đại. Mô hình này (FL) được hiểu một cách đơn giản nhất là “đảo ngược/đảo trình
lớp học là chuyển đổi những hoạt động trong lớp ra ngoài lớp và ngược lại”. Hoạt động
này có thể tóm tắt dưới dạng bảng sau:
Bảng 1. Hoạt động chuyển đổi giữa lớp học đảo ngược và lớp học truyền thống.
Loại hình
Lớp học truyền thống
Lớp học đảo ngược
Trong lớp học
Bài học/Bài giảng
Bài tập và luyện tập
6
Ngoài lớp học
Bài tập và luyện tập
Bài giảng E-learning (Video
bài giảng)
Đặc điểm lớn nhất của mô hình lớp học đảo ngược đó chính là dạng thức học tập kết
hợp (E-learning) giữa học tập trực tuyến và học tập giáp mặt và có sự đảo ngược tiến
trình học tập của người học. Theo phương pháp dạy học truyền thống thì học sinh tới
trường, lắng nghe thầy cô giảng bài rồi trở về nhà làm bài tập… Nhưng với mô hình
lớp học đảo ngược thì học sinh xem các bài giảng ở nhà qua mạng. Giờ học ở lớp sẽ
dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu như
giải đáp các thắc mắc của học sinh, làm bài tập khó hay thảo luận sâu hơn về kiến
thức...
* Ưu điểm
Việc tìm hiểu kiến thức được định hướng bởi người thầy (thông qua những giáo trình
E-Learning đã được giáo viên chuẩn bị trước cùng thông tin do học sinh tự tìm kiếm),
nhiệm vụ của học sinh là tự học kiến thức mới này và làm bài tập mức thấp ở nhà. Sau
đó vào lớp các em được giáo viên tổ chức các hoạt động để tương tác và chia sẻ lẫn
nhau. Các bài tập mức độ cao cũng được thực hiện tại lớp dưới sự hỗ trợ của giáo viên
và các bạn cùng nhóm.
Cách học này đòi hỏi học sinh phải dùng nhiều đến hoạt động trí não nên được gọi là
“High thinking". Như vậy những nhiệm vụ mức độ cao trong thang tư duy được thực
hiện bởi cả thầy và trò.
Phương pháp này không cho phép học sinh ngồi nghe thụ động nên giảm được sự
nhàm chán. Mặc dù vậy, muốn quá trình đảo ngược thành công thì những giáo trình ELearning phải rất bài bản và hấp dẫn để lôi cuốn được học sinh không xao lãng mà tập
trung vào việc học. Vì lý do đó, phương pháp này phải gắn chặt với phương pháp ELearning. Giáo viên phải quản lý và đánh giá được việc tiếp thu kiến thức thông qua các
bài tập nhỏ đi kèm với bài giảng E-learning.
Một ưu điểm khác là học sinh có thể học mọi lúc, mọi nơi và với mọi thiết bị chỉ cần
thiết bị đó có thể online được như smartphone, máy tính bảng, Ipad, tivi hoặc máy tính
bàn có kết nối Internet...
Phân biệt rõ thời gian trên lớp chỉ luyện tập và ôn tập, hỏi đáp kiến thức, không bị lẫn
với thời gian nghe giảng như phương pháp truyền thống. Giảm được thời gian dành cho
những khái niệm mà học sinh dễ dàng nắm bắt để tập trung vào các vấn đề khó hơn, đào
sâu hơn. Lý do này xuất phát từ việc đôi khi giáo viên khó xác định chính xác khái niệm
nào học sinh dễ nắm bắt và khái niệm nào thì khó khăn. Đôi khi, giảng kĩ một khái niệm
7
•
cho nhóm học sinh này sẽ lấy đi thời gian của các nhóm học sinh đã hiểu còn lại. Cách
giải quyết là học sinh chỉ cần tua video xem lại đoạn chưa hiểu.
Như vậy, lớp học đảo ngược sẽ giúp:
Hướng vào dạy học cá thể. Giáo viên có nhiều thời gian trên lớp hơn để tiếp cận các học
sinh yếu kém.
• Học sinh có thể thu lại hoặc xem đi xem lại đoạn video bài giảng chưa hiểu.
• Học sinh vắng mặt sẽ không bỏ lỡ bài giảng.
• Có được nhiều thời gian hơn cho các hoạt động học trên lớp.
• Phụ huynh có thể phối hợp cùng giáo viên trong việc hướng dẫn học tập của học
sinh.
Nhược điểm
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược điểm khi vận dụng vào quá trình
dạy học ở phổ thông do đặc thù của giáo dục mỗi nước cũng như tính cách và kỹ năng
của học sinh.
Trước hết nó làm mất nhiều thời gian và công sức cho việc soạn giảng của giáo viên.
Với khối lượng kiến thức khổng lồ và số môn học trong một năm quá nhiều thì việc học
tập theo phương pháp này là khó khả thi. Cộng với việc kiểm tra đánh giá vẫn chưa rõ
ràng theo tiêu chí đánh giá toàn diện chứ không chỉ chú trọng đánh giá về mặt nội dung
thì giáo viên vẫn còn vất vả chạy theo kiểu “thi gì dạy nấy".
