Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Hoán dụ có quan hệ đến địa danh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.73 KB, 4 trang )

HOÁN DỤ CÓ QUAN HỆ ĐẾN ĐỊA DANH
PGS. TS Lê
Trung Hoa (*)
TÓM TẮT

Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Trong bài này, tác
giả trình bày sáu cách thức chuyển nghĩa có quan hệ tới địa danh: 1.Lấy tên bộ phận để
chỉ toàn thể; 2.Lấy tên dân tộc để làm địa danh; 3. Lấy địa danh làm tên người; 4. Lấy
nơi xuất phát chỉ đối tượng; 5.Lấy địa danh làm tên sản phẩm; 6.Lấy tên người làm tên
đất.
ABSTACT

Synecdoche is a common way of conveying meanings in any languages. In this article,
the author presents six ways of conveying meanings relating to using place names: 1. A
part representing the whole; 2. Peoples’ names for place names; 3. Place name for
human names; 4.origin for object; 5. Place names for products; 6. Human names for
place names.
“Hoán dụ là hiện tượng chuyển hoá về tên gọi – tên của một đối tượng này được dùng để
gọi vật kia – dựa trên quy luật liên tưởng tiếp cận” [1, 52]. Nói một cách dễ hiểu hoán dụ
là lấy tên sự vật này để gọi sự vật khác căn cứ vào sự gần nhau giữa chúng.
Trong lĩnh vực địa danh, hoán dụ được sử dụng tương đối phổ biến. Chúng tôi thấy có
thể xếp hiện tượng này vào sáu kiểu sau đây.
1. LẤY TÊN BỘ PHẬN ĐỂ CHỈ TOÀN THỂ

Hoa Kỳ là một ngữ Hán Việt, có nghĩa là “cờ hoa”. Sở dĩ người ta lấy từ tổ này để miêu
tả cờ nước Mỹ vì trên lá cờ có 50 ngôi sao, tượng trưng cho 50 tiểu bang của nước Mỹ,
giống những đoá hoa. Lấy đặc điểm của lá cờ một nước để chỉ nước ấy là một kiểu hoán
dụ.
2. LẤY TÊN DÂN TỘC DỂ LÀM ĐỊA DANH

Lào là tên của một dân tộc. Tên dân tộc này biến thành tên một quốc gia châu Á ở phía


tây bắc nước ta.
Paris vốn là tên của một dân tộc ngày xưa sống trên vùng lãnh thổ nay là thủ đô của nước
Pháp. Vì thế, người Pháp lấy tên dân tộc này làm tên thủ đô của nước họ.
Drai hoặc Jrai trong tiếng Gia Rai là “thác nước” [8] vì tổ tiên dân tộc này thường sinh
sống cạnh các thác nước – để có nước sinh hoạt – nên người ta lấy từ chỉ thác nước thành
tên dân tộc (Gia Rai) rồi thành tên địa phương (tỉnh Gia Lai) [5].
Bà Nà cũng gọi là Ba Na [6] là tên dân tộc cư trú ở vùng này. Về sau, Bà Nà trở thành
địa danh ở tỉnh Quảng Nam [4, 2007, 174] – hiện nay thuộc thành phố Đà Nẵng.
3. LẤY ĐỊA DANH LÀM TÊN NGƯỜI

(* )

PGS.TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn TPHCM

1


Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613) được gọi là Trạng Bùng vì ông sinh ra và lớn lên tại
làng Phùng Xá (tên nôm là làng Bùng), huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (mới nhập vào
thủ đô Hà Nội năm 2008).
Người Việt gọi một thầy địa lý nổi tiếng – là ông Tả Ao vì ông sống tại làng Tả Ao, xã
Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tên thật của Tả Ao chưa xác định: Hoàng
Chiêm ( Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú); Hoàng Chỉ ( Tang thương
ngẫu lục – Phạm Đình Hổ); Vũ Đức Huyền ( Nghi Xuân địa chí – Lê Văn Diễn); Nguyễn
Đức Huyền (Việt Nam phong tục – Phan Kế Bính)
Nguyễn Khuyến được gọi là Tam nguyên Yên Đổ vì ông đỗ đầu ba kỳ thi (hương, hội,
đình) và sinh sống ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam trong một gia đình nho
học lâu đời.
Còn Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Đức Nhuận (1900 – 1968) là hai nhà thơ, nhà báo lấy
hai địa danh ở quê hương mình ghép lại thành bút danh: Tản Đà là tên núi Tản (Viên),

