Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Tư tưởng của nho giáo tiên tần về con người và xã hội 001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.82 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------***------

VŨ THỊ MAI ANH

TƢ TƢỞNG CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN
VỀ CON NGƢỜI VÀ XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------***------

VŨ THỊ MAI ANH

TƢ TƢỞNG CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN
VỀ CON NGƢỜI VÀ XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

Mã số: 60.22.80

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THANH BÌNH



Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình và
có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã đƣợc công bố. Những tài
liệu sử dụng để thực hiện đề tài đƣợc trích dẫn cụ thể, có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc Hội đồng Khoa học về nội
dung bản luận văn này của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2013
Tác giả

Vũ Thị Mai Anh


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trƣớc hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy, các cô trong khoa Triết học, trƣờng Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập và nghiên cứu tại khoa, tại trƣờng.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình đã
trực tiếp hƣớng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình thực hiện và hoàn
thiện luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân đã động viên, khích lệ và
chia sẻ với tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhƣng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các
thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để luận văn này đƣợc hoàn thiện hơn.


Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2013
Tác giả

Vũ Thị Mai Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài................................................5
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu................................................... 6
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn........................................... 6
6. Đóng góp của luận văn..................................................................................6
7. Ý nghĩa của luận văn.....................................................................................6
8. Kết cấu của luận văn..................................................................................... 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU CHO SỰ HÌNH
THÀNH TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ CON NGƢỜI VÀ XÃ
HỘI....................................................................................................................8
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc cho sự hình thành
tƣ tƣởng Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội........................................8
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa cho sự ra đời tƣ tƣởng Nho giáo tiên Tần về
con ngƣời và xã hội.........................................................................................19
Kết luận chương 1...........................................................................................23
CHƢƠNG 2. TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ CON NGƢỜI......25
2.1. Quan niệm của Nho giáo tiên Tần về bản tính con ngƣời....................... 25
2.2. Quan niệm của Nho giáo tiên Tần về vai trò của con ngƣời...................34
2.3. Tƣ tƣởng Nho giáo tiên Tần về mẫu ngƣời lý tƣởng............................. 43

Kết luận chương 2...........................................................................................51
CHƢƠNG 3. TƢ TƢỞNG CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ XÃ HỘI......53
3.1. Quan niệm của Nho giáo tiên Tần về xã hội lý tƣởng.............................54
3.2. Những biện pháp chủ yếu để kiến tạo xã hội lý tƣởng theo quan niệm của
Nho giáo tiên Tần............................................................................................63
Kết luận chương 3...........................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 89


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nho giáo hay còn gọi là Khổng giáo là một hệ thống đạo đức, triết lý và
tôn giáo do Khổng Tử xây dựng và phát triển, với ý thức bảo vệ tôn ti trật tự
của nhà Chu và xây dựng một “xã hội lý tƣởng”.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ lục
kinh gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh
Nhạc (về sau thất lạc Kinh Nhạc gọi là Ngũ Kinh).
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của Khổng Tử tập hợp các lời dạy của
ông để soạn ra cuốn Luận Ngữ.
Học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Sâm (còn gọi là Tăng Tử) dựa
vào lời thầy mà soạn ra Đại học, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp (còn
gọi là Tử Tƣ) viết ra cuốn Trung dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử trên cơ sở tƣ tƣởng của Khổng Tử mà
viết sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo
nguyên thủy còn gọi là Nho giáo tiên Tần (trƣớc đời Tần). Nho giáo tiên Tần
đã từng là hệ tƣ tƣởng của Trung Quốc trong thời gian dài.
Khổng Tử tuy từng cho mình là “Chỉ thuật lại (đạo thánh hiền) không
sáng tác” (Thuật nhi bất tác) [25, tr.343] nhƣng trải qua hoạt động lý luận
cũng nhƣ thực tiễn (chính trị, giáo dục), Khổng Tử đã hệ thống hóa lại các
vấn đề cốt lõi của văn hóa, tƣ tƣởng nhà Chu. Trên cơ sở đó, ông xây dựng

nên một học thuyết triết học, chính trị - xã hội tƣơng đối hoàn chỉnh và chính
điều này đã làm cho Nho giáo trở thành hệ tƣ tƣởng có giá trị và ngƣời kế
thừa bảo vệ phát triển tƣ tƣởng của Khổng Tử là Mạnh Tử. Mạnh Tử đã bác
bỏ thuyết “Công lợi” của Dƣơng Chu, thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử để khẳng
định vị thế của Nho giáo trong lòng xã hội. Tiếp đến là Tuân Tử, ngƣời đã cụ
thể hóa các giáo lý của Nho giáo và phát triển tƣ tƣởng của Khổng Tử theo

1


thiên hƣớng thực tiễn và đƣa lý luận đó vào giải thích và giải quyết các vấn
đề chính trị - xã hội Trung Quốc thời Chiến Quốc.
Song, nếu nhƣ triết học phƣơng Tây chủ yếu bàn về vấn đề cơ bản của
triết học, những vấn đề bản thể luận và nhận thức luận thì mối quan tâm chủ
yếu của Nho giáo chính là vấn đề con ngƣời và vấn đề xã hội. Nho giáo tiên
Tần mà đại diện là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử bàn về vấn đề con ngƣời
trƣớc hết là từ khía cạnh đạo đức, nhân cách và quan hệ xã hội của con
ngƣời. Từ việc xác định bản tính con ngƣời và vai trò của con ngƣời, các nhà
Nho tiên Tần xây dựng học thuyết chính trị - xã hội nhằm xây dựng, duy trì xã
hội theo mô hình xã hội lý tƣởng.
Từ những năm đầu của thế kỷ I, Nho giáo đã chính thức thâm nhập vào
Việt Nam. Song chỉ đến khi nƣớc ta giành đƣợc độc lập, thoát khỏi ách thống trị
hơn 1000 năm Bắc thuộc thì Nho giáo đã ảnh hƣởng đến nhiều lĩnh vực và nhất
là đối với đời sống tinh thần của ngƣời dân Việt Nam. Đến đời Lý, Trần, Nho
giáo bắt đầu ảnh hƣởng và có vai trò trong lĩnh vực giáo dục – khoa cử. Thể hiện
điều này là việc Nhà nƣớc phong kiến dƣới triều Lý cho xây dựng Văn Miếu,
Quốc Tử Giám (ban đầu là nơi học tập của các hoàng tử và con em của tầng lớp
quý tộc quan liêu, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ).
Từ đó trở đi, sự ảnh hƣởng của Nho giáo càng ngày càng sâu rộng hơn đến đời
sống tinh thần của ngƣời Việt Nam. Sự ảnh hƣởng trƣớc tiên chính là nhân sinh

