Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Văn hoá nam bộ trên sóng phát thanh của đài tiếng nói việt nam khu vực nam bộ (từ năm 2001 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.01 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------------------

ĐINH KHẮC QUỲNH GIANG

VĂN HÓA NAM BỘ TRÊN SÓNG PHÁT THANH

CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
( KHU VỰC NAM BỘ )
Từ năm 2001 - 2005

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------------------

ĐINH KHẮC QUỲNH GIANG

VĂN HÓA NAM BỘ TRÊN SÓNG PHÁT THANH

CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
( KHU VỰC NAM BỘ )
Từ năm 2001 - 2005

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH : BÁO CHÍ HỌC MÃ


SỐ : 60.3201

Người hướng dẫn khoa học :

Tiến só khoa học ĐOÀN HƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH - 2006


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 4
1. Tính cấp thiết của đề tài:....................................................................................... 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:................................................................... 7
3. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................................... 7
4. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài:........................................... 8
5. Kết cấu của luận văn:.............................................................................................. 9
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................................... 10
Chương1.............................................................................................................................................. 10
MẤY VẤN ĐỀ VĂN HÓA NAM BỘ VÀ ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM

1.1. Cơ sở văn hóa Việt Nam và lý thuyết phân vùng văn hóa
.............................................................................................................................................................. 10

1.1.1. Vài nét về đặc điểm đòa lý khu vực Nam bộ – Đồng bằng sông

Cửu Long:............................................................................................................................... 12
1.1.2. Nét đặc sắc cơ bản của văn hóa dân gian Nam bộ:. .13
1.1.3. Tâm lý, tính cách người Nam bộ:...................................................... 16
1.1.4. Sự tương đồng và khác biệt của văn hóa Nam bộ trong tương


quan với hệ thống văn hóa Việt Nam:...................................................... 19
1.2. Mấy vấn đề văn hoá Nam bộ và Đài Tiếng Nói Việt Nam 21
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của báo chí đối

với việc bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc...........21
1.2.2. Vai trò và vò trí của Đài Tiếng nói Việt Nam trong việc bảo vệ
và phát triển nền văn hóa dân tộc nói chung và nền văn hóa Nam bộ

nói riêng................................................................................................................................. 24


1.2.2.1. Lòch sử hình thành và phát triển của Đài Tiếng nói Việt

Nam:........................................................................................................................................ 26
1.2.2.2. Vai trò và vò trí của Đài Tiếng nói Việt Nam trong việc bảo
vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc nói chung và nền văn hóa

Nam bộ nói riêng:..................................................................................................... 28

Chương 2: CÁC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH CỦA ĐÀI TIẾNG
NÓI VIỆT NAM KHU VỰC NAM BỘ TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ..32
2.1. Đặc tính của phát thanh và việc xây dựng một đời sống văn hóa

lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc............................ 33
2.2. Cơ sở văn hóa Nam bộ và bản sắc các chương trình phát thanh của

Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực Nam bộ...................................................... 35
2.3. Đài TNVN trên vùng văn hóa Nam bộ:............................................... 38
2.4. Đài TNVN với vai trò giữ gìn và phát huy các giá trò văn hóa vùng


văn hóa Nam bộ................................................................................................................. 49
2.4.1. Phổ biến kiến thức, thông tin về các hoạt động văn hóa
........................................................................................................................................................... 49
2.4.2. Đấu tranh chống xâm hại các di tích lòch sử – văn hóa, chống
các biểu hiện phản văn hóa, bảo vệ thuần phong mỹ tục, xây dựng đời

sống văn hóa mới........................................................................................................ 52
2.4.3. Bảo vệ và phát huy các giá trò văn hóa phi vật thể..57
2.4.4. Tham gia tổ chức các hoạt động văn hóa................................ 64

Chương 3:VẤN ĐỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC CHƯƠNG TRÌNH


PHÁT THANH CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM KHU VỰC NAM
BỘ........................................................................................................................................................ 67
3.1. Khảo sát nhu cầu thính giả Nam bộ, xây dựng chương trình dành cho

đối tượng........................................................................................................................................... 68
3.2. Tăng cường yếu tố giao lưu, tương tác giữa các chương trình phát

thanh với thính giả khu vực Nam bộ........................................................................... 75
3.3. Thực hiện công tác thăm dò, nghiên cứu ý kiến dư luận, tiếp nhận ý

kiến phản hồi, tái sản xuất chương trình phát thanh................................ 80
3.4. Xây dựng những thể loại phát thanh phù hợp, hiệu quả cho
các

chương trình phát thanh khu vực Nam bộ với mục đích bảo tồn và phát huy


các giá trò văn hóa vùng............................................................................................... 84
3.4.1. Các thể loại phát thanh cơ bản................................................................... 84
3.4.2. Các thể loại dành riêng cho các chương trình phát thanh khu vực

Nam bộ............................................................................................................................................... 90

PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................................ 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 102
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………………………………………………………........106


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Vai trò và vò trí của báo chí trong việc xây dựng và phát triển xã
hội đã được khẳng đònh bằng thực tiễn trong lòch sử xã hội lòai người.
Khó có thể liệt kê rạch ròi các chức năng, vai trò của báo chí truyền
thông trong cuộc sống. Trong khi đó, thực tế các vai trò này lại đan xen,
gắn chặt với nhau, thể hiện trong nhau và quy đònh lẫn nhau.
Để có thể nắm bắt một cách thấu đáo các chức năng, vai trò của
báo chí trong thực tiễn cần phải có một công trình nghiên cứu công phu với quy
mô lớn. Trong khuôn khổ của luận văn nay, chúng tôi xin xét đến năm chức
năng cơ bản sau đây của báo phát thanh để làm cơ sở cho việc nghiên cứu:

_ Chức năng thông tin
_ Chức năng tư tưởng.
_ Chức năng khai sáng và giải trí.
_ Chức năng tổ chức, quản lý xã hội.
_ Chức năng chỉ đạo, giám sát xã hội.

Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều thử thách gay go để
đứng vững, phát triển và gặt hái đïc nhiều thành quả tốt đẹp trên mọi lónh vực
của cuộc sống như ngày hôm nay. Trong sự nghiệp đổi mới, đường lối phát triển
kinh tế thò trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, đònh hướng xã
hội chủ nghóa đã tác động lớn đến nhiều mặt trong đời sống xã hội, trong đó có
đời sống văn hoá của người dân và hoạt động của báo chí.

4


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

Chuyển sang cơ chế thò trường, báo chí có nhiều cơ hội mới để phát triển. Báo chí
không chỉ có thêm nhiều chủ đề mới mà còn có môi trường để tự thể hiện, phát huy
khả năng sáng tạo của mình, có điều kiện thực hiện dòch vụ quảng cáo, được bạn đọc
chấp nhận giá bán đúng với giá thành, có thêm các phương tiện kỹ thuật hiện đại để thu
thập, truyền dẫn thông tin, in ấn phát hành. Trong điều kiện mới, báo chí không những phải
thích ứng nhanh, đứng vững được mà còn phải có bước phát triển, tự đổi mớ tư duy và
phương thức làm việc để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao quyền được thông tin của nhân
dân, thu hút được nhiều công chúng hơn nhưng đồng thời vẫn phải giữ vững đònh hướng
chính trò vừa phải thông tin đa dạng, phong phú, nhiều chiều, góp phần tạo nên bản sắc
riêng cho mỗi tờ báo.
Đánh giá chung về thực trạng thông tin ở nước ta, Chiến lược phát triển thông tin đến
năm 2010 do Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt ngày 9/9/2005 có đoạn: “Trong những năm qua,
hoạt động thông tin ở nước ta có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả về tính chất, nội
dung, hình thức và loại hình…. Tuy vậy, sự phát triển thông tin ở
nước ta vẫn đang trong tình trạng thiếu cân đối, vừa có sự chồng chéo về nội dung, về
phân bố, đồng thời vừa có sự thiếu hụt ở một số lónh vực, đòa bàn. Nhu cầu được thông
tin của một bộ phận nhân dân chưa được đáp ứng đầy đủ. Mức độ và cơ hội thụ hưởng
thông tin của các tầng lớp nhân dân ở các khu vực không đồng đều. Ở một số lónh vực

thông tin còn nặng yếu tố phổ biến, truyền đạt, tính hai chiều và tính diễn đàn trong thông
tin chưa được phát huy đầy đủ. Mặt trái của cơ chế thò trường đã có những tác động tiêu
cực, làm nảy sinh hiện tượng: thông tin mang tính giật gân, câu khách, không phù hợp với
đònh hướng tư tưởng, chính trò và truyền thống văn hóa dân tộc. Thông tin về kinh tế, khoa
học, công nghệ, pháp luật cho nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi còn hạn chế…”

Báo chí nói chung và báo phát thanh nói riêng chỉ làm được và làm tốt các chức
năng, nhiệm vụ, yêu cầu nêu trên khi và chỉ khi báo chí hiểu rõ đối tượng công chúng
mà họ nhắm đến để phục vụ. Nghiên cứu công chúng – nhóm đối tượng các

5


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

chương trình phát thanh là yêu cầu và xu thế tất yếu của phát
thanh hiện đại nói riêng và báo chí hiện đại nói chung.
Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) phủ sóng toàn quốc, trong đó có khu vực Nam bộ_
ĐBSCL với đặc điểm đòa lý, khí hậu, dân cư riêng và văn hóa tương đối khác biệt với các
vùng miền khác trong tương quan của nền văn hóa Việt Nam. Chính những đặc điểm về tự
nhiên đã quy đònh đời sống văn hóa và tính cách của người dân Nam bộ. Việc hiểu biết
tâm tư, tình cảm của người dân là nguyên nhân cơ bản để tiếng nói của chúng ta được
yêu mến thật sự ở đó. Để làm được điều đó, không có con đường nào khác hơn là
thông qua văn hóa. Vấn đề này cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu và
đònh kỳ nhằm nâng cao chất lượng khoa học, chất lượng văn hóa – nghề nghiệp của chương
trình phát thanh. Đó là vấn đề có ý nghóa quyết đònh nâng cao chất lượng chính trò của
sóng phát thanh.

Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi thế giới và cả khu vực Đông Nam Á đang

chòu sự biến động dữ dội mà nguyên nhân sâu xa là sự khác biệt về văn hóa
thì việc duy trì một xã hội an tòan, bình yên là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
Nhà nước và mỗi người dân trong đó không thể không kể đến vai trò đặc biệt to
lớn của hệ thống báo chí nói chung và Đài Tiếng nói Việt Nam nói riêng.

Nét phong phú, đặc sắc của vùng văn hóa Nam bộ là yếu tố quan
trọng bậc nhất để những người làm báo phát thanh dùng làm cơ sở cho
họat động nghề nghiệp của mình trong việc xây dựng những chương trình phát
thanh giá trò tiếp cận được thính giả nơi đây và góp phần vào việc giữ gìn
và xây dựng nét văn hóa dân gian độc đáo khu vực này.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Các giá trò văn hóa trong sinh hoạt, trong đời sống tinh thần của người dân vùng đất
Nam bộ là cơ sơ û và cũng là mục tiêu để Đài Tiếng Nói Việt Nam khu vực

6


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

phía nam xây dựng các chương trình phát thanh phù hợp với tôn chỉ mục đích của
đài. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc só, chúng tôi chỉ nghiên cứu các
chương trình của Đài Tiếng Nói Việt Nam cơ quan thường trú tại Cần Thơ phụ
trách khu vực miền tây Nam bộ và cơ quan thường trú tại TP.HCM phụ trách khu
vực thành phố Hồ Chính Minh và miền đông Nam bộ từ năm 2001– 2005.

Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
- Vấn đề văn hóa trong việc phủ sóng hiệu quả Đài Tiếng
nói Việt Nam khu vực Nam bộ.
- Sự ảnh hưởng của văn hóa Nam bộ trong cấu trúc và

phong cách của các chương trình phát thanh.
- Các chương trình phát thanh của Đài trong việc giữ gìn và
phát huy các giá trò của nền văn hóa Nam bộ.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Khu vực Nam bộ được chia thành hai bộ phận là miền đông Nam bộ và thành phố
Hồ Chí Minh và miền tây Nam bộ_ĐBSCL. Hai khu vực này thuộc vùng văn hóa Nam bộ
nhưng trên thực tế vẫn có một số điểm khác biệt về điều kiện đòa lý, đời sống xã hội
và văn hóa. Do vậy, Đài Tiếng nói Việt Nam phân bố ở hai khu vực này hai cơ quan thường
trú với chức năng và nhiệm vụ tương đối độc lập đủ thấy mối quan tâm của Đài với
phạm vi phủ sóng này. Chúng tôi chọn khỏang thời gian từ năm 2001 – 2005, 5 năm không
phải là khỏang thời gian dài nhưng cũng không quá ngắn để có thể khảo sát mối quan
hệ biện chứng giữa các yếu tố văn hóa khu vực này và nội dung thông tin, tính hiệu quả
của những chương trình phát thanh của Đài.

Trong quá trình nghiên cứu, để đạt được mục đích của mình,
chúng tôi kết hợp đồng thời nhiều phương pháp như sau:

7


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

- Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chính sách của Đảng và Nhà
nước về vấn đề văn hóa đối với các hoạt động truyền thông đại
chúng.

- Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố văn hóa
khu vực Nam bộ và nội dung và hình thức của các chương trình
phát thanh.


- Kết hợp đồng thời phương pháp tổng hợp và phương pháp
phân tích các chương trình phát thanh với các thể loại khác
nhau. Sử dụng đó làm cơ sở để khảo sát tính hiệu quả của
các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam trên
vùng văn hóa Nam bộ.

4. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Mục đích phát triển xã hội dài lâu, bền vững sẽ không đạt được nếu
không dựa trên nền tảng văn hóa, mà văn hóa hóa dân gian là cội nguồn. Họat
động báo chí nói chung và phát thanh nói riêng cũng không nằm ngoài mục đích
này. Để đạt được điều đó “phát thanh không nên chỉ bắt thính giả nghe những
điều mình nói mà phải là nói với họ về những điều mà họ đang quan tâm, tạo
điều kiện cho họ được bày tỏ quan điểm, tình cảm của mình cho hàng triệu người
cùng nghe, cùng chia sẻ,… Đó chính là sự hấp dẫn của phát thanh hiện nay”

Hiểu rõ đối tượng mục tiêu trong khi hành nghề là cơ sở sự thành công của người
làm phát thanh. Trong tình hình hiện nay, Đài tiếng nói Việt Nam đã có những cuộc điều tra
xã hội học nhằm nghiên cứu đối tượng thính giả, nhưng những cuộc nghiên cứu này nói
chung vẫn chưa quy mô và chính xác. Do đó những ưu điểm của phát thanh trong việc thực
hiện các chức năng của mình vẫn chưa được phát huy một cách hiệu quả, đặc biệt là đối
với đòa bàn nhiều nét đặc thù như khu vực Nam bộ.

Bên cạnh việc làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa Nam bộ và tính hiệu quả của
phát thanh đối với người Nam bộ, chúng tôi còn có thêm mong muốn được góp phần


8


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)


nhỏ vào việc tạo sức hút cho Đài Tiếng nói Việt Nam trên vựa
lúa lớn nhất cả nước này.
5. Kết cấu của luận văn:
Về mặt kết cấu, luận văn gồm những phần chủ yếu sau:
-

Phần mở đầu

-

Chương 1: Đài Tiếng nói Việt Nam và mấy vấn đề văn hóa dân gian Nam bộ

- Chương 2: Các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam khu
vực Nam bộ với việc giữ gìn và phát triển văn hóa dân gian Nam bộ

- Chương 3: Vấn đề nâng cao hiệu quả các chương trình phát
thanh của Đài TNVN khu vực Nam bộ
-

Phần kết luận

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự chỉ
bảo, đóng góp ý kiến của thầy cô và các đồng nghiệp.
Luận văn này được thực hiện với sự hướng dẫn của Tiến só
Khoa học Đoàn Hương.

9



Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

PHẦN NỘI DUNG
Chương1

ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM VÀ MẤY VẤN ĐỀ
VĂN HÓA NAM BỘ
1.1. Cơ sở văn hóa Việt Nam và văn hóa Nam bộ:
Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Văn hoá, theo nghóa rộng, là cái tự nhiên được biến
đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một
thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội,
là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những
giá trò, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ
thuật của con người. Như vậy, thì phải xuất phát từ nhũng điều kiện tự nhiên (con người
vốn là một sản phẩm của tự nhiên, một phần của tự nhiên, đứng đối diện với tự nhiên
mà tạo thành văn hoá) rồi sau đó những điều kiện lòch sử (con người lại là một sản
phẩm của lòch sử do chính mình tạo ra) để nhận nhìn về cội nguồn và bản sắc của nền
văn hoá Việt Nam”

GS Phan Ngọc đònh nghóa: Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng
trong óc một cá nhân hoặc một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bò
cá nhân này hoặc tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu
tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới
hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân
hoặc tộc người khác kiểu lựa chọn của cá nhân hoặc tộc người khác.