Ngoài ra, muốn thực hiện các bài giảng E-Learning và sử dụng các công cụ khác để tổ
chức hoạt động học tập trong lớp thì đòi hỏi giáo viên phải giỏi về công nghệ và vững về
phương pháp. Mặc dù vậy, không phải học sinh nào cũng hứng thú hợp tác hoặc do
đường truyền Internet kém sẽ gây gián đoạn việc học tập ở nhà. Cuối cùng giáo viên, tổ
bộ môn phải có một kế hoạch đồng bộ và xuyên suốt năm học vì không phải bài học nào
cũng phù hợp với phương pháp này.
Nếu khắc phục được những nhược điểm trên thì phương pháp lớp học đảo ngược Flipped classroom - sẽ là rất tuyệt vời cho việc rèn kỹ năng trong thế kỷ 21.
7.1.3. Tiện ích Google Classroom – nơi quản lý bài học trực tuyến hiệu quả.
Giới thiệu chung về tiện ích Google Lớp học.
Tiện ích Lớp học trên Google (Google Classroom) là một công cụ mới trong công cụ
Google hỗ trợ giáo dục (Google Apps for Education) giúp giáo viên tạo và sắp xếp bài
8
học, bài tập một cách nhanh chóng, cung cấp phản hồi một cách hiệu quả và giao tiếp
với các lớp học của họ một cách dễ dàng. Lớp học này còn giúp học sinh sắp xếp bài tập
của mình trong Google Drive, hoàn thành và nộp bài tập cũng như trực tiếp giao tiếp với
giáo viên và bạn cùng lớp của họ bằng hình thức trực tuyến. Bên cạnh đó, nó còn có
chức năng tạo và thu bài tập, chấm điểm: Lớp học kết hợp với Google Tài liệu, Drive và
Gmail giúp giáo viên tạo và thu bài tập không cần giấy. Họ có thể nhanh chóng xem
những ai đã hoặc chưa hoàn thành bài tập và cung cấp phản hồi trực tiếp, theo thời gian
thực đến từng học sinh. Thêm vào đó, nó còn có vai trò nâng cao hiệu quả giao tiếp
trong lớp: Giáo viên có thể thông báo, đặt câu hỏi và nhận xét về học sinh theo thời gian
thực—nâng cao hiệu quả giao tiếp trong và ngoài lớp học.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, tôi chỉ sử dụng tiện ích Google Classroom
nhằm tạo ra một kho kiến thức theo từng bài học để học sinh và giáo viên có thể dễ dàng
thuận tiện trao đổi với nhau, lưu giữ thông tin… trong thời gian ngoài giờ trên lớp.
7.1.4. Sự kết hợp hoàn hảo giữa mô hình lớp học đảo ngược với bài giảng E-learning
bằng tiện ích Google Classroom.
Trên cơ sở hiểu những nét cơ bản nhất về bài giảng E-learning, mô hình – phương
pháp lớp học đảo ngược, và tiện ích Google Classroom, tôi nhận thấy hoàn toàn có thể
sử dụng phương pháp dạy học đảo ngược thông qua các bài giảng E-learning và đăng
tải, quản lý nó bằng tiện ích Lớp học của Google. Đây là Tiện ích đơn giản mà học sinh
và giáo viên dễ dàng có thể thực hiện các thao tác để điều hành lớp học trực tuyến. Lớp
học đảo ngược là sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa việc học trực tuyến và học chính khóa
trên lớp, nó phát huy được những ưu điểm và hạn chế được các khuyết điểm của hai
hình thức này, nhằm mục tiêu cuối cùng là giúp tăng cường khả năng tự học, tự chiếm
lĩnh kiến thức của học sinh.
7.2. Các giải pháp thực hiện – Quy trình thực hiện:
7.2.1. Giáo viên lập kế hoạch dạy học:
Lựa chọn bài học:
Giáo viên lựa chọn bài dạy là Tiết 20 bài 14: (Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản): Phong
trào cách mạng 1930 – 1935(tiết 1).
9
Xác định mục tiêu bài học:
Về kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh nắm được:
•
Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong
những năm 1929-1933.
•
Những cuộc đấu tranh tiêu biểu trong phong trào cách mạng 1930-1931.
•
Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh.
Về tư tưởng: Bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào dân tộc về sự nghiệp đấu tranh của
Đảng, niềm tin về sức sống mãnh liệt, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đưa sự nhiệp cách
mạng dân tộc đi lên.
Về kĩ năng: Xác định kiến thức cơ bản của bài “Xô Viết Nghệ – Tĩnh”; Kĩ năng phân
tích, đánh giá sự kiện lịch sử.
Về định hướng năng lực hình thành:
Năng lực quan trọng nhất là năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức mới,
làm việc độc lập; năng lực ứng dụng CNTT, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực hợp
tác,…
Xác định phương pháp: Sử dụng phương pháp Lớp học đảo ngược.
Phương tiện: Máy tính, hoặc điện thoại thông minh có nối mạng.
Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Chuẩn bị của giáo viên: Bài giảng E-learning về Phong trào cách mạng 1930 – 1931,
phiếu học tập (bản cứng hoặc bản mềm). Máy tính, máy chiếu (trên lớp).
Chuẩn bị của học sinh: Máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng, tự học bài
Elearning và làm phiếu học tập ở nhà…
7.2.2. Soạn bài giảng E-learning:
Cách sử dụng các phần mềm như M- powerpoint, Camtasia, Ispring,… được viết khá
cẩn thận thành các tài liệu tập huấn cơ bản cho giáo viên. Trong phạm vi bài viết của
mình, tôi không đi sâu vào từng bước hay cách thức cụ thể để xây dựng bài giảng Elearning mà chỉ có đôi điều lưu ý trong từng bước thực hiện cũng như cách thức sử dụng
các phần mềm mà trong thực tế quá trình làm tôi rút ra.
Bước 1: Soạn bài giảng powerpoint
10
Bài giảng Powerpoint dùng để thiết kế Elearing có đôi chút khác biệt so với bài
giảng powerpoint dạng thô mà giáo viên dùng để giảng dạy hay thuyết trình trên lớp. Nó
cần đảm bảo tính đồng nhất, khoa học, rõ ràng, mạch lạc,…
Bước 2: Ghi âm, ghi hình (Có sử dụng phần mềm Camtasia tạo, cắt ghép video lời giảng
cho phù hợp).
- Trước khi thực hiện ghi âm, ghi hình, cần viết lời dẫn như một kịch bản sẵn có để
ghi âm và ghi hình.
- Ghi âm: Nên ghi âm bằng điện thoại cho tiếng trong, rõ ràng. Tuy nhiên file ghi âm
bằng điện thoại có đuôi m4a, không tương thích với phần mềm soạn bài E-learning, bởi
vậy cần chuyển đổi đuôi sang mp3 (dùng phần mềm hay có thể chuyển đổi trực tuyến)
để chèn vào bài giảng.
- Ghi hình: Trong quá trình thực hiện, tôi thấy ấn tượng nhất là các video mà có hình
giáo viên đứng giảng trên nền là 1 video hoặc 1 hình ảnh liên quan đến nội dung bài học.
Thực tế, làm được điều đó, đầu tiên, tôi quay video đứng giảng bài, trên phông nền là
màu xanh lá. Sau đó sử dụng phần mềm Camtasia để lồng hai video vào với nhau, sẽ ra
được một video khá thú vị, hấp dẫn.
11
(Hình 1). Video giáo viên giới thiệu bài học ghép trên nền video về cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 – 1933.
Bước 3: Sử dụng phần mềm Ispring suit 8.7 để đồng bộ âm thanh, hình ảnh và xây dựng
các câu hỏi tương tác.
Một vài lưu ý:
- Nên sử dụng phần mềm Ispring bản 8. vì nó ổn định và dễ làm hơn. Hơn nữa, có thể
đầu tư mua bản Việt hóa để giáo viên tự làm thuận tiện, biết các chức năng của từng mục
mà không mất công phải dịch hay ghi nhớ nội dung nào.
- Trong quá trình đồng bộ âm thanh phải làm sao cho khớp các slide với từng hiệu
ứng và có thể cho thêm nhạc nền âm lượng nhỏ làm mềm bài giảng hơn, đồng thời có
thể che được những tiếng ồn nhỏ do trong quá trình ghi âm bị xen lẫn tạp âm. (Nên dùng
nhạc không lời kích thích tư duy cho học sinh). Bên cạnh đó, trong quá trình đồng bộ
cũng cần chỉnh sửa âm thanh cho đều nhau tránh chỗ tiếng quá to, chỗ tiếng nhỏ, hay bị
hụt hơi…
- Xây dựng các câu hỏi tương tác: Thông thường, nhiều giáo viên thường xây dựng
các câu hỏi ở đầu bài và cuối bài học nhằm kiểm tra bài cũ và ôn tập lại kiến thức vừa
học. Tuy nhiên, quan điểm của tôi là cần kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh cả
trong qua trình lĩnh hội kiến thức mới (ở dạng nhận biết và thông hiểu). Nên trong bài
học tôi có xây dựng 5 câu hỏi với 3 hình thức trắc nghiệm: Lựa chọn phương án đúng
nhất, Đúng/Sai và Điền khuyết ngay chính trong phần tìm hiểu kiến thức mới. Như vậy
bài giảng E-learning có tính tương tác cao hơn, yêu cầu học sinh phải tập trung vào bài
học và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh qua quá trình trả lời. Bởi vì sau mỗi
câu hỏi sẽ có phần gửi kết quả phản hồi về email cho giáo viên.
Bước 4: Xuất bản bài giảng E-learning:
Cần xuất bản bài giảng Elearning theo chuẩn HTML hay SCROM để dễ dàng tương
thích với giao diện của các loại máy tính, điện thoại nối mạng. Trong bài làm của mình
tôi đã xuất bản theo chuẩn HTML, bài giảng được xem thông qua file index.html hoặc
flash.html.
