Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá vai trò của liệu pháp oxy cao áp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não tại Bệnh viện Quân y 17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.37 KB, 9 trang )

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP OXY CAO ÁP TRONG
HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 17
Nguyễn Văn Quốc1, Đặng Phúc Đức2, Nguyễn Văn Ngọc1,
Huỳnh Minh Thắng1, Phan Thị Huệ1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy cao áp trong cải thiện chức năng thần kinh ở
bệnh nhân (BN) đột quỵ thiếu máu não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập
trên 85 BN được chẩn đoán là đột quỵ thiếu máu não, chia BN làm hai nhóm, nhóm 1 (52 BN)
được điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu oxy cao áp (Hyperbaric oxygen therapy- HBOT),
nhóm 2 (33 BN) chỉ điều trị thuốc đơn thuần. Các đặc điểm lâm sàng được đánh giá dựa trên
thang điểm đánh giá đột quỵ của Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIHSS) ở thời điểm
lúc nhập viện và sau 14 ngày. Kết quả: Điểm trung bình NIHSS, nhóm 1: lúc nhập viện là
9,04 ± 5,06 điểm, sau 14 ngày nhập viện giảm xuống còn 3,13 ± 5,55 điểm; nhóm 2 lúc nhập
viện là 9,18 ± 5,39 điểm, sau 14 ngày là 6,57 ± 5,68 điểm. Đặc điểm lâm sàng theo thang điểm
NIHSS ở nhóm 1 được cải thiện tốt hơn ở nhóm 2 (p = 0,01). Các triệu chứng không mong muốn
khi HBOT: đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%, lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2%. Kết luận:
Nhóm điều trị bằng thuốc kết hợp với HBOT điểm trung bình NIHSS cải thiện hơn so với nhóm
chỉ điều trị đơn thuần bằng thuốc.
* Từ khóa: Liệu pháp oxy cao áp; Đột quỵ thiếu máu não.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ được xác định là một khiếm
khuyết thần kinh đột ngột có nguồn gốc
mạch máu não và thuộc nhóm các
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và
tàn tật trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc, tử
vong cũng như tỷ lệ khuyết tật của căn
bệnh này cao, để lại một gánh nặng rất


lớn cho xã hội, gia đình và con người. Đột
quỵ được chia thành đột quỵ thiếu máu
não và xuất huyết não, trong đó, đột quỵ
thiếu máu chiếm khoảng 87%. Hiện nay,

liệu pháp điều trị đột quỵ chủ yếu đặt
stent và nong mạch, thuốc tan huyết khối,
điều trị phẫu thuật, thuốc bảo vệ thần
kinh, ổn định áp lực nội sọ và phục hồi
chức năng [4]. Do phương pháp điều trị
sẵn còn hạn chế, việc đưa chiến lược
điều trị mới để cải thiện kết quả thương
tổn thần kinh lâu dài sau đột quỵ là cần
thiết. Phương pháp HBOT, một điều trị
không xâm lấn, từ lâu đã được áp dụng
phổ biến trong điều trị đột quỵ từ năm 1960
và đã được chứng minh là một chiến lược
điều trị an toàn và có hiệu quả.

1. Bệnh viện Quân y 17
2. Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Văn Quốc ()
Ngày nhận bài: 07/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/02/2020
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020

61


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
Ở Việt Nam, từ năm 1991 Bệnh viện

Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện
Quân y 175 đưa vào nghiên cứu, ứng
dụng HBOT và đến năm 2001 phương
pháp này mới được đưa vào các cơ sở y
tế trong cả nước để điều trị và hỗ trợ điều
trị rất nhiều chứng bệnh, trong đó điều trị
đột quỵ não đạt hiệu quả cao. Nhiều
nghiên cứu trước đây đã chứng minh
HBOT có thể tăng cường oxy não và có
nhiều tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh
khác thông qua các cơ chế sinh lý, sinh
hóa và trao đổi chất khác nhau [4]. Do đó,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm:
Đánh giá hiệu quả của HBOT trong cải
thiện chức năng thần kinh ở BN đột quỵ
thiếu máu não và khảo sát tác dụng
không mong muốn của HBOT.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- 85 BN mắc đột quỵ thiếu máu não
được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nội
Thần kinh Bệnh viện Quân y 17 từ tháng
1/2018 - 6/2019.
* Tiểu chuẩn lựa chọn: BN mắc đột
quỵ được chẩn đoán dựa trên định nghĩa
đột quỵ của WHO 1970, sau đó được tiến
hành chụp cắt lớp vi tính để xác định là
thể thiếu máu não.
* Tiêu chuẩn loại trừ: Điểm Glasgow <