sông Đà (tỉnh HàTây) ghép lại. Còn Bút Trà là tên núi Bút, sông Trà (Quảng Ngãi) kết
hợp mà thành.
Ông Lâm Tấn Phác (1906 – 1969) lấy bút danh Đông Hồ, vốn là tên một trong mười
thắng cảnh của tỉnh Hà Tiên xưa, nay thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi chôn nhau cắt rốn của
ông.
Trương Khương Trình lấy bút danh Kiên Giang, tên một tỉnh ở Nam Bộ, nơi ông đã sinh
ra và lớn lên.
Nguyễn Thành Út (1919 – 2001) lấy nghệ danh là Út Trà Ôn, tức là ông lấy tên chính kết
hợp với tên huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, quê hương của ông. Nghệ danh Năm Sa Đéc
cũng có cách kết hợp tương tự.
Riêng Tô Văn Tuấn (1914 – 1987) [9, 319] lấy bút danh là Bình Nguyên Lộc. Tên này là
tên dịch và ghép lại: Quê ông ở tỉnh Đồng Nai, ông dịch Đồng là Bình Nguyên; Nai là
Lộc.
Sau cùng, Hoa Hạ, theo truyền thuyết, là tên nước Trung Quốc có từ nhà Chu, do ban
đầu tộc Hán (tộc đa số của Trung Hoa) tụ tập ở bờ sông Hạ Thuỷ, mà khu vực trung tâm
của họ là chân núi Hoa Sơn (thuộc tỉnh Thiểm Tây). Vậy Hoa Hạ là do ghép hai chữ đầu
của Hoa Sơn và Hạ Thuỷ, nơi xuất phát của dân tộc Hán. Rồi một nghệ sĩ Việt Nam lấy
nghệ danh là Hoa Hạ, ý muốn nói mình vốn là người Việt gốc Hoa [4, 2005, 281].
Ngoài ra, vào buổi đầu thời kháng chiến chống Pháp, một số văn nghệ sĩ cách mạng
muốn thể hiện ý chí quyết tâm giành độc lập cho dân tộc và đất nước, dùng những địa
danh đã làm vẻ vang lịch sử để đặt thành tên gọi của mình, như Lưu Chi Lăng, Trần Bạch
Đằng (theo lời ông, ban đầu ông tự đặt Trận Bạch Đằng, sau sửa thành Trần Bạch Đằng
cho hợp với tên người) ,…
4. LẤY NƠI XUẤT PHÁT LÀM ĐỐI TƯỢNG
Sở dĩ người Trung Quốc gọi nước của người Nhật là Nhật Bản – nghĩa là “cái gốc của
mặt trời” – vì nước này ở nơi mà người Trung Hoa thấy mặt trời mọc lên.
Còn người Việt chúng ta gọi người Pháp là Tây vì họ đến từ phương Tây.
Và chúng ta gọi người Hoa là người Tàu vì chủ yếu trước đây họ sang nước ta bằng tàu
thuỷ, rồi từ tàu lên giao dịch người Việt.
5. LẤY ĐỊA DANH LÀM TÊN SẢN PHẨM


Làng Giai ở xã Minh Lăng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, nổi tiếng là nơi sản xuất một
loại gàu bền và chắc. Tên làng đã biến thành tên sản phẩm: gàu Giai, và dần dần trở
thành danh từ chung: gàu giai [6, 428] để phân biệt với gàu sòng.
Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798) có câu thơ nói về sự
chết mòn chết héo của cung nữ vì thương nhớ gia đình, quê hương:
2


-Giết nhau chẳng phải lưu cầu
Giết nhau bằng cái ưu sầu, độc chưa!
Lưu Cầu vốn là tên một quần đảo ở phía nam Nhật Bản, sản xuất được một thứ dao rất
sắc và nổi tiếng, được người xưa dùng để hộ thân hoặc để đánh giặc. Vậy lưu cầu vốn là
tên quần đảo, trở thành tên con dao, một sản phẩm được sản xuất ở quần đảo.
Sau cùng là tắc ráng. Đây là một loại xuồng nhỏ, có tốc độ cao hơn các loại thuyền ghe
khác. Nguỵên năm 1957, ông Dương Văn Năm là người đầu tiên sản xuất loại thuyền
này. Vì xuồng chạy nhanh, đoạt giải nhất trong nhiều cuộc đua ghe ở địa phương nên
người Nam Bộ đã lấy tên nơi sản xuất để đặt tên cho chiếc xuồng này.
Tắt Ráng là một địa danh ở thị xã Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), vốn chỉ một cái tắt (dòng
nước để đi tắt cho ngắn lộ trình), hai bên bờ có nhiều cỏ ráng (một loại cỏ cao độ hai
mét, thường dùng làm chổi). Sở dĩ Tắt Ráng biến thành tắc ráng vì người Nam Bộ nói và
viết lẫn lộn hai vần ăt và ăc [5].
6. LẤY TÊN NGƯỜI LÀM TÊN ĐẤT