12
7.2.3. Sử dụng tiện ích của Google Lớp học để đăng tải và quản lý bài học.
Bước 1: Trước hết phải yêu cầu học sinh cả lớp cung cấp danh sách học sinh và địa chỉ
gmail. Để thuận tiện, cũng có thể giáo viên tạo gmail đồng bộ cho học sinh trong lớp
theo số thứ tự.
Bước 2: Tiếp theo, giáo viên Đăng nhập vào Gmail và click chuột vào mục ứng dụng.
Sau đó, Click vào biểu tượng Lớp học để tạo lớp học mới. (Trong bảng này, đặt Tên Lớp
học (bắt buộc) (Tôi đặt tên là lớp 12A7), nếu bạn giảng dạy nhiều học phần có thể mô
tả thêm trong mục Phần, bạn có thể tạo chủ đề cho lớp học bằng cách điền vào dòng
Chủ đề).
Click vào đây để
vào tiện ích
Google
Classroom
Hình 2. Đăng kí tạo lớp học mới trên Tiện ích Google Classroom.
Bước 3: Thêm học sinh vào lớp học (Dựa trên danh sách gmail theo thứ tự đã được
chuẩn bị sẵn).
Bước 4: Tạo chủ đề bài học và tải phần bài E-learning lên Google Classroom.
7.2.4. Phát phiếu học tập và hướng dẫn HS tự học ở nhà.
Giáo viên có thể phát phiếu học tập bằng giấy và yêu cầu các em vào gmail trong
Google Classroom để học bài mới qua bài giảng E-learning.
Thực tế, tôi đã soạn phiếu học tập, in ra và phát cho học sinh. Phiếu học tập bao gồm
các bước cơ bản: hướng dẫn học sinh vào google classroom để lấy bài giảng Elearning,
các bước thực hiện và các nhiệm vụ cần làm ở nhà.
13
(Mẫu phiếu học tập tôi phát cho học sinh ở phần phụ lục số 2 trang 28)
7.2.5. Dạy học trên lớp.
-
-
Tất cả các công đoạn từ số 1 đến số 4 đều là sự chuẩn bị ở nhà của cả giáo viên và học
sinh. Giờ học thực tế thường có cấu trúc như sau:
Kiểm tra đánh giá kết quả tự học ở nhà của học sinh (10 phút)
Giải đáp các thắc mắc và hợp thức hóa, hệ thống hóa kiến thức mới (10 phút)
Để củng cố thêm kiến thức cho học sinh, tôi cũng dùng một số trò chơi vận động theo
từng nhóm để học sinh có sự tương tác, phát huy năng lực hợp tác và để khắc sâu kiến
thức (20 phút).
Cuối giờ học, tôi lại tiếp tục đưa ra tình huống mang tính vấn đề và yêu cầu HS về nhà
thực hiện nghiên cứu tiếp bài giảng E-learning Tiết 21 Bài 14 Phong trào cách mạng
1930 - 1935 (Tiết 2) đã được đăng tải trên Google Classroom của lớp học và phát phiếu
hướng dẫn tự học cho bài học mới (5 phút).
Nội dung của phần dạy trên lớp được thể hiện rất rõ trong phụ lục số 1 về giáo án trên
lớp, trang 26
14
8. Những thông tin cần bảo mật (Không có).
9. Điều kiện để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Điều kiện:
Điều kiện về con người: HS lớp 12 Trường THPT Bình Xuyên – Huyện Bình Xuyêntỉnh Vĩnh Phúc.
Giáo viên: có năng lực ứng dụng CNTT, biết soạn bài giảng E-learning, biết sử dụng
thông thạo Gmail, có vốn tiếng Anh nhất định, có tư duy đổi mới và yêu nghề, tâm huyết
với nghề.
Học sinh: Có phương tiện là máy tính hoặc điện thoại thông minh có nối mạng. Biết
sử dụng máy tính, điện thoại thông minh, dùng thành thạo gmail, có sự nhiệt tình, ham
học hỏi…
Điều kiện về cơ sở vật chất: Phòng lớp học, đồ dùng, máy tính, máy chiếu, các thiết bị
dạy và học nói chung, tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài liệu chuyên
môn và tài liệu đổi mới phương pháp giáo dục,… Các phần mềm như M-Powerpoint,
Camtasia, Ispring suit, … Máy tính hoặc điện thoại thông minh có kết nối mạng,…
Thời gian: trong năm học
Sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp đặc biệt
•
là sự quan tâm, tạo điều kiện về thời gian, phương tiện học tập cho con em mình của các
bậc phụ huynh.
Kiến nghị: Để sáng kiến có thể áp dụng vào thực tiễn, tôi xin có một số kiến nghị sau:
Đối với các cấp quản lí giáo dục:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử, mua sắm trang thiết
•
bị dạy học hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, kết nối mạng internet...để giáo viên dễ dàng
tổ chức các hoạt động dạy học một cách hiệu quả nhất. Hỗ trợ giáo viên các công cụ để tạo
bài giảng mô hình lớp học đảo ngược.
Bên cạnh đó cũng cần xây dựng được một hệ thống bài giảng Elearning chuẩn hóa đầy đủ
•
để thực hiện việc dạy học được hiệu quả.