14, rối loạn chức năng nhận thức nghiêm
trọng, chứng sợ kín, rối loạn co giật hoặc
đang bị động kinh, các bệnh phổi (hen
suyễn hoạt động, bệnh phổi tắc nghẽn
mãn tính nghiêm trọng, tiền sử của tràn
khí màng phổi tự phát), tiền sử suy tim
nặng với phân suất tống máu thất trái
dưới 30%; các bệnh tim mạch (đau thắt
ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim
62

trong vòng 3 tháng), viêm xoang, viêm tai
giữa cấp tính hoặc tổn thương tai lớn.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu
bệnh chứng.
* Phương pháp phân nhóm: Đối tượng
nghiên cứu được chia thành 2 nhóm:
nhóm 1 (52 BN) là nhóm được điều trị
bằng thuốc kết hợp với HBOT; nhóm 2
(33 BN) là nhóm chỉ điều trị bằng thuốc.
* Quy trình nghiên cứu:
- Tại thời điểm kiểm tra đầu tiên (T0):
Tiến hành trong 3 ngày nhập viện. Dữ liệu
thu thập gồm tuổi, giới, các đặc điểm lâm
sàng và thang điểm NIHSS. Đánh giá mức
độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS:
nhẹ < 5 điểm, trung bình 5 - 15 điểm,
nặng 16 - 20 điểm, và rất nặng 21 - 42 điểm.
Sau đó, tất cả BN được điều trị bằng

thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, nhóm statin,
dinh dưỡng não, cân bằng dịch điện giải
và thuốc điều trị các bệnh kèm theo, quá
trình dùng thuốc liên tục đến ngày thứ 14
ở tất cả BN tham gia nghiên cứu.
Tại thời điểm ngày thứ 4 sau nhập
viện, BN được chia thành 2 nhóm.
- Quy trình HBOT: Điều trị bằng máy
HBOT thuộc model oxcab MO-13 với liệu
trình áp suất 2,5 ATA, oxy tính khiết 100%,
thời gian điều trị 60 phút (bao gồm thời
gian giải nén), số lần điều trị 10 ngày liên
tục từ ngày thứ 3 - 13 sau khi nhập viện.
Tại thời điểm sau 14 ngày nhập viện (T1):
BN đột quỵ thiếu máu não ở cả 2 nhóm
được đánh giá lại các triệu chứng chủ
quan và thang điểm NIHSS.
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS
phiên bản 20.0. Tất cả các thử nghiệm
thống kê có ý nghĩa ở mức p < 0,05.


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Đặc điểm BN về tuổi và giới.
Tổng