Tiến só Trần Ngọc Thêm đònh nghóa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trò
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Căn


10


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

cứ theo đònh nghóa trên thì văn hóa Việt Nam là một hệ thống các giá trò được
hình thành và tồn tại qua lòch sử mấy ngàn năm của đất nước trong sự gặp gỡ,
tiếp xúc giữa nền văn hóa bản đòa và các nền văn hóa lớn của thế giới là
Trung Hoa và Ấn Độ. Trong đó, yếu tố tự nhiên chiếm vai trò đặc biệt quan trọng.

Theo lý thuyết phân vùng văn hóa của Giáo sư Ngô Đức Thònh thì cũng
như bất kỳ một hiện tượng tự nhiên hay xã hội nào, các hiện tượng văn hoá
cũng chòu sự tác động bởi hai nhân tố cơ bản, đó là thời gian và không gian.
Thời gian cho ta thấy một hiện tượng hay một tổ hợp các hiện tượng văn hóa
nảy sinh, tồn tại và biến đổi như thế nào dưới sự tác động của môi trường tự
nhiên, lòch sử và xã hội, nó trả lời câu hỏi bao giờ? Còn không gian thì lại
cho ta thấy một hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa ra đời và tồn
tại trong một không gian đòa lý nhất đònh, nó trả lời câu hỏi ở đâu.
Nền văn hóa Việt nam được đònh vò là lọai hình văn hóa gốc nông
nghiệp điển hình. Người dân Việt Nam phải sống đònh cư để sản xuất nông
nghiệp. Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên, có ý thức tôn trọng và sống
hòa hợp với thiên nhiên, có thái độ mềm dẻo, ôn hòa trong việc giải quyết
những mâu thuẫn trong cuộc sống. Cho nên về mặt nhận thức, hình thành lối
tư duy tổng hợp, chú trọng mối quan hệ giữa tất cả các sự vật hiện tượng trong
cuộc sống và tin tưởng vào một quy luật chung chi phối tất cả. Người dân ưa
sống theo nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn và trọng phụ nữ. Đề cao
cuộc sống tập thể, coi nhẹ cá nhân từ đó hình thành những phong tục đẹp
của dân tộc nhưng đôi khi cũng gây ra những trở ngại cho sự phát triển.


Trong việc phân chia các vùng văn hoá Việt Nam, có nhiều ý kiến
phân chia thành 6, 7 thậm chí là 9 vùng văn hóa khác nhau. Tuy nhiên phần
lớn các tác giả nghiên cứu về văn hóa đều xem Nam bộ là một vùng
văn hóa quan trọng không thể tách rời của văn hóa Việt Nam.

11


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

Văn hóa dân gian Nam bộ với tư cách là một bộ phận không tách rời của
nền văn hóa Việt Nam cho nên văn hóa Nam bộ về cơ bản vẫn mang những tính
chất trên. Song như đã nói ở trên, văn hóa chòu sự chi phối sâu đậm của điều
kiện tự nhiên mà khu vực Nam bộ tương đối đặc biệt nên nơi đây hình thành những
tập quán sinh họat, lối sống và nếp nghó của người dân mang tính đặc thù riêng.

1.1.1. Vài nét về đặc điểm tự nhiên khu vực Nam bộ – Đồng bằng sông Cửu

Long:
Khu vực Nam bộ là vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu
2

nhất Việt Nam. Đồng bằng Nam bộ rộng khoảng 36.000km là vùng đất phì
nhiêu, màu mỡ với điều kiện khí hậu vô cùng thuận lợi. Khí hậu nóng ấm,
mỗi năm có hai mùa, mùa mưa và mùa khô rõ rệt, hầu như rất ít xảy ra
thiên tai. Càng về phía tây, đất đai càng phì nhiêu, nhiều rừng rậm và sình lầy,
thủy triều ảnh hưởng sâu vào nội đòa, đất đai còn bò nhiễm mặn. Nét đặc
trưng nhất của vùng đất này là hệ thống sông ngòi, đầm hồ và kênh rạch
chằng chòt, đường bờ biển dài với sự phong phú các loại tài nguyên biển.
Khi nhắc đến Nam bộ không thể không nhắc đến hai con sông lớn làm

nên diện mạo của vùng đất này là sông Đồng Nai và sông Mê Kông. Con
sông lớn nhất của khu vực này là sông Cửu Long hay còn gọi là sông Mê
Kông bắt nguồn từ Trung Quốc hình thành ở khu vực hạ lưu của nó một vùng
đồng bằng trù phú, giàu có. Đây là vựa lúa lớn nhất của cả nước.
Sông Đồng Nai và sông Mê Kông chia vùng Nam bộ ra thành hai bộ phận là miền
Đông Nam bộ và miền Tây Nam bộ. Miền Đông Nam bộ ngoại trừ hai đặc điểm nổi bật vể
thổ nhưỡng là đất đỏ bazan và đất xám phù sa cổ thì về cảnh quan sinh thái chưa có gì
đặc biệt lắm so với các vùng khác trong nước. Sông ngòi, núi rừng, cây trái, cách làm
ăn sinh hoạt tuy có mang một số nét riêng nhưng về cơ bản,

12


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

vẫn gần hao hao giống một vùng bán sơn đòa ở Nam Trung Bộ.
Song bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) với rừng ngập mặn Cần Giờ, với
Bưng sáu xã cùng các bưng phèn khác ở các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh xuống
Long An rồi từ đó suốt một dải các tỉnh miền tây xuống đến tận mũi Cà Mau là cả một
bức tranh cảnh quan sinh thái độc đáo. Ở đây, có rừng ngập mặn rộng lớn nhất, phong
phú nhất trên bán đảo Đông Dương, là một trong số không nhiều rừng ngập mặn còn lại
trên thế giới; có vùng Đồng Tháp Mười – túi phèn vốn rộng hơn 400.000 ha, từng là xứ
sở bạt ngàn của năn, lác, tràm gió, tràn cừ, sen, súng… và bao loại thủy sinh, thủy cầm
hiếm quý; có vùng tứ giác Long Xuyên nhiễm phèn, mặn và ngập nước theo thời vụ; có
rừng tràm U Minh Thượng – U Minh Hạ bát ngát. Những cánh đồng nước ngọt trù phú, trải
rộng gần một triệu hécta giữa và ven sông Tiền sông Hậu, với vô số sông ngòi, kênh
rạch ngang dọc nối liền nhau.