quan ngƣời Việt. Những lý thuyết Nho giáo phù hợp với truyền thống của dân
tộc ta đã đƣợc ông cha ta học hỏi, tiếp thu, cải biến và phát triển. Do vậy mà
những quan niệm về đạo làm ngƣời, về nhân cách, về các mẫu hình con ngƣời
tiêu biểu nhƣ ngƣời quân tử, đại trƣợng phu ... của ông cha ta hết sức gần gũi
với các tầng lớp nhân dân. Một số giá trị về đạo làm ngƣời của Nho giáo đƣợc
ngƣời Việt Nam đề cao, các đức tính hiếu, đễ, tín, nghĩa… vẫn là những chuẩn
mực đạo đức mà nhiều tầng lớp ngƣời Việt

2


Nam tu dƣỡng, học tập. Nhƣng Việt Nam hiện nay, những tác động tiêu cực từ
mặt trái của kinh tế thị trƣờng đang gây ra nhiều hậu quả to lớn về đạo đức và lối
sống bởi Việt Nam đang trên đà phát triển, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở
rộng… Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nƣớc đang diễn ra sôi động, đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Vậy làm thế nào để phát triển kinh tế, xã hội mà vẫn giữ đƣợc giá trị
đạo đức, nhân cách con ngƣời Việt Nam. Giải quyết vấn đề này thì một trong
những nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách là phải đánh giá, nhìn
nhận toàn diện và đúng đắn những giá trị trong tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần
về con ngƣời và xã hội. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này,
song chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu riêng lẻ hoặc vấn đề con ngƣời hoặc vấn đề
xã hội, thậm chí tồn tại không ít những quan điểm trái ngƣợc nhau ngay trong
một vấn đề. Trên cơ sở tiếp thu, tham khảo nhiều kết quả nghiên cứu từ những
công trình ấy, trong bản luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng
của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội, để từ đó, chỉ ra những giá trị nổi
bật và hạn chế cơ bản của nó.

Từ những lý do trên đây, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng của Nho
giáo tiên Tần về con người và xã hội” làm đề tài nghiên cứu trong Luận văn

thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu về con ngƣời và xã hội trong tƣ tƣởng của Nho giáo tiên
Tần không phải là đề tài mới bởi Nho giáo tiên Tần đã là công cụ quan trọng
trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam.
Chính vì vậy mà nó đã là đề tài của nhiều nhà nghiên cứu.
Công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu với tác phẩm Khổng học
đăng. Trong cuốn sách này, ông đã trình bày một cách cô đọng, súc tích và
giải thích tƣơng đối rõ ràng, theo lập trƣờng của mình, các khái niệm, phạm

3


trù, tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo. Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến đạo đức, đạo
đức trong cƣ xử giữa ngƣời với ngƣời theo quan điểm của Nho giáo.
Lã Trần Vũ với cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc (Trần Văn
Tấn dịch, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1964). Lã Trấn Vũ là một trong những học
giả nổi tiếng của Trung Quốc hiện nay. Ông đã viết nhiều tác phẩm về sử học,
triết học và kinh tế. Những vấn đề về Nho giáo đƣợc tác giả đề cập đến nhƣ
vấn đề tính ngƣời, quan niệm về luân lý, đạo đức, vấn đề chính trị - xã hội.
Cụ thể là những vấn đề: nhà vua phải chăm lo đời sống vật chất của dân và
phải thƣờng xuyên giáo dục, giáo hoá dân, phải thi hành đƣờng lối nhân trị.
Đồng thời, tác giả cũng tập trung làm rõ những mặt tích cực và hạn chế của
Nho giáo trong bối cảnh lịch sử của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến
Quốc và các thời kỳ sau đó.
Tập thể tác giả (Vũ Khiêu chủ biên) trong cuốn sách Nho giáo xưa và nay đã
tập trung nghiên cứu hàng loạt vấn đề nhƣ: sự ra đời và phát triển của Nho
giáo; mối quan hệ giữa Nho giáo với kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hoá… Tác
phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim chủ yếu lý giải quan niệm của Nho giáo
về bản tính con ngƣời, và từ quan niệm đó, tƣ tƣởng chính trị xã

hội của Nho giáo đã hình thành, phát triển.
Tác giả Nguyễn Hiến Lê với những tác phẩm Khổng Tử, Mạnh Tử, Đại
cương chính trị Trung Quốc (viết chung với Giản Chi); Nguyễn Đăng Thục
với 5 tập sách Lịch sử triết học Phương Đông… Qua những tác phẩm này
chúng ta có thể thấy, con ngƣời là nội dung chủ yếu của Nho giáo.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với Học thuyết chính trị – xã hội của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX):
Trong cuốn sách này, tác giả đã bàn nhiều vấn đề liên quan đến nội dung của
luận văn nhƣ quan điểm của Nho giáo về con ngƣời, quan điểm của Nho giáo
về xã hội lý tƣởng và quan điểm của Nho giáo về đức trị.

4


Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nhƣ: Đôi
điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục, giáo hoá của Nguyễn Thanh Bình, Quan
điểm của Khổng Tử về giáo dục và đào tạo con người của Doãn Chính,
Phương pháp dạy học của Khổng Tử của Trịnh Xuân Vũ…
Liên quan đến đề tài trong luận văn của chúng tôi còn có một số luận án
đã đƣợc bảo vệ nhƣ: Trần Đình Thảo với Quan niệm của Nho giáo nguyên
thuỷ về con người qua mối quan hệ thân – nhà - nước – thiên hạ; Nguyễn Thị
Tuyết Mai với Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo
con người.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết có giá trị
khác song do dung lƣợng và thời gian, chúng tôi chƣa đề cập tới đƣợc.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo với nhiều góc
độ và nội dung, song còn ít công trình nghiên cứu tƣ tƣởng của Nho giáo tiên
Tần về con ngƣời và xã hội. Trên cơ sở tham khảo những công trình nghiên
cứu đã đƣợc công bố, luận văn của chúng tôi cố gắng tìm hiểu đầy đủ, sâu sắc
và có hệ thống tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích của luận văn: Từ việc nghiên cứu tƣ tƣởng Nho giáo tiên
Tần về con ngƣời và xã hội, luận văn chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu
của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội.
Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung
làm rõ một số nội dung chủ yếu sau:
-

Những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành và phát triển tƣ

tƣởng của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội.
-Phân tích làm rõ một số nội dung chủ yếu trong Nho giáo tiên Tần về
con ngƣời và xã hội.