Tổ chức các đợt tập huấn trên diện rộng cho giáo viên về cách ứng dụng CNTT vào dạy
•
học: cách soạn bài giảng Elearning, sử dụng các phần mềm giáo dục cơ bản,...
Bốn là, thay đổi cách đánh giá năng lực người học: người dạy có thể tạo bài tập, rà soát và
cho điểm dễ dàng thông qua Google Drive.
15
•
Năm là các cơ sở giáo dục cần tạo tối đa điều kiện thuận lợi cho các giáo viên dám mạnh
dạn thực hiện các ý tưởng về phương pháp dạy học mới.
Đối với giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng:
Cần chú trọng việc nâng cao ý thức tự giác học tập của người học bằng cách thay đổi
phương pháp giảng dạy ngay từ các bậc đào tạo cấp tiểu học, THCS. (Hiện nay, các cuộc
thi online như Olympic toán và Tiếng Anh sẽ là nền tảng quan trọng để học sinh từ bậc
tiểu học được làm quen với máy tính và mạng internet phục vụ cho mục đích học tập).
Việc chuyển từ lối giảng dạy theo cách truyền đạt kiến thức sang giảng dạy tích cực, bồi
dưỡng năng lực người học. phải được áp dụng một cách tích cực và triệt để.
Với giáo viên dạy sử, cần phải tâm huyết, yêu ngành, yêu nghề, không ngừng tự học,
tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật những phương pháp dạy
học mới. Từ đó biết sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học hiện đại để
phát triển năng lực cho các em, đồng thời tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao
chất lượng môn học lịch sử trường THPT.
Đặc biệt, giáo viên phải không ngừng nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin
trong dạy học góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Giáo
viên tích cực tìm đọc các tài liệu tham khảo, có sự hiểu biết về các vấn đề thực tiễn hiện
nay: ô nhiễm môi trường, xung đột trên thế giới, biển đảo, xu thế toàn cầu hóa...làm cho
giờ học thêm hấp dẫn, sinh động hơn.
Đối với học sinh:
Cần chủ động hơn nữa trong học tập: chủ động trong việc tự học, tự nghiên cứu, chủ
động lĩnh hội kiến thức …
Ngoài ra, học sinh cần tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong việc học tập như
sưu tầm tài liệu liên quan đến bài học, thiết kế bài học bằng những hình thức khác nhau để
tạo hứng thú cho mình và cho các bạn xung quanh.
Đối với phụ huynh:
Cần kết hợp, hỗ trợ giáo dục con em trong những thời gian ngoài giờ lên lớp; tạo điều
kiện về phương tiện học tập (máy tính hay điện thoại có kết nối mạng internet), quan tâm
đến việc tự học ở nhà của học sinh. Và có sự liên hệ mật thiết với giáo viên để hiệu quả học
tập của học sinh trở nên tốt hơn.
16
10. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả.
10.1.1. Tính hiệu quả.
10.1.1.2. Hiệu quả thực tiễn
Tôi đang dạy 02 lớp là lớp 12A6 và 12A7 đều là hai lớp ban Khoa học xã hội
(12A6 là khối C, 12A7 là khối D1). Về năng lực học tập môn Lịch sử của hai lớp này
tương đối đồng đều. Theo kết quả khảo sát chuyên đề đầu năm, điểm trung bình môn sử
của hai lớp như sau:
Lớp
Lớp 12A6
Lớp 12A7
ĐTB KS
6.89
6.93
Trong quá trình thử nghiệm phương pháp mới, tôi chọn lớp 12A7 thực hiện phương
pháp lớp học đảo ngược, còn lớp 12A6 là áp dụng phương pháp dạy học truyền thống.
Sau bài học, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra đánh giá thì nhận được kết quả như sau:
(theo kết quả điểm kiểm tra sau bài học trong phụ lục số 4 trang 33):
Lớp
Lớp 12A6
Lớp 12A7
Điểm kiểm tra TB
6.97
7.76
Sau khi áp dụng kinh nghiệm trên vào phần lịch sử thế giới lớp 12 ở trường THPT Bình
Xuyên, tôi nhận được những kết quả khả quan như sau:
- Học sinh chú ý và hứng thú hơn trong giờ học lịch sử, những trường hợp làm việc
riêng hay ngáp dài không còn nữa.
- Do đã nắm được trước nội dung bài học nên trong giờ, học sinh thảo luận sôi nổi,
tích cực, thường xuyên giơ tay để được trả lời các câu hỏi.
- Các em có ý thức tự giác học bài, làm bài và chuẩn bị bài mới tốt hơn.
- Điểm kiểm tra lịch sử của các em cao hơn.
So với lớp 12A6 (theo phương pháp truyền thống) thì chất lượng học tập của lớp
12A7 sau tiết dạy thực nghiệm được tăng lên đáng kể.