Yếu tố đánh giá

Giới tính


Tuổi

Nhóm 1

Nhóm 2

n

%

n

%

n

%

Nam

56

65,9

32

61,5

24


72,7

Nữ

49

34,1

20

38,5

9

27,3

< 50

7

8,2

3

5,8

4

12,1


≥ 50

78

91,8

49

94,2

29

87,9

Trung bình

66,85 ± 13,79

68,54 ± 13,46

68,54 ± 13,46

p

0,352

0,423
0,157


Tỷ lệ BN đột quỵ thiếu máu não ở nam giới chiếm 65,9%, cao gấp 1,93 lần so với
BN là nữ giới (34,1%). Các nghiên cứu chỉ ra nam giới bị đột quỵ thiếu máu não nhiều
hơn nữ giới là do nam có nhiều yếu tố nguy cơ cao hơn nữ (ví dụ: thói quen uống
rượu, hút thuốc lá…). Tỷ lệ nam/nữ có thể khác nhau ở mỗi nghiên cứu, nhưng nói
chung, nam nhiều hơn nữ gấp 1,5 - 2 lần [2].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu máu não là
66,85 ± 13,79; phần lớn tập trung ở nhóm tuổi ≥ 50 (91,8%), tuổi < 50 chỉ chiếm 8,2%
(bảng 1). Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến kết luận, đột quỵ não
tăng dần theo lứa tuổi và tăng rõ rệt sau 50 tuổi, tập trung nhiều nhất 50 - 70 tuổi. Theo
thống kê của WHO và ADA, tuổi cao là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ. Nhóm tuổi từ 75 - 84
bị đột quỵ nhiều gấp 25 lần tuổi 45 - 54. Người già mắc bệnh nhiều nhất, sau đó đến
tuổi trung niên và giảm dần ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Lứa tuổi hay bị bệnh nhiều nhất
gặp từ 50 - 70 tuổi bao gồm cả chảy máu và thiếu máu não. Tuổi càng lớn, bệnh mạch
máu não càng tăng nhiều, trước hết là xơ vữa động mạch. Tuổi càng lớn càng tích tụ
nhiều yếu tố nguy cơ. Theo Nguyễn Văn Chương, tuổi trung bình của BN đột quỵ thiếu
máu não cao hơn ở nhóm BN đột quỵ chảy máu não [2].
Bảng 2: Các triệu chứng lâm sàng khi nhập viện.
Triệu chứng

Tổng

Nhóm 1

Nhóm 2

p

n

%


n

%

n

%

Đau đầu

43

50,6

27

48,1

18

54,5

0,658

Chóng mặt

14

16,5


8

15,4

6

18,2

0,770

Buồn nôn, nôn

8

9,4

5

9,6

3

9,1

0,734

Tê nửa người

31


36,5

20

38,5

11

33,3

0,653

Liệt nửa người

81

95,3

49

94,2

32

97,0

1,000

Liệt dây VII


78

91,8

47

90,4

31

93,9

0,701

Rối loạn ngôn ngữ

52

61,2

31

56,6

21

63,6

0,820


Rối loạn ý thức

13

15,3

9

17,3

4

12,1

0,758

63


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
Đặc điểm lâm sàng BN thiếu máu não tại thời điểm nhập viện có triệu chứng
thường gặp là liệt nửa người và liệt dây VII (lần lượt 95,3% và 91,8%), tiếp đến là rối
loạn ngôn ngữ và đau đầu (61,2% và 50,6%), ít gặp hơn là rối loạn cảm giác tê nửa
người (35,5%), chóng mặt (16,5%), buồn nôn, nôn (9,4%). Nghiên cứu loại trừ những
BN có rối loạn ý thức nặng nên tỷ lệ rối loạn ý thức chỉ có 15,3%, chủ yếu là rối loạn ý
thức nhẹ (tiền hôn mê) như lú lẫn. Các triệu chứng lâm sàng giữa 2 nhóm nghiên cứu
không có sự khác biệt (p > 0,05). Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiện và CS
(2018) [3], các dấu hiệu lâm sàng BN đột quỵ thiếu máu não trong 6 giờ đầu là liệt nửa
người (95,5%), liệt dây VII (91,0%), rối loạn ngôn ngữ (70,9%), rối loạn ý thức (68,9%),

đau đầu (26,9%), chóng mặt (11,9%), buồn nôn, nôn (8,2%), tê nửa người (18,7%).
Trong khi đó, nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1] trên 108 BN tại Viện Y học
biển Việt Nam cho kết quả lúc vào viện thấy 75,0% BN có triệu chứng đau đầu, 71,4%
chóng mặt, 13,8% buồn nôn, nôn và 44,4% có rối loạn cảm giác (tê bì).
Bảng 3: Các triệu chứng lâm sàng sau 14 ngày nhập viện.
Triệu chứng