5


-

Chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu của Nho giáo tiên Tần trong

những tƣ tƣởng đó.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận văn đƣợc dựa trên cơ sở lý luận của triết học
Mác-Lênin về con ngƣời và xã hội.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp
luận chung của triết học Mác-Lênin, cùng những nguyên lý cơ bản của triết
học Mác-Lênin về con ngƣời, xã hội . Ngoài ra còn kết hợp một số phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học khác, nhƣ phƣơng pháp logic - lịch sử, phƣơng
pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp đối chiếu - so sánh.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu: Tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời
và xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: - Một số tác phẩm của Nho giáo tiên Tần, chủ yếu
là sách Tứ thư, (sách Đại học, sách Trung dung, sách Luận ngữ, sách Mạnh
tử), sách Tuân tử, Ngũ kinh.
-

Các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt Nam .

6. Đóng góp của Luận văn.
Luận văn trình bày có hệ thống những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng
của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội .
7. Ý nghĩa của Luận văn.
Luận văn góp phần làm rõ hơn những tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần
về con ngƣời và xã hội.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, nghiên
cứu và học tập về Nho giáo tiên Tần, nhất là khi đề cập đến vấn đề con ngƣời
và xã hội.

6


8. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chƣơng với 7 tiết.
Chƣơng 1: Điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành tƣ tƣởng
của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội, với 2 tiết
Chƣơng 2: Tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời, với 3 tiết
Chƣơng 3: Tƣ tƣởng của Nho giáo tiên Tần về xã hội, với 2 tiết


7


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU CHO SỰ HÌNH
THÀNH TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ CON NGƢỜI VÀ
XÃ HỘI.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc cho sự
hình thành tƣ tƣởng Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội.
Thời Xuân Thu, dân tộc sinh sống ở lƣu vực sông Hoàng Hà thƣờng
đƣợc gọi là tộc ngƣời Hạ hay tộc ngƣời Hoa, sau này đƣợc gọi là tộc ngƣời
Hán. Họ định cƣ trên vùng đồng băng, tồn tại chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
những sinh hoạt thiết thực nhất trong cuộc sống nhƣ: ăn mặc ở… dần đƣợc
hình thành và trở thành văn hoá.
Do thuận lợi về điều kiện địa lý, nên kinh tế cũng nhƣ mức sống của
dân tộc Hoa phát triển cao hơn so với các dân tộc khác sinh sống xung quanh
lƣu vực sông Hoàng Hà.
Những dân tộc sống xung quanh đó phần lớn ở trên các vùng núi cao,
chủ yếu là kinh tế du mục, săn bắn, do đó tính tình mạnh mẽ, hung hãn và họ
thƣờng đến vùng trung nguyên để cƣớp bóc, gây sức ép không nhỏ đối với
tộc ngƣời Hoa. Khoảng giữa đời nhà Chu về sau, các nƣớc xung quanh vùng
trung nguyên trở thành sự uy hiếp lớn nhất đối với tộc ngƣời Hoa.
Những năm cuối thời Tây Chu (Chu U Vƣơng năm thứ mƣời một) có
một tộc ngƣời Nhung, tên gọi là Khuyển Cầu đã bắt và giết Chu U Vƣơng tại
Li Sơn (tỉnh Thiểm Tây ngày nay), khiến cho nhà Tây Chu bị diệt vong. Con
Chu U Vƣơng là Nghi Cửu sau khi lên ngôi là Bình Vƣơng, chỉ còn cách di
chuyển kinh đô về phía Đông (Lạc Dƣơng) sau này tạo nên lịch sử gọi là
Đông Chu.
Những năm đầu của nhà Chu, xã hội có trên trật tự trên dƣới từ thiên tử

cho đến thứ dân.

8


Thời kỳ này, thiên tử cắt đất phong cho chƣ hầu, chƣ hầu cắt đất phong
cho khanh đại phu, khanh đại phu lại lấy đất phong cho sĩ.
Thứ dân thì làm lụng trên đất đai của quý tộc và của kẻ sĩ. Với sự phân
chia và sử dụng đất nhƣ thế này thì xã hội có sự ổn định về chính trị, cuộc
sống có trật tự hơn, lại có những điều kiện xây dựng lễ nhạc, phát triển văn
hoá.
Những ngƣời nông dân không đƣợc sở hữu ruộng đất, song ở thời kỳ
này, vấn đề giàu nghèo chƣa trở thành một vấn đề bức xức. Đến cuối thời
Xuân Thu, xuất hiện các tƣớng đƣợc phong đất, đồng thời với nó là việc tự
do mua bán ruộng đất. Sau khi giai cấp quý tộc sa sút, phần lớn ruộng đất bị
chiếm đoạt đem bán đi. Thời đại Xuân Thu, với việc mở rộng canh tác đất đai,
sử dụng sức kéo của trâu bò và công cụ sản xuất bằng sắt đã tạo ra một cuộc
cách mạng to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Trƣớc đó, việc trồng cấy hoàn
toàn phụ thuộc vào các công cụ bằng gỗ và vào sức ngƣời, sức lực bỏ thì
nhiều nhƣng hiệu quả thì rất thấp, một ngƣời chỉ canh tác đƣợc một diện tích
rất có hạn. Nhƣng khi các công cụ bằng sắt đƣợc sử dụng phổ biến trong sản
xuất nông nghiệp thì sản xuất và phạm vi canh tác đã đƣợc mở rộng ra hơn
trƣớc gấp bội, đồng thời hệ thống thuỷ lợi dần dần phát triển. Cùng với sự
chuyển biến về công cụ lao động, sự chuyển từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt,
nghề luyện kim ngày càng phát triển, điều này thúc đẩy sự phát triển hơn nữa
lĩnh vực thủ công nghiệp và nông nghiệp. Đồ chạm vàng và dát bạc, hàng mạ
và đồ sơn là những sản phẩm thủ công đạt tới trình độ tinh xảo nhất.
Sự chuyển biến trong lĩnh vực kinh tế đã tác động và làm thay đổi
mạnh mẽ tình hình xã hội. Sự chiếm hữu ruộng tƣ đã làm xuất hiện tầng lớp
quý tộc tƣ hữu ngày một đông. Đây là cơ sở cho sự xuất hiện các giai cấp và