Miền đất hoang vu này, nhất là vùng hoang hóa, lầy trũng được khai thác
thành miền đất trù phú từ khi người Việt đặt chân tới khoảng thế kỷ XV –

XVI, sống xen cài, cùng chung lưng đấu cật với người Khơme và sau đó là
người Hoa, người Chăm khai hoang, thuần hóa. Còn có các dòng người khác
tìm đến cùng đất mới, người Nhật, Mã Lai, Ấn Độ, người phương tây tạo nên
ở vùng này bức tranh chủng tộc phong phú và đa dạng. Đó là tiền đề để tạo
ra một vùng văn hóa rất riêng với nhiều sắc thái đặc trưng trong bản đồ
phân vùng văn hóa Việt Nam: vùng văn hóa Nam bộ.

1.1.2. Nét đặc sắc cơ bản của văn hóa Nam bộ:
Vùng văn hoá là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn cảnh tự
nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ nguồn gốc và lòch sử, có
những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế – xã hội, giữa họ diễn ra những giao lưu,
ảnh hưởng văn hóa qua lại nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng

13


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể
phân biệt với các vùng văn hóa khác. Những biểu hiện của vùng văn hoá mang tính đa
vẻ, thể hiện trên toàn bộ các mặt của đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần
của cư dân, tuy nhiên trong đó đặc trưng hơn cả là lối sống, nếp sống của cư dân, như việc
làm lụng, nếp ăn mặc, đi lại giao tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, lễ
hội; các hoạt động văn hoá – nghệ thuật, nhất là văn hoá – nghệ thuật dân gian, như văn
học dân gian, âm nhạc, dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian, và chừng mực nào đó còn thấy
ở phong cách và tâm lý con người…(Ngô Đức Thònh, Văn hóa vùng và phân vùng văn
hóa ở Việt Nam, NXB Trẻ).

Vùng văn hóa Nam bộ nằm trong lưu vực sông Đồng Nai và hệ thống
sông Cửu Long. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa tới khai phá đã nhanh chóng hòa

nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản đòa (Khmer, Mạ, Xtiêng,
Chơro,…) Nơi đây còn nhiều miền đất chưa khai phá với sự trù phú về nông
sản, thực phẩm. Việc tổ chức thôn ấp theo các dòng kênh, các trục giao
thông thuận tiện cho việc qua lại buôn bán giữa các vùng. Nhà ở có khuynh
hướng trải dài ven kênh, ven lộ, bữa ăn giàu thủy sản, tính cách con người ưa
phóng khoáng, tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong phú và đa dạng, sớm tiếp
cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hóa phương Tây.
Với điều kiện môi sinh, thổ nhưỡng mới của vùng đất phương nam,
những người di dân gốc gác từ miền Trung, miền bắc,… đã dần dần thích ứng
với hoàn cảnh và điều kiện sinh hoạt mới. Quá trình chuyển đối và thích ứng
môi trường đó đã dần dần hình thành và phát triển ở người di dân những
lối sống, tính cách, sắc thái văn hoá mang tính tiêu biểu đòa phương.
Một trong những điểm khác biệt của văn hóa Nam bộ là thành phần dân cư của
làng Nam bộ thường hay biến động, người dân không bò gắn chặt với mảnh đất của mình
như ở làng Bắc bộ. Làng xóm cũng như cơ cấu xã hội thiếu bền chắc và

14


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

chặt chẽ, cột chặt người nông dân ở lại với ruộng đất. Là vùng đất mới, thành phần cư
dân ở đây hay biến động, đất dễ sống họ trụ lại, khó sống họ ra đi, không có gì ràng
buộc, ngáng trở. Làng xã không có đất công để mà ban cấp, ai có sức khai phá thì biến
thành của riêng, mua đi bán lại, người không có đất thì làm thuê, nay đây mai đó. Vì thế,
quan hệ cộng đồng, làng xã không mạnh mẽ, mà còn lại là quan hệ cá nhân. Nhiều
người cũng không còn nhớ gốc tích, họ hàng quê hương nên gia phả, lý lòch gốc gác xuất
thân của mỗi người cũng không lấy gì làm trọng.