Tổng

Nhóm 1

Nhóm 2

p

n

%

n

%

n

%

Đau đầu

10


11,8

3

5,8

7

21,2

0,042

Chóng mặt

3

3,5

0

0,0

3

9,1

0,055

Buồn nôn, nôn


0

0,0

0

0,0

0

0,0

-

Tê nửa người

14

16,5

5

9,6

9

27,3

0,040


Liệt nửa người

52

61,2

26

50,0

26

78,8

0,012

Liệt dây VII

51

60,0

24

46,2

27

81,8


0,010

Rối loạn ngôn ngữ

25

29,4

9

17,3

16

48,5

0,030

Rối loạn ý thức

5

5,9

1

1,9

4


12,1

0,072

Sau 14 ngày nhập viện (bảng 3), triệu chứng đau đầu ở nhóm 1 từ 48,1% giảm
xuống 5,8%, trong khi nhóm 2 từ 54,5% giảm xuống 21,1%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Cảm giác tê nửa người ở nhóm 1 từ 38,5% giảm xuống còn 9,6%,
ở nhóm 2 từ 33,3% xuống 27,3%, sự khác biệt sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Triệu chứng liệt nửa người và liệt dây VII ở nhóm 1 từ 94,2% và
90,4% giảm xuống 50,0% và 46,2%, ở nhóm 2 là 97,0% và 93,9% giảm xuống 78,8%
và 81,8%, sự khác biệt giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05). Triệu chứng rối loạn ngôn ngữ cho kết quả tương tự. Các triệu chứng
chóng mặt, rối loạn ý thức đều giảm giữa 2 nhóm sau 14 ngày nhập viện, tuy nhiên
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Riêng triệu chứng nôn và
buồn nôn, sau 14 ngày nhập viện, không còn BN nào có biểu hiện trên cả 2 nhóm.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và CS [1], sau 12 - 15 đợt HBOT, không còn
BN nào đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn và chỉ 1,9% BN còn cảm giác tê bì (so với
trước lúc HBOT 44,4%).
64


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
Bảng 4: Điểm trung bình NIHSS lúc nhập viện và sau 14 ngày nhập viện.
Thời điểm quan sát

Tổng

Nhóm 1


Nhóm 2

p

Lúc nhập viện

9,09 ± 5,61

9,18 ± 5,39

9,04 ± 5,06

0,902

Sau 14 ngày nhập viện

4,54 ± 4.81

3,13 ± 3.55

6,57 ± 5,68

0,010

Trong nghiên cứu của chúng tôi, lúc nhập viện điểm NIHSS trung bình là 9,09 ±
5,61, nhóm 1: 9,18 ± 5,39, nhóm 2: 9,04 ± 5,06 (bảng 4). Phân bố mức độ nặng lâm
sàng theo thang điểm NIHSS; nhẹ 16,5%, vừa 70,6%, nặng 9,4% và rất nặng 3,5%
(biểu đồ 1). Không có sự khác biệt về điểm trung bình NIHSS và mức độ nghiêm trọng
đột quỵ theo NIHSS giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Nghiên cứu của Nguyễn Minh
Hiện và CS (2018) [3] trên 134 BN đột quỵ thiếu máu não cấp từ tháng 7/2016 - 7/2017

tại Trung tâm Đột quỵ não, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 kết quả cho thấy điểm
NIHSS trung bình lúc nhập viện là 17,27 ± 6,8, cao hơn nhiều so với nghiên cứu của
chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên cứu của chúng tôi đã loại trừ những BN nặng,
điểm Glasgow < 14 điểm. Theo kết quả nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013) [5],
thang điểm NIHSS lúc nhập viện là 8,536 ± 3,62 ở nhóm điều trị và 8,716 ± 4,11 ở
nhóm chứng.