Đây là hiện tượng phổ biến nhất. Hàng trăm tên người biến thành tên đất vì sự gắn bó của
người đó với địa phương mang tên của họ.
Tên huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp cũng bắt nguồn từ tên người. Ông Đỗ Công Tường
sống vào đầu thế kỷ 19, làm chức câu đương, có tên thường gọi là Lãnh. Nên người
đương thời thường gọi ông là Câu Lãnh. Ông có công khai phá vùng này và nổi tiếng
nhân hậu. Ông lấy đất của mình để lập chợ nên chợ mang tên Câu Lãnh. Dần dần tên chợ

bị nói chệch thành Cao Lãnh, vì hai vần ao và âu có quan hệ chuyển đổi: tậu (ruộng) –
tạo (ruộng), đào (hát) – (cô) đầu, bảo (cử) – bầu (cử),…
Bà Lê Thị Nữ là tu sĩ Phật giáo, sống vào thời kỳ trước thế kỷ 19. Người ta thường gọi bà
là Thị Vãi. Bà tu ở một ngọn núi ở vùng Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau người địa phương lấy
tên gọi bà để gọi hòn núi nơi bà tu hành là Thị Vãi, bị nói và viết chệch thành Thị Vải [7,
14].
Còn giồng Ông Tố ở thành phố Hồ Chí Minh bắt nguồn thành tên gọi ông Trương Vĩnh
Tố, một người có công khẩn hoang ở vùng này. Mộ ông ở gần chợ Bình Trưng, phường
Bình Trưng Tây, quận 2 [2].
Ở phường 6, quận 8, có địa danh Ký Thủ Ôn. Đây vốn là tên họ một người Hoa, sinh
quán ở Chợ Lớn, tham gia kháng chiến chống Pháp, sau năm 1954, ông được lệnh về giả
vờ cộng tác với chế độ Ngô Đình Diệm, được chính quyền Sài Gòn cho làm đồn trưởng
một cái đồn ở quận 8. Sau đó, ông bị quân Bình Xuyên giết chết năm 1955. Chính quyền
Sài Gòn lấy tên ông đặt thành tên đồn nơi ông đóng giữ và về sau trở thành tên vùng [2].
Sau cùng là địa danh Ông Tạ. Ông tên thật là Trần Văn Bỉ (1918 – 1983), pháp danh
Thích Thiện Thới, hiệu là Tạ Thủ (nghĩa là “cánh tay nâng đỡ người bệnh”) – nên người
địa phương thường gọi là Ông Tạ – một danh y tại vùng này [2].
Xin nêu thêm một số địa danh tiêu biểu khác ở thành phố Hồ Chí Minh.
Sở dĩ thành phố Sài Gòn mang tên Hồ Chí Minh vì ngày 5 tháng 6 năm 1911, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã từ nơi đây ra đi tìm đường cứu nước.
Còn đường Bạch Đằng với đường Cường Để nhập lại vào năm 1980 và mang tên Tôn
Đức Thắng vì đường này chạy qua xưởng Ba Son, nơi mà chàng công nhân ái quốc họ
Tôn (1888 – 1980) đã làm việc ở đây và tham gia phong trào chống Pháp trong thời gian
1910 – 1919.
Con đường bắt đầu từ cầu Công Lý đến đường Hoàng Văn Thụ mang tên Nguyễn Văn
Trỗi vì tại chiếc cầu đầu đường này, người thanh niên yêu nước xứ Quảng (1940 – 1964)
đã đặt mìn định ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mac Namara, khi đi xe qua, ngày
9 – 5 – 1964, nhưng không thành và anh đã hi sinh.
3



Như vậy, hoán dụ là một hiện tượng khá đa dạng, làm cho tiếng Việt ngày càng phong
phú. Đi sâu vào hiện tượng này, chắc chắn chúng ta sẽ phát hiện được nhiều điều lý thú
hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đỗ Hữu Châu, 1962, Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Từ hội học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2.Lê Trung Hoa, 2003, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tp.
Hồ Chí Minh.
3.Lê Trung Hoa, 2006 Địa danh học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4.Lê Trung Hoa, 2005, Cửa sổ tri thức, tập 1, Nxb Trẻ, tp. Hồ Chí Minh.
2007, Cửa sổ tri thức, tập 2, Nxb Trẻ, tp. Hồ Chí Minh.
5.Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam, bản thảo chưa xuất bản.
6.Nguyễn Như Ý (cb), 2004, Từ điển địa danh văn hoá và thắng cảnh Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
7.Quốc sử quán triều Nguyễn, 1959, Đại Nam nhất thống chí, tập thượng, Tu Trai
Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hoá xb, Sài Gòn.
8.Rơmah Del, 1977, Từ điển Việt – Gia Rai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9.Thạch Phương – Lê Trung Hoa (cb), 2008, Từ điển Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb Trẻ tái bản.

4



×