Kết quả bài kiểm tra sau giờ học:
17
Kết quả
Lớp
12A6
Tổng
số HS
36
Khá giỏi
SL
25
Trung bình
%
69,44%
Dưới TB
SL
%
SL
%
8
22.22%
3
8,33%
12A7
38
32
84.21%
6
15.79%
0
0
→ Kết quả trên cho thấy mặc dù hai lớp HS có trình độ tương đối đồng đều, nhưng
khi áp dụng phương pháp dạy học mới, lớp 12A7 học sinh có kết quả bài kiểm tra tốt
hơn (tỉ lệ khá giỏi là 84,21% trong khi lớp đối chứng 12A6 chỉ có 69,44%), và đặc biệt
lớp thực nghiệm (12A7) không có học sinh bị điểm dưới trung bình.
10.1.2. Tác dụng của mô hình Lớp học đảo ngược với việc bồi dưỡng khả năng tự học
của HS.
Trong các lớp học truyền thống, vai trò của người thầy được đặt định quá cao, thầy
giảng, trò nghe một phần cũng vì áp lực thời gian và quan niệm DH đơn thuần là chuyển
giao tri thức. Mô hình lớp học đảo ngược có sự hỗ trợ của E-learning đã tạo điều kiện
giải phóng người thầy khỏi áp lực về thời gian, có nhiều cơ hội tương tác, động viên và
thách thức để HS tiến bộ hơn.
Hình thành thói quen tự lực nghiên cứu tài liệu trước khi tới lớp
Hoạt động TH ở nhà trên E-learning sẽ giúp HS hình thành thói quen tự lực nghiên
cứu tài liệu trước khi đến lớp. Để hình thành được thói quen này, HS cần phải nhận biết,
hiểu, phân tích, tổng hợp, so sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc
độ, có hệ thống trên cơ sở những lý luận và hiểu biết đã có mà tự mình lĩnh hội kiến
thức. Đây là bước khởi đầu để rèn luyện thói quen tích cực khám phá, tìm tòi mọi nơi,
mọi lúc, mọi trường hợp và với nhiều đối tượng khác nhau, nâng cao dần lên HS sẽ chủ
động, tự lực nghiên cứu, độc lập tự giác trong học tập và tăng dần là học được nề nếp
làm việc khoa học.
Để TH đạt hiệu quả thì HS cần kiên trì, có thái độ học tập nghiêm túc, phải tự giác và
có quyết tâm. Khi đã thành thói quen thì HS sẽ thích thú với TH, từ đó biết cách TH. HS
tự học bằng hành động của chính mình, “hành để học, học để hành”, qua quan sát mà
học các phân tích, tư duy, tự mình biết cách phát hiện ra tính chất, bản chất sự vật/hiện
tượng. Cuối cùng là học cách tổng hợp, khái quát và diễn đạt ra bằng lời kiến thức đã
học.
18
Hình thành thói quen đặt câu hỏi
Bằng cách tự chịu trách nhiệm với việc học của mình và nguồn học liệu sẵn sàng trên
E-learning, HS hoàn toàn có thể xem lại khi cần hoặc sử dụng các trợ giúp cá nhân có
sẵn để tìm ra câu trả lời đúng đắn. Với những vấn đề chưa hiểu, HS chủ động hỏi thầy về
những gì mình có nhu cầu. Khi biết mình cần hỏi gì, hỏi đúng trọng tâm chính là HS đã
biết cách đặt câu hỏi
Tạo nhu cầu trao đổi, tương tác với bạn, với thầy
Tri thức ban đầu qua TH của HS có thể chưa hoàn toàn đúng vì vậy, trong học tập HS
cần bộc lộ sản phẩm học của mình qua thảo luận, biện luận, phản biện về các sản phẩm
mới kiến tạo, để mỗi HS được chia sẻ thông tin, học hỏi lẫn nhau; qua diễn đạt (lập luận)
và hỏi lại (phản biện) tự soi xét lại sản phẩn mới học được của mình, bổ sung, chỉnh sửa
và rút kinh nghiệm về cách học. Theo tháp nhu cầu Maslow, HS sẽ hào hứng, có nhiều
động lực tham gia học tập hơn khi được thể hiện trước mọi người
Ngoài ra, khi tham gia làm việc nhóm hiệu quả sẽ tác động tốt đến nhân cách cũng
như năng lực của chính HS đó bao gồm: biết cách cùng nhau suy nghĩ, có khả năng tự
điều chỉnh, có khả năng hợp tác, biết cách tranh luận và thuyết phục, học cách tôn trọng
người khác, biết lắng nghe quan điểm của người khác, tích lũy kinh nghiệm làm việc
nhóm. Chú ý rằng hoạt động nhóm chỉ có thể đạt hiệu quả tốt nếu GV phân chia công
việc, nhiệm vụ hợp lý. Mỗi cá nhân HS phải hoàn thành nhiệm vụ của mình trong chuỗi
nhiệm vụ chung của cả nhóm cộng tác. Từng nhiệm vụ nhỏ của từng người là một mô
đun đã được phân chia sẵn chờ người học hoàn chỉnh. Qua đó, không có hiện tượng
người làm ít, người làm nhiều mà là sự phối hợp nhau cùng hoàn thành công việc chung.