Biểu đồ 1: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS lúc nhập viện.
Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1 điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm xuống
3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 là 9,18 ± 5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4). Như vậy,
sau 14 ngày điều trị điểm trung bình theo thang điểm NIHSS ở nhóm 1 cải thiện đáng
kể hơn ở nhóm 2, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm
trọng đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập viện, nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5%
và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%;
ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa: 66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%;
sau 14 ngày nhập viện nhẹ: 36,4%, vừa: 54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1%
(biểu đồ 1 và biểu đồ 2). Mức độ nặng trên lâm sàng ở nhóm 1 cải thiện tốt hơn ở
nhóm 2 (p = 0,014).
65


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc

Biểu đồ 2: Mức độ nghiêm trọng đột quỵ theo NIHSS sau 14 ngày nhập viện.
Sau 14 ngày nhập viện, ở nhóm 1
điểm NIHSS trung bình 9,04 ± 5,06 giảm
xuống 3,13 ± 5,55, ở nhóm 2 từ 9,18 ±
5,39 giảm xuống 6,57 ± 5,68 (bảng 4).
Như vậy, sau 14 ngày điều trị NIHSS trung
bình ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với

nhóm 2, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05). Về mức độ nghiêm trọng
đột quỵ theo NIHSS, ở nhóm 1 lúc nhập
viện: nhẹ: 13,5%, vừa: 73,1%, nặng: 11,5%
và rất nặng: 1,9%; sau 14 ngày nhập viện,
nhẹ: 69,2%, vừa: 28,8% và nặng: 1,9%.
Ở nhóm 2 lúc nhập viện, nhẹ: 21,2%, vừa:
66,7%, nặng: 9,4% và rất nặng: 3,5%;
sau 14 ngày nhập viện, nhẹ: 36,4%, vừa:
54,5%, nặng: 3,0% và rất nặng: 6,1%.
Sự cải thiện về mức độ nặng lâm sàng ở
nhóm 1 tốt hơn ở nhóm 2 với p = 0,014.
Nghiên cứu của Trần Thị Minh Châu và
CS (2017) [1] trên 108 BN đột quỵ thiếu
máu não trong vòng 30 ngày, BN được
chia làm 2 nhóm, nhóm HBOT đơn thuần
(36 BN) và nhóm HBOT kết hợp với nội
khoa (72 BN). Đánh giá kết quả theo
thang điểm Barthel, sau 12 - 15 ngày điều
trị, tỷ lệ BN có hồi phục ở cả 2 nhóm là
77,77%.
66

Nighoghossian N và CS (1995) [10]
nghiên cứu trên BN bị tắc động mạch não
giữa và vào viện trong 24 giờ kể từ khi
khởi phát, được chọn ngẫu nhiên, 34 BN
được điều trị tích cực bằng HBOT và
17 BN điều trị giả (không khí). Các BN
điều trị bằng HBOT được tiếp xúc hàng

ngày đến 40 phút ở 1,5 ATA và thực hiện
10 lần điều trị. Kết quả sau một đợt điều
trị đầy đủ (3 BN tử vong trong quá trình
nghiên cứu ở nhóm chứng), điểm trung
bình của nhóm HBOT tốt hơn đáng kể
theo thang điểm Orgogozo (p < 0,02).
Nghiên cứu của Hong L. Yu S 2008 [7]
trên 86 BN nội trú trẻ bị đột quỵ thiếu máu
cục bộ, kết quả điểm thiếu hụt chức năng
thần kinh theo thang điển NIHSS đã được
cải thiện 70% ở nhóm HBOT và 42,6%
ở nhóm chứng. Hiệu quả điều trị trong
nhóm HBOT là 81,4% so với 35,9% ở
nhóm chứng và tỷ lệ cải thiện là 93,0% so
với 60,5% có lợi cho nhóm HBOT.
Nghiên cứu của Efrati S. và CS (2013)
[5] trên 74 BN (15 trường hợp bị loại trừ)
được ngẫu nhiên đưa vào nhóm điều trị
HBOT và nhóm chứng. BN nhóm điều trị
được đánh giá 2 lần: Thời điểm ban đầu