các tầng lớp mới trong xã hội, làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã
hội ngày càng mở rộng và gay gắt. Sự phát triển kinh tế ở các nƣớc chƣ hầu

9


đã vƣợt bậc hơn hẳn so với nhà Chu: trƣờng hợp nhà Họ Quý, một gia thần ở
nƣớc Lỗ là một ví dụ điển hình. Chính những điều này đã dẫn đến chiến tranh để
giành quyền lực, địa vị, đất đai đối với nhà Chu. Đến thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các nƣớc trong vùng trung nguyên đã
làm cho xã hội Trung Hoa trở nên hỗn loạn. Các nƣớc vốn do thiên tử nhà Chu
phong đất cho, vì thiên tử mất quyền, suy yếu nên dẫn đến các cuộc tranh đoạt,
kiêm tính nhau giữa các nƣớc ngày càng trở nên khốc liệt.

Xuất phát từ những mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn xã hội ngày càng phổ
biến: Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ với nông
dân. Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc cũ bảo thủ muốn duy trì chế độ thống trị
cũ với một bộ phận quý tộc mới muốn thực hiện cải cách để giành quyền
thống trị cho mình. Mâu thuẫn giữa các phe phái trong nội bộ quý tộc với
nhau muốn tiêu diệu lẫn nhau, tranh giành với nhau nhằm thiết lập quyền
thống trị cho riêng mình. Lớn hơn những mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa
Thiên tử với các nƣớc chƣ hầu.
Thiên tử không còn đƣợc vai trò “dƣới trời, đất đai nào chẳng là của
vua; dân ở trên đất, ngƣời nào chẳng là tôi tớ của vua”.
Các công, khanh, đại phu, sỹ… đã bị đảo lộn từ quý tộc, họ biến thành
bình dân. Mâu thuẫn xã hội còn thể hiện ngay chính trong nội bộ mỗi nƣớc,
do mâu thuẫn này mà không ít ngƣời phải chết hoặc bỏ trốn. Nhƣ tổ tiên của
Khổng Tử vốn là quý tộc nƣớc Tống, sau khi dời đến nƣớc Lỗ, thì ông chỉ
làm một viên quan “ủy lại” nhỏ.
Những ngƣời thuộc tầng lớp quý tộc khi bị biến thành bình dân thì họ chỉ

còn cách từ bỏ địa vị của mình để đi làm nghề khác. Nhƣng khi tiếp xúc với
những ngƣời bình dân đã giúp họ thay đổi tƣ duy dần dần trở thành những
ngƣời tri thức. Điều này minh chứng cho sự khác nhau giữa chế độ giáo dục

10


của Trung Quốc thời phong kiến khác với chế độ giáo dục phƣơng Tây thời
Trung cổ là chỉ dành cho tầng lớp quý tộc.
Không chỉ tầng lớp quý tộc mà ngay cả tầng lớp bình dân cũng có
những biến đổi to lớn. Những ngƣời dân đang sống dựa vào canh tác đất đai,
song do nhân khẩu ngày càng nhiều, đất đai không đủ nuôi sống con ngƣời,
tình trạng đó gây ra cảnh cƣớp đoạt, chiến tranh, nhiều ngƣời phải từ bỏ đất
đai của mình, chạy đi khắp nơi để mƣu sinh hoặc phải làm những nghề
nghiệp khác để duy trì cuộc sống. Nhƣng cũng có ngƣời nhờ vào việc kinh
doanh mà phất lên, trở thành những ngƣời buôn giàu có nổi tiếng thời Xuân
Thu nhƣ Ninh Thích, Huyền Cao,…
Sự sụp đổ của chế độ tỉnh điền là cơ hội để một số nhà nông phát huy,
mở rộng ruộng đất canh tác của mình và trở thành những đại địa chủ. Đồng
thời, lại có những ngƣời bình dân đƣợc giáo dục, đƣợc trang bị tri thức
phong phú mà đi theo con đƣờng làm quan nhƣ Ninh Thích làm quan ở nƣớc
Tề, Bách Lý làm quan ở nƣớc Tần, những ngƣời đó đều từ thứ dân mà trở
thành quý tộc. Vậy là, trong lúc nền chính trị quý tộc đƣơng thời băng hoại,
giai cấp quý tộc suy đồi, thì ở giai cấp bình dân, ngƣời thì buôn bán làm giàu,
ngƣời thì mở mang ruộng đất trở thành địa chủ, dần dần vƣơn lên trong xã
hội, hình thành một tầng lớp kẻ sĩ, quý tộc mới.
Trƣớc thực trạng xã hội rối loạn bởi những mâu thuẫn gay gắt nhƣ vậy,
những ngƣời có suy nghĩ tới thời cuộc, những ngƣời có học, những kẻ sĩ
không ai là không đau đớn trƣớc tình cảnh đó.
Thời đại Xuân Thu, do nhân khẩu tăng nhanh, chính trị suy đồi, chiến

tranh liên miên, nền kinh tế xã hội đƣơng thời càng phát sinh những biến
động vô cùng to lớn; Chế độ tỉnh điền bị phá bỏ, thời Tây Chu thực hành chế
độ tỉnh điền về ruộng đất: đất đai là quốc hữu, một miếng đất chia cho tám hộ
nông dân, miếng đất ở giữa cả tám nhà cùng canh tác, thu hoạch trong mảnh