Trong vùng văn hóa Nam bộ có thể phân chia thành các tiểu

vùng văn hóa: tiểu vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tiểu
vùng sông Đồng Nai và tiểu vùng Sài Gòn – Gia Đònh.
Tiểu vùng văn hóa ĐBSCL bao gồm vùng đồng bằng rộng lớn tây Nam bộ,
là đòa bàn sinh sống của người Việt, Khơme, Chăm và Hoa. Hiện tại, ĐBSCL có hơn
1,3 triệu người Khmer sinh sống tập trung phần lớn ở 4 tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bạc Liêu và An Giang. Đây là vùng đất mới khai thác, nhiều nơi như ở U Minh,
Đồng Tháp Mười còn sình lầy, rừng rậm, đất đai còn bò nhiễm phèn, mặn, nguồn
tài ngyên thủy sản phong phú, nhiều nơi cư dân còn thưa thớt. Tiểu vùng sông
Đồng Nai bao gồm đất đai được tạo nên bởi lưu vực con sông này, là vùng đất đã
được con người đến sinh sống và khai thác sớm hơn cả, làng xóm khá trù phú,
ngoài làm ruộng nước, cư dân còn làm vườn, trồng cấy các cây đặc sản. Đô
thò vùng này hình thành sớm, nhất là dọc các trục lộ giao thông. Các hình thức
sinh hoạt văn hoá thể hiện tính chất quá độ giữa văn hóa người Việt miền trung
với người Việt ở ĐBSCL. Tiểu vùng văn hóa Sài Gòn – Gia Đònh là trung tâm văn
hóa của cả Nam bộ, cũng như đây là dạng văn hóa đặc thù của cư dân đô thò.

Chính những điều kiện tự nhiên và xã hội nêu trên đã quy
đònh tính cách của người dân Nam bộ.

15


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

1.1.3. Tâm lý, tính cách người Nam bộ:
Giao lưu văn hoá luôn gắn liền với tình cảm cộng đồng. Nhưng trước khi nói đến tính
cách của người Nam bộ trước tiên cần làm rõ nguồn gốc và thành phần dân cư Nam bộ.
Nếu thiên nhiên ở đây vừa giàu có vừa hoang dã thì con người tới đây cũng là con người
tứ xứ. Thời khai hoang mở đất, họ đến vì mang những tội đồ bò nhà nước phát vãng vào
đây. Không ít người là dân lưu tán vì đói nghèo phải rời bỏ quê hương xứ sở đi tìm đất

nương thân. Số ít trong họ là các lưu quan, những kẻ giàu có nuôi hoài bão làm giàu,
chiêu mộ người nghèo đi tìm đất khai phá, làm ăn. Không như như những người Việt tiền
bối từ Bắc vào Trung bộ thường di dân theo từng làng xóm, dòng họ, vào nơi đất mới
chừng nào vẫn giữ truyền thống quê hương xưa, từ việc đặt tên làng, tên xã đến các lề
tục mang đi từ quê cha, đất tổ; những người tới đất Nam bộ thường là là đi riêng lẻ từng
cá nhân, ra đi làrứt bỏ những lề tục xưa cũ, nhất là đối với những người bò tội đồ mà ra
đi, vì nghèo đói mà lưu lạc. Vì thế, buổi ban đầu, dân tứ xứ, dân tứ chiếng, từng cá nhân,
từng nhóm nhỏ tập hợp lại, đùm bọc, nương tựa nhau để trụ lại nơi đất mới lạ lẫm, đầy thử
thách này. (Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Ngô Đức Thònh, NXB Trẻ).

Nhưng dẫu sao họ vẫn mang về đây dù là ít ỏi những cái mà
họ từng có từ một truyền thống nào đó mà họ từng xuất thân.
Tính cách nổi tiếng của người dân Nam bộ đó là phóng khoáng:
“trọng nghóa khinh tài” (Trònh Hoài Đức); “dám làm ăn lớn”(Lê Quý Đôn);
“hiếu khách hơn bất kỳ nơi nào khác ở Châu Á” (Finlayson) và thậm chí là
“làm bao nhiêu ăn nhậu bấy nhiêu, được đến đâu hay đến đó”.
Do thiên nhiên Nam bộ ưu đãi, khí hậu ổn đònh, ít gặp thiên tai bất thường, giao thông
thuận tiện nên người dân Nam bộ rất phóng khoáng, dễ tiếp nhận hơn những ảnh hưởng
từ bên ngoài của văn hóa phương tây. Dù làm ăn dễ dãi, người

16


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

Nam bộ vẫn giữ nếp cần cù, coi trọng tính cộng đồng, yếu tố hàng xóm vẫn
đứng thứ hai trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi cư trú. Yếu tố gia tộc, họ hàng,
làng nước tương đối nhẹ nhàng trong tâm lý người Nam bộ vì thế thân phận
của người phụ nữ cũng không đến nỗi nghiệt ngã như ở vùng bắc bộ.
Lối sống trọng tình cảm chi phối tòan bộ đời sống của người dân Nam bộ.

Tâm tính thoải mái, ưa hòa thuận, chủ trương nhường nhòn khiến người dân Nam bộ
ít có ý chí phấn đấu, vươn lên để đạt được mục đích mà chỉ cốt làm sao để “vui
vẻ cả làng” là được. Với lối tư duy đơn giản, thẳng thắn, người dân Nam bộ coi
trọng sự chân thật mà ít chú ý đến việc chăm chút nhà cửa, bộ mặt mà “có
sao nói dzậy” nên họ tiếp đón người lạ bằng tính hiếu khách tuyệt đối rất đặc
biệt. Họ là những người mến khách, thông cảm, quý trọng nhau có thể nhường
cơm xẻ áo. Trong ứng xử, họ cởi mở, chan hoà dễ kết thân, dễ hoà vào với
cộng đồng mới lạ, không só diện kiểu kẻ só, không coi trọng môn đăng hộ đối.