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
và sau 40 buổi HBOT. BN ở nhóm chứng
được đánh giá 3 lần: Thời điểm ban đầu,
sau thời gian kiểm soát 2 tháng không
điều trị và sau 2 tháng tiếp theo là 40 buổi
HBOT (5 ngày/1 tuần), mỗi lần 90 phút,
oxy 100% ở 2 ATA. Kết quả ở nhóm
HBOT điểm NIHSS trước điều trị 8,53 ±

3,62; sau điều trị 5,52 ± 3,59 (có cải thiện)
có ý nghĩa (p < 0,0001). Ở nhóm chứng,
điểm NIHSS lúc đầu 8,71 ± 4,11, sau 2
tháng không điều trị là 8,34 ± 4,25 điểm
và sau 40 buổi điều trị tiếp theo 5,85 ±
3,44. Như vậy, kết quả cho thấy HBOT
giúp cải thiện đáng kể về thần kinh ở BN
sau đột quỵ, ngay cả ở giai đoạn muộn
mãn tính.
Trong một nghiên cứu thực nghiệm
lâm sàng trên chuột của Lee Y. S. và CS
(2013) [9], các tác giả gây đột quỵ thiếu
máu não ở chuột đực Sprague-Dawley
trưởng thành có trọng lượng 270 - 320g
và chia thành các nhóm trị liệu HBOT ở
các mức độ khác nhau. Đánh giá kết quả
bằng cách sử dụng bài kiểm tra hành vi
mNSS (modified Neurological Severity Score điểm nghiêm trọng về thần kinh đã được
sửa đổi). Kết quả cho thấy điểm mNSS
của chuột cải thiện đáng kể khi HBOT được
lặp đi lặp lại lâu hơn (p < 0,001). Sau khi
nhuộm TTC (triphenyltetrazolium clorua),

vùng thiếu máu cục bộ trên mô não chuột
giảm đáng kể ở nhóm HBOT sau 3 tuần.
Điều này cho thấy HBOT có thể làm giảm
chấn thương do thiếu máu não ở chuột.
Hội nghị Chuyên đề về Y học oxy cao
áp Toronto 2008 tập trung thảo luận
nghiên cứu về chỉ định đối với HBOT

trong các bệnh lý thần kinh. Bốn chủ đề
được đặc biệt đề cập: Đột quỵ thiếu máu
cục bộ cấp tính, chấn thương sọ não cấp
tính, hoại tử phóng xạ não, và đau nửa
đầu. Trên cơ sở đó, Helms A. và CS
(2011) [6] đã công bố tổng hợp 4 thử
nghiệm đa trung tâm được thiết kế và đề
xuất để đánh giá hiệu quả của HBOT cho
các chỉ định này. Trong đó, có một nghiên
cứu đánh giá hiệu quả của HBOT trên BN
đột quỵ thiếu máu não cấp tính với liều
được FDA phê duyệt là 2,4 ATA trong 90
phút. Trên lâm sàng, các khiếm khuyết
thần kinh được đánh giá lặp lại bằng
thang điểm NIHSS, thang điểm mRS
(modifeld Rankin Scale), chỉ số Barthel và
thang điểm GOS (Glasgow outcome
scale). Kết quả cho thấy, với liều này, có
sự cải thiện chức năng thần kinh ở những
người đột quỵ thiếu máu não cấp, và trên
hình ảnh MRI cũng cho thấy khu vực
tranh tối tranh sáng (bán ảnh) cũng có sự
hồi phục đáng kể hơn.

Bảng 5: Tác dụng không mong muốn khi HBOT.
Triệu chứng

Hết sau số lượt điều trị

Có tác dụng phụ


SD

Min

Max

Đau tai

32 (61,5%)

2,69

1,03

1

5

Tức ngực khó thở

18 (34,6%)

1,41

0,665

1

3


Lo lắng

17 (32,7%)

2,00

0,832

1

4

Mệt mỏi

11 (21,2%)