11


đất đó thì nộp cho quý tộc. Các nhà Nho thƣờng ca ngợi chế độ tỉnh điền là
chính sách nhân chính của các đế vƣơng xƣa. Mạnh Tử viết: “Này, việc nhân
chính khởi đầu ở chỗ định rõ ranh giới ruộng đất” [25, tr.931]. Nhƣng trên
thực tế, chế độ tỉnh điền này không đem lại sự công bằng cho mọi ngƣời, ai
có quyền chia cắt ruộng đất cũng chỉ để nhằm cầu lợi cho bản thân mình. Tiền
của chỉ tập trung trong tay một số ít ngƣời, còn phần lớn những ngƣời lao
động cực khổ thì lại không đƣợc hƣởng, nhƣ Mạnh Tử nói: “Bếp nhà vua thì
có thịt béo, tàu ngựa thì có ngựa mập mà dân có sắc đói, ngoài đồng ruộng
ngƣời chết đói nằm la liệt” [25, tr.727].
Cùng với việc các nƣớc chƣ hầu thôn tính lẫn nhau, chiến tranh liên
miên thì ngƣời dân còn phải chịu thuế khoá vô cùng nặng nề, thuế ruộng đất
tăng lên so với trƣớc đó ít nhất 3,4 lần. Sự phân hoá xã hội trở nên sâu sắc
chƣa từng có, trật tự, kỷ cƣơng của xã hội bị phá hoại, biến dạng mạnh mẽ.
Nhƣ sách Luận ngữ có chép: “Quý thị giàu có hơn Chu Công, mà ông Cầu
tận tâm thu thuế giùm ngƣời đó, đã giàu càng giàu thêm. Khổng Tử quở rằng:
“Chẳng phải học trò ta! Các con nên công khai đả kích, đƣợc đấy” (Quý thị
phú ƣ Chu Công, nhi Cầu dã vị tụ liễm, nhi phụ ích chi Tử viết: “Phi ngô đồ
dã! Tiểu tử minh cổ nhi công chi, khả dã”) [25, tr 45]. Trong thời Xuân Thu,
sự bần cùng của đa số dân trong xã hội, sự tấn công của các nƣớc ngoại bang,
sự chuyển đổi quyền lực giữa các thế lực chính trị, mà vua nhà Chu mất dần
quyền lực của mình, chỉ có thể duy trì quyền lực bằng cách dựa vào các nƣớc
chƣ hầu. Trong khi đó, các nƣớc chƣ hầu thì ngày càng mạnh lên, muốn mở

rộng lãnh thổ của mình ra bên ngoài. Do đó, mà ở thời kỳ này, các nƣớc luôn
nằm trong tình trạng chiến tranh hoặc chuẩn bị chiến tranh. Điều này làm cho
thời kỳ này trở thành thời kỳ, đúng nhƣ Mạnh Tử nói: “chiến tranh để giành
đất đã sát hại ngƣời ta, thây nằm chật đất thành” (tranh địa dĩ chiều, sát nhân
doanh da. Tranh giành dĩ chiến, sát nhân doanh thành) [25, tr.1040]. Nổi bật

12


lên là cuộc chiến tranh, thôn tính giữa các quốc gia Hoa Hạ và các quốc gia xung
quanh. Sự xung đột của nhà Chu với Di, Man, Nhung, Địch càng về sau càng
gay gắt. Đầu thời Xuân Thu, nƣớc Sở ở phía Nam (Man), nƣớc Tần ở phía Tây
(Nhung) cũng đánh vào Trung Nguyên, cùng tranh bá với hai nƣớc Tề và Tấn.
Cuối thời Xuân Thu thì hai nƣớc Ngô, Việt ở phía Nam cũng nổi lên xƣng hùng,
tranh bá với trung nguyên. Vậy là ở thời Xuân Thu, vƣơng thất suy vi, các cuộc
chinh phạt do chƣ hầu khởi xƣớng. Cuối thời kỳ này, xảy ra một hiện tƣợng phổ
biến là các đại phu nắm quyền trong nƣớc, từ đó cô lập vƣơng quyền, tạo ra một
quan hệ quyền lực mới, dần dần đi đến sự hình thành bảy quốc gia lớn: Nguỵ,
Triệu, Hàn, Sở, Tề, Tần, Yên. Sang thời kỳ Chiến Quốc, các nƣớc xƣng hùng
liên tục tranh đoạt lẫn nhau, chiến tranh xảy ra liên miên. Những năm đầu thời
kỳ Chiến Quốc, nƣớc Nguỵ chiếm một vùng đất rộng lớn bao gồm tỉnh Sơn Tây,
Thiểm Tây, Hà Nam…của Trung Quốc ngày nay. Nguỵ Văn Hầu dùng Lý Khôi
làm tể tƣớng, lại có Ngô Khởi, Nhạc Dƣơng làm tƣớng cầm quân, nƣớc giàu
dân mạnh. Nguỵ Huệ Vƣơng đánh phá nƣớc Triệu, chinh phạt nƣớc Hàn, rất
mong thống nhất Tam Tấn, song không ngờ bị Tề Vũ Vƣơng đánh bại. Nƣớc Tề
trải qua ba đời Tề Vũ Vƣơng, Tề Tuyên Vƣơng, Tề Mẫn Vƣơng đều xƣng hùng,
đến khi Tần Hiếu Công biến pháp, thì mới cùng nƣớc Tề tranh giành nhau địa vị.
Vua nƣớc Sở dùng Ngô Khởi, vua nƣớc Hàn dùng Thân Bất Hại, vua nƣớc
Triệu dùng Kỵ Xạ, đều làm cho nƣớc mình mạnh lên, có thể địch lại đƣợc với
nƣớc Tần, song nƣớc Tần trong trận Trƣờng Bình (tỉnh Sơn Tây ngày nay) đã

quét sạch bốn trăm nghìn quân Triệu, nƣớc Tần ngày càng mạnh, càng khẳng
định đƣợc địa vị vững chắc của mình. Yên Chiêu Vƣơng dùng Nhạc Nghị để
đánh nƣớc Tề, chiếm đƣợc hơn bảy mƣơi thành của nƣớc Tề, Tề Mẫn Vƣơng
bị giết, nƣớc Tề tiêu vong. Trong khi đó, nƣớc Tần ngày càng trở nên mạmh
hơn. Ngƣời nƣớc Tần vốn dĩ có công trong việc đánh lui quân Khuyển Nhung,
nên đƣợc