Người Nam bộ coi nghóa khí làm đầu, kết bạn bè huynh đệ giữa những
người có nghóa khí đáng tin cậy. Họ cư xử hào hiệp, trọng nghóa khí, coi khinh
tiền tài, có thể vì nghóa khí mà xả thân mình không nuối tiếc. Người Nam bộ
thích kết thân bạn bè cùng nhau chè chén, ăn chơi xả láng ồn ào, nhưng sẵn
trong họ một cái gì đó mang năng âm điệu sâu tư. Nên trong các cuộc vui, họ
ham mê ca xướng, hát bội, cải lương, nhất là các âm điệu vọng cổ chứa chất
sầu vọng. Đó là hai mặt tâm lý của con người Nam bộ.
Tuy vậy, người Nam bộ có điểm yếu là ít có khả năng chòu đựng, không biết lo xa,
thiếu ý chí cầu tiến và không có một nếp sống có nguyên tắc, kế hoạch. Điều này ảnh
hưởng không ít tới sự phát triển kinh tế và xã hội khu vực này trong khi điều kiện tự nhiên
có quá nhiều ưu đãi như vậy. Người Nam bộ xưa là những người ít có học, và cũng không
coi trọng việc học hành là con đường tiến thân, đổi đời như người nông dân miền bắc. Bởi
vậy họ không phải là những người sống nội tâm, chuộng suy

17


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

tư mà là những người ưa hành động. Một trong những điều trăn trở hiện nay là
trình độ giáo dục của toàn bộ khu vực ĐBSCL thuộc hàng thấp nhất cả nước.

Về tính cách của người Nam bộ, tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn Văn hóa

Nam bộ, vấn đề và phát triển đã hệ thống như sau:
a. Tinh thần yêu quê hương đất nước nồng nàn, mà cao nhất là
tinh thần yêu nước rất nổi trội, nhất là trước hoạ ngoại xâm:
b. Tính bao dung, cởi mở, bộc trực, hoà đồng, khoáng đạt, tinh thần
nghóa, nhân ái, tính bình đẳng cao (ít mang tính đẳng cấp), tông trọng
phụ nữ (tôn thờ các “Tổ cô”) trong dòng họ và trong các đền thờ.
c. Năng động, sáng tạo cao, dám nghó, dám làm, thông minh, tài ứng
biến, thích ứng trong cuộc sống, dễ tiếp thu cái mới rũ bỏ cái cũ,
truyền thống lỗi thời không còn thích hợp với hoàn cảnh sống mới,
do “triết lý sống còn” nên khó lòng chấp nhận giáo điều khô cứng.

d. Tính cá nhân, tính tự do, độc lập tự chủ, ít phụ thuộc trực tiếp,
gò bó vào cộng đồng như những cư dân Bắc – Trung bộ.
e. Ý thức làm kinh tế hàng hoá, ý thức làm ăn, kinh doanh rất rõ
nét, biết tính toán, dám làm ăn lớn, mạo hiểm;
f. Tính mến khách trong quan hệ. Dù sống trong quan hệ hàng hoá,
dù chú trọng pháp lậut nhưng vẫn là một phong cách trọng nghóa
khinh tài, nghóa là trọng tình nghóa hơn tiền tài, đòa vò, đẳng cấp;
g. Đồng thời lại mang tính chất hào khí Đồng Nai, đầy bản lónh kiên cường, sẵn sàng xả
thân cứu người vì nghóa lớn với khí phách hiên nganh chiến đấu chống giặc ngoại xâm,
chống bất công tàn bạo và trước những thử thách khốc liệt của thiên nhiên.

18


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

h. Ít mang tính lý luận hàn lâm mà mang tính thực tế thực dụng;

i. Văn hóa vùng đất này cũng mang tính văn nghệ, nhất là nghệ
thuật cải lương mang nỗi niềm những người lao động nhớ về cố hương
với ý thức thẩm mỹ sân khấu “phải có ca nhạc và điệu bộ”.
Nhưng bên cạnh đó, người dân Nam bộ cũng có những hạn chế mang tính
đặc trưng của vùng văn hóa nông nghiệp sông nước, kênh rạch. Đó là tư duy lý
luận và văn hóa bác học kém phát triển. Vốn có tư duy thiết thực, đề cao chữ
“làm”, khinh thường lý luận (lý luận suông) nhưng lại đồng nhất lý luận khoa học
công nghệ. Thiếu lý luận khoa học thì không thể có bước phát triển nhảy vọt và
vững chắc. Trình độ học vấn qua đào tạo còn thấp. Do ở cùng đất mới dễ kiếm
sống, lại khó khăn trong việc mở trường lớp, những cư dân đến đây vốn cũng ít
học nên trình độ học vấn của vùng rất hạn chế, hiểu biết phần nhiều nhờ vào
kinh nghiệm. Tuy vấn đề này được khắc phục theo thời gian nhung hậu quả còn
năng nề, nhất là trước yêu cầu hiện đại hóa đất nước.
1.1.4. Sự tương đồng và khác biệt của văn hóa Nam bộ trong tương quan với

hệ thống văn hóa Việt Nam:
Với tư cách là một bộ phận của văn hóa Việt Nam, văn hóa dân gian Nam
bộ có những nét tương đồng với cái chung nhưng vẫn có những cái khác biệt rõ
nét, “vùng có những sắc thái khó lẫn, vừa rất riêng mà vẫn giữ được tính thống
nhất của văn hóa Việt Nam”. Sự tương đồng và khác biệt đó phải được xem xét
một cách vừa tổng quát vừa chi tiết làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình
phát thanh phù hợp với đối tượng thính giả của vùng văn hóa này.

Nền văn minh lúa nước chi phối toàn bộ nếp sống, nếp nghó của người dân
Việt Nam của cả hai vùng Nam bắc. Đó là một lối sống cộng đồng, làng xã mang tính tự
trò cao, con người trọng tình cảm, sống nhân nghóa, ưa sự tế nhò, ý tứ và

19



Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

coi trọng sự hòa thuận. Đặc tính coi trọng danh dự gia tộc, sự cố kết thắm thiết với mảnh đất
quê hương hoặc việc cá nhân không có điều kiện để bộc lộ cảm xúc, ý kiến của vùng
Nam bộ không còn sâu đậm như so với vùng bắc bộ. Cho nên vấn đề dư luận xã hội đối
với người dân miền nam cũng có phần nhẹ nhàng hơn.