Thông qua thảo luận nhóm, HS biết cách tự thể hiện mình, bộc lộ suy nghĩ của bản
thân, nuôi dưỡng tự tin. Qua trao đổi, thảo luận, GV kịp thời phát hiện được lỗi, thiếu sót
trong quá trình tư duy, lập luận của HS để kịp thời chấn chỉnh, rèn luyện cho các em
cách tư duy khoa học đồng thời cũng hướng dẫn cả cách diễn đạt, trình bày vấn đề. Do
đó, HS thay vì chỉ học từ thầy mà còn học từ bạn, từ tài liệu sách vở.
Hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ
19
Trong mô hình lớp học đảo ngược, giờ học ở lớp sẽ được GV tận dụng tối đa tổ chức
cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc triển khai các dự án, giải
quyết các vấn đề mở. Trong các hoạt động này, HS được rèn luyện các kĩ năng phát biểu
ý kiến trước nhiều người (nhóm học tập, lớp, các GV), kĩ năng tham gia, trao đổi ý kiến
trong học tập dưới hình thức thảo luận, xemina, thực hành theo nhóm, biết sử dụng các
nghi thức ngôn ngữ và giao tiếp với từng cá nhân khác nhau với tư cách cá nhân hay tư
cách là người đại diện cho nhóm. Trong hoạt động nhóm, HS sẽ học được các kĩ năng
đối thoại, thương lượng và giải quyết những bất đồng, xung đột quan điểm, học được kĩ
năng biểu đạt bằng ngôn ngữ và hành động, biết thông cảm, đồng cảm, biết lắng nghe
người khác. Ngoài ra, HS có thể học thêm các kĩ năng biểu thị tính thân thiện và ân cần
với bạn bè trong học tập, tự phê bình và phê bình, kĩ năng làm việc cùng nhau trong
nhóm hợp tác. Khi được rèn luyện các kĩ năng trên, HS sẽ dần hình thành và phát triển
năng lực ngôn ngữ
Ngoài ra, GV có thể hướng dẫn HS cách tổng hợp, đánh giá, bằng nhiều hình thức
khác nhau: bằng lời văn, bảng biểu, sơ đồ, bản đồ tư duy…bằng ngôn ngữ của chính HS,
diễn đạt theo cách hiểu của các em, chứ không phải là chép lại nội dung trong tài liệu.
Hình thành thói quen vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề
Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định cách thức
giải quyết và lập kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, thu thập và xử lý
thông tin; đề xuất các giải pháp, kiến nghị các kết luận. Thực tế cho thấy nhiều HS có
thể thu thập thông tin phong phú nhưng không biết hệ thống và xử lý như để làm phát
hiện ra con đường tiệm cận giả thiết. Điều này đòi hỏi GV cần hướng dẫn cẩn thận và
kiên trì ngay từ những hoạt động đầu của giải quyết vấn đề. Dạy cho HS có thói quen, có
kĩ thuật giải quyết vấn đề là một yếu tố quan trọng trong việc dạy cách học cho HS.
Khi có kĩ thuật GQVĐ, HS có thể áp dụng vào rất nhiều trường hợp trong học tập
cũng như trong cuộc sống để lĩnh hội các tri thức cần thiết cho mình. Nên xem kĩ thuật
GQVĐ vừa là công cụ nhận thức, nhưng đồng thời là mục tiêu của việc dạy cho HS
phương pháp tự học.
Để hình thành cho HS thói quen vận dụng kiến thức, giải quyết vấn đề trong những
tình huống khác nhau thì HS cần phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so sánh sự vật
20
hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở những lý luận
và hiểu biết đã có của mình; phát hiện ra các khó khăn, mâu thuẫn xung đột, các điểm
chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc, nghịch lý cần phải khơi thông,
khám phá, làm sáng rõ... Đây là bước khởi đầu của sự nhận thức có tính phê phán đòi
hỏi nỗ lực trí tuệ cao. Việc thường xuyên rèn luyện năng lực này tạo cho HS thói quen
hoạt động trí tuệ, luôn luôn tích cực khám phá, tìm tòi ở mọi nơi, mọi lúc, mọi trường
hợp và với nhiều đối tượng khác nhau, nâng cao dần lên HS sẽ có thói quen vận dụng
kiến thức có hiệu quả. Đồng thời việc vận dụng những điều đã học vào thực tiễn mang
lại hiệu quả cao cũng sẽ có tác động ngược lại, tạo cho họ lòng ham học, hứng thú với
TH, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Việc TH, tự rèn luyện hình thành cho HS thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải
quyết vấn đề khó khăn trong học tập, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc
lựa chọn cuộc sống cho mình. HS sẽ dễ dàng thích ứng và không bị lạc hậu với người
khác. Tự học thúc đẩy lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao
của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ.
Hình thành các kĩ năng khai thác, sử dụng các phương tiện CNTT và truyền
thông hiện đại hiệu quả
Khi học với E-learning, HS được rèn luyện các kĩ năng CNTT từ cơ bản nhất như
cách thức sử dụng máy tính, cách tìm và nghiên cứu tài liệu số hóa, cách lưu trữ, sử
dụng các mail, văn bản điện tử để trao đổi thông tin và giao tiếp học tập trên Internet.