13


vua nhà Chu phong cho đất Quan trung. Tần Hiếu Công liên tiếp đánh bại
nƣớc Nguỵ, bắt đầu xƣng hùng. Con Tần Hiến Công là Tần Hiếu Công lên
ngôi, sau đó ba năm, lập tức dùng Thƣơng Ƣởng vào việc biến pháp, nghiêm
khắc chỉnh lý lại quân đội, cũng nhƣ tình hình tài chính trong nƣớc, chấp
hành pháp trị một cách nghiêm ngặt, quy hoạch lại nƣớc Tần thành bốn mốt
huyện, tập trung quyền lực vào chính quyền trung ƣơng, khai khẩn đất hoang,
điều chỉnh lại chế độ ruộng đất, thống nhất đo lƣờng trong cả nƣớc. Do
những yếu tố này mà nƣớc Tần đã trở nên mạnh hơn bao giờ hết.
Thời đại Chiến Quốc, vƣơng thất nhà Chu mỗi lúc một suy yếu, đất đai
chỉ còn có bảy ấp ở Lạc Dƣơng, thiên tử nhà Chu thì trở thành thần tử phụ thuộc
vào bảy nƣớc. Chu Noãn Vƣơng năm thứ năm mƣơi chín (256 TCN), bỗng
nhhiên có ý định đánh nƣớc Tần. Nƣớc Tần liền cất quân đánh nhà Chu. Nhà
Chu không thể nào kháng cự đƣợc. Chu Noãn Vƣơng chỉ còn cách bỏ chạy vào
Tần, dâng hết đất đai cho nƣớc Tần. Lạc Dƣơng có hai thành, phía Đông gọi là
Thành Chu, phía Tây gọi là Vƣơng Thành, ở Vƣơng Thành là Tây Chu quân, ở
Thành Chu là Đông Chu quân. Khi Noãn Vƣơng chạy vào Tần, Tây Chu rơi vào
Tần…. Đến năm 249 TCN, nƣớc Tần tiêu diệt nốt Đông

Chu, nƣớc Chu diệt vong. Vậy là nhà Đông Chu tồn tại đƣợc 21 đời, kéo dài
trong 515 năm.

Từ sự trình bày trên ta thấy, xuất phát từ những mâu thuẫn về kinh tế do
sự phát triển của công cụ lao động và trình độ canh tác mà trong xã hội có sự
đảo lộn trật tự, địa vị xã hội, sự tranh giành lãnh địa, địa vị xã hội đã đẩy xã
hội đƣơng thời vào cảnh chiến tranh, loạn lạc liên miên. Những biến động của
xã hội thời Xuân Thu, Chiến Quốc diễn ra ở trên các phƣơng diện chính trị,
kinh tế - xã hội …
Về phương diện chính trị: Thực trạng xã hội cho thấy rõ ràng, các nƣớc
bá chủ đang suy yếu, các khanh đại phu dần dần lấn át chuyên quyền, không

14


còn chịu mệnh lệnh vƣơng thất nữa. Trong khi đó, khanh đại phu các nƣớc
chƣ hầu ngày càng ngang ngƣợc, thái độ của họ đối với vua trong nƣớc
không giống nhƣ thái độ của chƣ hầu đối với thiên tử, việc các khanh đại phu
giết vua hoặc đuổi vua ra khỏi nƣớc của mình trở thành phổ biến. Không chỉ
các khanh đại phu mà các bồi thần cũng không chịu ƣớc thúc, ngày càng trở
nên hoành hành hơn. Song, bồi thần chỉ có quyền trong một ấp, nên các thế
lực của họ có sự hạn chế. Điều đó cho thấy, chính quyền ngày càng đi xuống,
chính trị quý tộc cũng do đó mà băng hoại, trật tự xã hội thì bị đảo ngƣợc, kéo
theo đó là chiến tranh, loạn lạc.
Chế độ phong đất ngày càng bị triệt tiêu, các bậc vƣơng công đối xử
với quan lại, thƣờng dùng vàng hoặc gạo để thƣởng, chứ không phong đất
nhƣ trƣớc đây. Chế độ phong đất ngày càng ít đi. Ngƣời cai quản quận hay
huyện là do vua chỉ định, có thể đƣợc cất nhắc hoặc có thể bị bãi nhiệm. Vậy
là, việc quan lại đối với vua không còn tính chất riêng tƣ mà mang tính chất
công việc chung, dẫn đến sự thay đổi hình thái quan hệ xã hội. Đến thời Chiến
Quốc, tƣớng cầm quân và quan lại trong triều là hai chức vụ khác hẳn nhau,
đƣợc chia rõ ràng và có vai trò chính trị khác nhau. Thƣờng thì chức vụ quân
sự lấn át chức vụ chính trị. Ngƣời cầm quân do có công chiến trận, lại do nắm

sức mạnh trong tay nên nhiều khi điều khiển cả quần thần. Trong thời đại
phong đất, quý tộc chủ nô của một ấp hoặc một số ấp đồng thời cũng là thủ
lĩnh của một tập đoàn vũ trang. Nông dân vừa có thể là lao dịch cho quân đội,
cũng vừa có thể đƣợc chính thức tham gia quân đội. Đến thời Xuân Thu, xa
chiến (công cụ chủ yếu nhất trong chiến tranh là xe ngựa) dần dần thay bằng
bộ binh, phạm vi chiến tranh mở rộng, quân đội cần nhiều hơn, do đó mà lấy
vô số nông dân làm lính, các quý tộc cũ mất địa vị lãnh đạo, dần dần hình
thành chế độ quân sự mới. Từ những thay đổi về lực lƣợng lẫn phƣơng