Có thể nói không đâu như ở đây, thiên nhiên đã “ùa” vào văn học, nghệ thuật
và để lại dấu ấn khó phai mờ. Nếu ở vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, cái ghi đậm dấu
ấn là những huyền thoại, thần thoại, truyền thuyết lòch sử gắn với nguồn gốc dân tộc và
các triều đại, nhân vật lòch sử, thì với vùng đất mới này cái không khí lòch sử ấy không
còn nữa, mà thế giới tự nhiên với cả hai mặt vừa quyến rũ vừa đe doạ của nó đã là
những mẩu đề chính của truyện cổ và thơ ca dân gian. Thậm chi trong những truyện như
truyện Ba Phi, trong các câu ca dao về tình yêu thì khung cảnh thiên nhiên giàu có vẫn là
cái nền, vẫn là dòng chảy chính mang những nỗi niềm tâm sự, những quan hệ giữa con
người. ( Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Ngô Đức Thònh, Viện nghiên
cứu văn hóa dân gian).

Như đã nói ở trên, điều kiện tự nhiên quy đònh tính cách của người Nam bộ.
Sự ưu đãi của thiên nhiên khiến người dân nơi đây có nếp sống tự do, phóng
khóang thậm chí tương đối dễ dãi không quen với nếp sống có quy tắc. Người dân
có khuynh hướng tự hài lòng với cuộc sống bên ngoài và khả năng học hỏi, tiếp
nhận thêm các giá trò văn hóa, tinh thần từ các vùng khác rất nhanh chóng. Bản
chất tốt một cách tự nhiên khiến người dân nơi đây ít có khả năng phân tích hay
tìm hiểu thêm thông tin đồng thời cũng khiến họ dễ quên những điều vừa được
nghe. Đây chính là một trở ngại không nhỏ cho Đài TNVN trong việc thực hiện các
chức năng báo chí của mình trên vùng đất này.

Trong cuốn Văn hóa Dân gian người Việt ở Nam bộ, NXB Khoa học Xã hội,
1992, nhóm tác giả đã rút ra một số kết luận ban đầu về các đặc điểm có tính

chất chi phối đối với quá trình vận động của nền văn hóa Nam bộ. Đó là:

20


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

+ Cởi mở trong giao lưu, nhạy bén với cái mới – đó là đặc tính
văn hóa trội của người dân Nam bộ.
+ Văn hóa dân gian người Việt ở Nam bộ thấm nhuần một tinh
thần dân chủ, bình đẳng khá đậm đà.
+ Nhân nghóa, bao dung nhưng rạch ròi, quyết liệt – một cách
thế ứng xử mang tính nhân văn nổi bật.
+ Thiết thực, giản dò và không chòu gò bó trong những khuôn
mẫu phong kiến cứng nhắc.
1.2. Mấy vấn đề văn hoá Nam bộ và Đài Tiếng Nói Việt Nam :
1.2.1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của báo chí đối với việc

bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Trong bài nói chuyện tại hội nghò văn hóa toàn quốc, Chủ tòch Hồ Chí Minh
đã nói: “Phải làm thế nào cho văn hóa sâu vào tâm lý của quốc dân, nghóa là
văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải
làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình. Văn hóa phải làm thế
nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già tới trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng
hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng.”

Đảng ta rất chú trọng đến lónh vực văn hoá, coi văn hoá là một “mặt trận” hết sức
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Ngay từ khi chưa giành được chính quyền, trong thời kỳ
cách mạng còn chòu sự đàn áp dữ dội, Đảng đã phát động những cuộc đấu tranh rộng
rãi trên mặt trận văn hoá chống lại chính sách ngu dân và nô dòch hết sức thâm độc

của bọn phát xít và bọn thực dân. Với Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng đã
khẳng đònh: “Có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận,
việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả”.

21


Văn hóa Nam bộ trên sóng phát thanh của Đài Tiếng Nói Việt Nam (Khu vực Nam bộ)

Tại Đại hội Văn hoá toàn quốc tháng 7/1948, Tổng bí thư Trường Chinh lại
khẳng đònh “Văn hoá dân chủ mới Việt Nam phải gồm ba tính chất Dân tộc –
Khoa học – Đại chúng”. Báo cáo chính trò tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
lao động Việt Nam, Chủ tòch Hồ Chí Minh lại tiếp tục nhấn mạnh phương châm
này. Đại hội Đảng lần thứ V, tiếp tục phương hướng của Đại hội Đảng lần thứ
IV đã đề ra: “Xây dựng nền văn hoá mới với nội dung xã hội chủ nghóa và
tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc.”

Đến Đại hội VI của Đảng (1986) ra nghò quyết: “Xây dựng một nền
văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghóa đậm đà bản sắc dân tộc”
Văn kiện Hội nghò Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục khẳng đònh: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội”. Mục tiêu của đất nước là xây dựng một văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Đó là bản sắc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội. Nghò quyết Hội nghò
lần này cũng đã tổng kết: “ Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô,
về nội dung và hình thức, về in, phát hành, truyền dẫn ngày càng phát huy vai trò quan
trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và
quốc tế được thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ
đông đảo quần chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành
về nghiệp vụ.”


Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam cũn ghi rõ: “Công tác văn hóa thông tin có nhiều đóng góp tích cực
trong việc động viên toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế – xã
hội. Các cơ quan và phương tiện thông tinh đại chúng đã tích cực tuyên truyền
đường lối đổi mới của Đảng, động viên và cổ vũ các nhân tố tích cực, đấu
tranh chống các mặt tiêu cực và các tệ nạn xã hội, khơi dậy và phát huy
truyền thống nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau trong những khi hoạn nạn, thiên tai…”

22


×