Rèn luyện các KN khai thác và sử dụng ICT hiệu quả làm cho thế hệ trẻ có ý thức cộng
đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện
đại; có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ
chức và kỷ luật cao.
10.1.3. Bài học kinh nghiệm.
Từ thực giảng dạy có sử dụng phương pháp lớp học đảo ngược và bài giảng Elearning, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân:
- Người giáo viên luôn phải cố gắng trong quá trình tự học, tự đào tạo, có ý chí cố
gắng để thích ứng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay.
21
- Biết tìm tòi, khám phá và ứng dụng vào giảng dạy những tiện ích của phần mềm dạy
học, những công cụ hữu ích như Google Classroom, …
- Với phương pháp dạy học mới – lớp học đảo ngược, việc ứng dụng công nghệ thông
tin khiến giờ học trở nên linh hoạt, hấp dẫn, thú vị. Các yếu tố này tác động đến nhận
thức, thái độ và việc rèn luyện kĩ năng của học sinh một cách tích cực và góp phần đáng
kể trong việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Kết quả khả quan của học sinh lớp 12A7
tại trường THPT Bình Xuyên sau học kì I mà tôi thực hiện áp dụng là minh chứng rõ
ràng nhất cho nhận định trên.
- Trước khi đến lớp, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, phải chuyên tâm,
tâm huyết nghiên cứu cẩn thận, tìm tòi, sáng tạo để tạo ra những bài giảng lịch sử hấp
dẫn, sinh động, gây hứng thú cho học sinh. Đồng thời điều đó cũng giúp kiến thức của
giáo viên sẽ luôn được củng cố và nâng cao.
- Kết hợp tốt các phương pháp dạy học và nội dung lồng ghép phải phù hợp, giáo viên
phải luôn tạo ra một giờ học thật thoải mái, nhẹ nhàng, không gượng ép học sinh.
- Nắm bắt được đối tượng học sinh và tình hình thực tế ở địa phương từ đó xây dựng
hệ thống khắc phục phù hợp với năng lực học sinh.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến của nhà trường.
Nhà trường cũng nhận thấy sự tiến bộ của HS lớp 12 khi thực hiện những biện pháp
đã nêu trong sáng kiến.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu:
ST
Tên tổ chức/ cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi áp dụng sáng kiến
T
1
- Phan Thị Hoài- GV
Lịch sử, Tổ Sử- ĐịaGDCD,Trường THPT
Bình Xuyên.
Khu phố I
Hương Canh
–
Bình
Xuyên - Vĩnh
Phúc
22
Không chỉ dừng lại ở bài 14 Lịch sử lớp
12 Ban cơ bản, SKKN này còn có thể áp
dụng rộng rãi cho tất cả các môn học từ
khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội,
các cấp học từ mầm non đến Đại học.
Bình Xuyên, ngày 20 tháng 01 năm 2019
Ban giám hiệu nhà trường
Hiệu trưởng
Tác giả sáng kiến
Phan Thị Hoài
23
PHỤ LỤC
Phụ lục của sáng kiến bao gồm:
Phụ lục 1. Giáo án trên lớp.
Phụ lục 2. Phiếu học tập (Đề kiểm tra nhận thức của Học sinh).
Phụ lục 3. Kết quả học tập cụ thể của học sinh.
Phụ lục 4. Bài giảng điện tử E-learning
24
Phụ lục 1. Giáo án trên lớp
Tiết 20 - bài 14: Phong trào cách mạng 1930 – 1935 (tiết 1).
I. Mục tiêu bài học:
Về kiến thức: Sau khi học xong bài học, học sinh nắm được:
•
Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong
những năm 1929-1933.
•
Những cuộc đấu tranh tiêu biểu trong phong trào cách mạng 1930-1931.
•
Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh.
Về tư tưởng: Bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào dân tộc về sự nghiệp đấu tranh của
Đảng, niềm tin về sức sống mãnh liệt, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đưa sự nhiệp cách
mạng dân tộc đi lên.
Về kĩ năng: Xác định kiến thức cơ bản của bài “Xô Viết Nghệ – Tĩnh”; Kĩ năng phân
tích, đánh giá sự kiện lịch sử.
Về định hướng năng lực hình thành:
Năng lực quan trọng nhất là năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức mới,
làm việc độc lập; năng lực ứng dụng CNTT, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực hợp
tác,…
II. Phương pháp: Sử dụng phương pháp Lớp học đảo ngược.
III. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Chuẩn bị của giáo viên: Bài giảng E-learning về Phong trào cách mạng 1930 – 1931,
phiếu học tập có đáp án (bản mềm). Máy tính, máy chiếu, bảng tương tác (trên lớp).
Chuẩn bị của học sinh: Phiếu học tập đã làm ở nhà,…
IV. Tiến trình bài học.
Hoạt động 1. Giáo viên khái quát lại bài học thông qua các slide bài giảng Elearning
hoặc sơ đồ tư duy.
Hoạt động 2. Giáo viên phát vấn và giải đáp các câu hỏi khó mà HS chưa tự trả lời
được hoặc những vấn đề quan trọng mà các em đều quan tâm:
Ví dụ các câu hỏi cuối của phiếu học tập:
25