15


tiện chiến tranh nhƣ vậy đã là điều kiện tất yếu của những cuộc chiến tranh
liên miên trong lịch sử.
Về phương diện kinh tế: Ở thời kỳ mà nông dân đƣợc sở hữu ruộng đất
thì giàu nghèo chƣa phải là vấn đề nổi cộm. Nhƣng khi việc các tƣớng đƣợc
phong đất, việc tự do mua bán ruộng đất thì sự phân hoá giàu nghèo trở nên rõ
rệt, đặc biệt đời sống của nông dân ngày càng khó khăn.
Thời đại Xuân Thu, việc canh tác đất đai dựa vào sức kéo của trâu bò
và công cụ bằng sắt đã làm nên sự thay đổi toàn diện trong nông nghiệp.
Trƣớc đây, việc trồng cấy hoàn toàn phụ thuộc vào các công cụ bằng gỗ và
vào sức ngƣời, nên năng suất lao động là rất thấp. Nhƣng khi công cụ lao
động đƣợc thay bằng sắt thì sản xuất và phạm vi canh tác đã đƣợc mở rộng ra
hơn rất nhiều, tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế.
Không chỉ nông nghiệp và nghề thủ công, chạm, khắc cũng xuất hiện
và phát triển. Nghề buôn bán hoặc trao đổi hàng hoá với số lƣợng lớn cũng
hình thành và phát triển. Muối của nƣớc Tề, vải vóc của nƣớc Sở, gạo, ngũ
cốc của nƣớc Tần, gia súc của nƣớc Yên và Triệu đều là những mặt hàng
đƣợc trao đổi, buôn bán thƣờng xuyên giữa các nƣớc.
Từ thời Xuân Thu đến Chiến Quốc, các nƣớc đều không thể không chú

ý đến công thƣơng mà những nhà buôn trở thành những bậc đại phú, tạo nên
sự tôn trọng của nhà vua đối với họ. Cuối thời Xuân Thu, thì chỉ có những
ông chủ nhỏ nhƣng đến thời Chiến Quốc thì xuất hiện ngày càng nhiều ngƣời
mở các xƣởng lớn với vô số nô lệ và các thợ thủ công. Họ kinh doanh gạo,
sản xuất tơ, làm muối hoặc rèn sắt, cũng có ngƣời nuôi gia súc với số lƣợng
lớn…. Những ngƣời đó ngày càng giàu có, vƣợt quá cả vua chúa đƣơng thời
và tất nhiên, thế lực của họ, ảnh hƣởng của họ ngày càng trở nên mạnh lớn
hơn.

16


Thời nhà Thƣơng có xuất hiện dấu hiệu của việc sử dụng tiền tệ, song
trên thực tế, đến cuối thời Xuân Thu, tiền (bằng đồng) vẫn chƣa đƣợc đƣa
vào lƣu hành rộng rãi.
Đầu thời Chiến Quốc, do sự phát triển của công thƣơng nghiệp mà tiền
(bằng đồng) mới đƣợc chế tạo ra nhiều và đƣợc đƣa vào sử dụng một cách
phổ biến. Thời kỳ này, vàng cũng đƣợc đƣa vào sử dụng, điều này đã đƣợc
sử sách ghi chép lại.
Về phương diện xã hội: Đến thời Xuân Thu- Chiến Quốc, do sự cạnh
tranh khốc liệt, tầng lớp quý tộc ngày một suy yếu, do vậy mà nhân tài ngày
một ít. Tầng lớp này do từ trƣớc đƣợc bảo đảm điều kiện thuận lợi mà mất đi
tính tiến bộ, tính tranh đấu. Giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là chủ nô. Họ là
quý tộc đảm đƣơng các chức vụ thiên tử, chƣ hầu, khanh đại phu. Không có
giai cấp nào tranh đƣợc quyền của họ.
Thời Xuân Thu, vị thế xã hội có sự đảo lộn khi một số ngƣời bình dân do
có công trong chiến trận mà trở nên có quyền lực, ỷ vào quyền đó đã chiếm
ruộng đất công và biến thành ruộng tƣ hữu, một số ngƣời khác và nhà buôn giàu
có đã giành tiền mua ruộng đất và mua chức tƣớc, bƣớc vào thang bậc trên của
xã hội, một số ngƣời khác cho bản thân hoặc tập hợp đƣợc những ngƣời nghèo

khổ tiến hành phát hoang, khai phá ruộng đất mới và trở thành ngƣời chủ sở hữu
lớn về ruộng đất…. Những ngƣời này hợp lại thành giai cấp

địa chủ, vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham
gia vào giai cấp thống trị xã hội cùng giai cấp chủ nô.
Quan hệ giữa khanh đại phu và vua ngày càng suy giảm, giai cấp quý
tộc hủ bại, các đại thần bị tiêu diệt. Vì vậy, nhân tài các nƣớc nổi lên, cùng
với nó, sự xuất thân cao quý của một số ngƣời không còn đƣợc quá coi trọng
nữa, thế lực của các du sỹ ngày càng mạnh, mở ra một cục diện mới. Trật tự,
tôn ty thời Tây Chu theo thang bậc từ trên xuống dƣới chỉ còn là danh nghĩa,

17


hình thức. Và chính những thang bậc này đang đứng trƣớc những thử thách
của sự biến lịch sử.
Đứng trƣớc thực trạng xã hội ngày càng rối ren nhƣ vậy, đã có nhiều
vấn đề đƣợc đặt ra nhằm lý giải điều đó. Có ngƣời cho rằng, trời chỉ thƣơng
ngƣời có đức, vậy nên con cháu nhà Chu đã thoái hoá, bất lực, không đƣợc
nhƣ các tiên vƣơng đời trƣớc nên xã hội loạn là tất yếu. Lại có ngƣời cho
rằng, trong xã hội, thực ra còn chỗ thiếu sót, có chỗ không hợp thời, nhƣ
không khôi phục lễ, không coi trọng pháp luật, không nhìn về hiện tại và
tƣơng lai…. chỉ cần khôi phục những điều đó là xã hội sẽ lập lại kỷ cƣơng.
Những ý kiến này tuy là có khác nhau song cùng mục đích là tìm một
con đƣờng đƣa xã hội trở lại sự yên trị. Nhƣng những ngƣời đi tìm đƣờng
cũng do điều kiện lịch sử và lập trƣờng tƣ tƣởng mà họ chƣa thấy đƣợc sự
phát triển của lực lƣợng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện tồn.
Nếu nhƣ ở thời Tây Chu, quan hệ sản xuất chủ yếu của Trung Quốc lúc
bấy giờ là quan hệ giữa chủ nô và nô lệ thì đến thời Xuân Thu, quan hệ đó đã
rạn nứt, quan hệ sản xuất phong kiến với hai giai cấp mới là địa chủ và nông

dân dần đƣợc xác lập, tồn tại xen kẽ với quan hệ chủ nô - nô lệ.
Giai cấp địa chủ ngày càng có xu thế lấn át giai cấp chủ nô trong việc
chi phối mọi sinh hoạt của xã hội. Giai cấp địa chủ mới không thoả mãn với
trật tự xã hội cũ, họ có nhu cầu cần thiết phải thay đổi. Nhu cầu này đã thể
hiện ra hành động, trật tự xã hội vốn có đƣợc xem là ý trời, thì nay cần phải
thay đổi cho phù hợp.
Thực sự ra thì sự phát triển lực lƣợng sản xuất là không đồng đều ngay
cả ở những nƣớc chƣ hầu. Nƣớc thì phát triển nhanh, mạnh lại có nƣớc phát
triển chậm… Do vậy mà, đến thời Đông Chu, đã xuất hiện các nƣớc lớn gọi
là bá chủ đó là hung bạo, là vô đạo, là không có nghĩa; do vậy mà sự tranh

18


giành, cát cứ đã diễn ra làm cho xã hội bị đẩy vào thực trạng hỗn loạn, gây ra
không biết bao đau khổ cho ngƣời dân lao động.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa cho sự ra đời tƣ tƣởng Nho giáo
tiên Tần về con ngƣời và xã hội.
Những quan niệm của Nho giáo tiên Tần về con ngƣời và xã hội đƣợc
hình thành và phát triển không chỉ trên cơ sở kinh tế - xã hội mà còn là sự kế
thừa, phát triển quan niệm, tƣ tƣởng, văn hóa, đạo đức ngay từ thời nhà Hạ,
nhà Thƣơng, nhà Ân đến thời kỳ nhà Chu – giai đoạn hình thành và phát triển
của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa.
Về tôn giáo, thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo – duy tâm
với các biểu tƣợng về “Thiên mệnh”, về ý chí của “Thƣợng đế” và quỷ thần đƣợc xem là những lực lƣợng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự
hình thành và biến hoá của vũ trụ, đời sống xã hội và con ngƣời. Đời nhà
Thƣơng, Chu tồn tại phổ biến quan niệm duy tâm thần bí rằng, con ngƣời có
thể thông đạt đƣợc với Thƣợng đế và quỷ thần; ông vua đƣơng triều phải thờ
tổ tiên của mình, trong đó ngƣời xa nhất, vị sáng lập ra dòng họ là một vị thần
tối cao trên trời đó là Đế hay Thƣợng Đế. Những quan niệm duy tâm này đã

đƣợc truyền lại cho đời sau và đến thời nhà Chu thì Thƣợng đế dần dần mất
tính nhân hình và riêng tƣ để trở thành ông Trời (Thiên), Và Trời chủ yếu là
thế lực che chở cho dòng họ của hoàng tộc nhƣng cũng đồng thời là ngƣời
phán xử hoàng tộc.
Trong đời Thƣơng, Chu thì lực lƣợng siêu nhiên thần bí "thƣợng đế" và
quỷ thần đƣợc xem là lực lƣợng tinh thần tối cao, chi phối đời sống con ngƣời.
Và để biện hộ cho sự lật đổ nhà Thƣơng, các nhà tƣ tƣởng nhà Chu đã sáng tạo
ra lý thuyết Mệnh trời (thiên mệnh) và xây dựng ra những hình mẫu về những
ông vua lý tƣởng, hoàn hảo, mẫu mực và những hình tƣợng ấy theo họ là các
hình tƣợng vua Nghiêu, vua Thuấn. Để từ đó, họ gán cho những vị

19


vua cuối cùng của nhà Thƣơng những đặc tính: kiêu ngạo, tàn nhẫn nên chính
những đặc tính này đã khiến cho nhà Thƣơng và hoàng tộc của nhà Thƣơng
bị huỷ diệt. Và cũng theo những nhà tƣ tƣởng của nhà Chu, những tội lỗi của
các đời vua nhà Thƣơng đã khiến cho Trời không ban cho nhà Thƣơng ân huệ
là trị nƣớc, trị dân cũng nhƣ không đƣợc hƣởng dân nữa, cũng không xem
ông vua đó là những đứa con của Trời (Thiên tử) nữa. Do đó, con cháu nhà
Chu phải dốc tâm gìn giữ truyền thống ấy. Đây rõ ràng là tƣ tƣởng tôn giáo
đã bị chính trị hoá, phản ánh tƣ tƣởng của giai tầng thống trị quý tộc, phản
ánh nền chuyên chính cấp quý tộc thị tộc lúc bấy giờ.
Tƣ tƣởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc nhà Chu là “ nhận
dân”, “thƣởng dân” và “ trị dân”. Từ những tƣ tƣởng này, nhà Chu cho rằng,
khi đã vâng “mệnh trời” mà kẻ nào chống lại, thì nhà Chu sẽ thay mệnh trời
mà chém giết. Họ khẳng định, Vua nhà Chu là Thiên tử, là ngƣời duy nhất
thay trời thống trị thiên hạ. Đây là tƣ tƣởng chuyên chính tàn khốc của giai
cấp quý tộc nhà Chu, đƣợc phủ lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh
trời”. Tuy nhiên, tƣ tƣởng về con ngƣời và xã hội của Nho giáo tiên Tần còn

là sự kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc Trung Hoa, sự kế thừa tƣ
tƣởng “Kính thiên”.
Nhƣ ở phần trƣớc chúng ta biết, Trung Quốc đã có sự phát triển hơn về
kinh tế, và cùng với nó là những hiểu biết của con ngƣời Trung Quốc về các
lĩnh vực nhƣ Thiên văn học, địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, đo lƣờng, làm lịch,
thuốc chữa bệnh, xây dựng các thể chế nghi lễ, … khá sâu sắc. Trong số đó,
phải kể đến bộ sách: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch.
Những hiểu biết này của ngƣời Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy hoạt
động sản xuất, đồng thời nó là tiền đề cho sự ra đời các học thuyết triết học,
chính trị, đạo đức và tôn giáo ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc.

20


×