1,41

0,503

1

2

Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi nhận
67


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc

Qua khảo sát 52 BN đột quỵ thiếu máu
não được điều trị HBOT, chúng tôi ghi
nhận tác dụng phụ của HBOT (bảng 5).
Trong đó, 61,5% khi làm HBOT có biểu
hiện đau tai, chứng tỏ đau tai là tác dụng
phụ thường gặp nhất. Tuy nhiên, triệu
chứng này biến mất sau lần trị liệu từ 2 - 6
(trung bình 2,69 ± 1,03). Triệu chứng tức
ngực khó thở gặp ở 34,6% BN khi HBOT,
triệu chứng này chỉ kéo dài khoảng 1 - 3
lượt điều trị rồi hết, trung bình 1,41 ± 0,67.
Triệu chứng lo lắng, khoảng 32,6% có
biểu hiện trong 2,0 ± 0,83 lượt điều trị và
biến mất sau đợt thứ 1 - 4. Thấp nhất là
triệu chứng mệt mỏi, 21,2% BN cảm thấy
mệt mỏi hơn sau HBOT, trung bình xuất
hiện trong 1,41 ± 0,50 lượt điều trị và biến
mất sau 1 - 2 lượt điều trị.
Nghiên cứu của Imai (2006) [8] cho
kết quả 22% BN HBOT có tác dụng
không mong muốn, trong đó triệu chứng
thường gặp nhất là đau tai. Như vậy, tác
dụng phụ trong nghiên cứu của các tác
giả thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của
chúng tôi. Sự khác biệt này là do nghiên
cứu chúng tôi sử dụng liều HBOT ở mức
áp lực là 2,5 ATA, trong khi đó nghiên
cứu của Imai chỉ sử dụng áp lực ở mức
1,5 ATA. Rõ ràng áp lực càng cao thì hiệu
quả điều trị càng cao, và tác dụng không

mong muốn có thể sẽ nhiều hơn.
Trong nghiên cứu của Efrati S. và CS
(2013) [5] trên 74 BN làm HBOT, chỉ 6 BN
có biểu hiện ù tai, sau nghỉ ngơi vài ngày
các triệu chứng biết mất. Có 2 BN xuất
hiện cơn co giật nhẹ, tỉnh táo trong suốt
nghiên cứu, 2 BN này đã được sử dụng
thuốc động kinh trước đó.
68

KẾT LUẬN
Triệu chứng lâm sàng đau đầu, tê nửa
người, liệt nửa người, liệt dây VII và rối
loạn ngôn ngữ ở nhóm HBOT kết hợp với
thuốc cải thiện hơn so với nhóm chỉ điều
trị đơn thuần bằng thuốc sau 14 ngày
nhập viện (p < 0,05).
Sau 14 ngày nhập viện, điểm trung
bình của thang điểm NIHSS ở nhóm
HBOT kết hợp với thuốc cải thiện hơn so
với nhóm chỉ điều trị đơn thuần bằng
thuốc (p = 0,01).
Các triệu chứng không mong muốn:
đau tai 61,5%, tức ngực, khó thở 34,6%,
lo lắng 32,7% và mệt mỏi 21,2% tổng số
BN tham gia HBOT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Minh Châu, Nguyễn Trường
Sơn. Kết quả điều trị phục hồi chức năng
bằng oxy cao áp tại Viện Y học biển Việt

Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất
về y học dưới nước và oxy cao áp. Nhà xuất
bản Y học. Hà Nội. 2017, tr.154-161.
2. Nguyễn Văn Chương. Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và điều trị đột quỵ não: Những
số liệu tại Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện
Quân y 103, kỷ yếu các công trình nghiên cứu
khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ môn Khoa Thần kinh học, Học viện Quân y - Bệnh
viện Quân y 103. 2010, tr.1-13.
3. Nguyễn Minh Hiện và CS. Nghiên cứu
mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng và hình
ảnh cắt lớp vi tinh ở BN đột quỵ thiếu máu
não cấp trong 6 giờ đầu kể từ khi khởi phát.
Tạp chí Y-Dược học Quân sự. 2018, 4, tr.84-92.
4. Bennett M. H. et al. Hyperbaric oxygen
therapy for acute ischaemic stroke. Cochrane
Database Syst Rev. 2014, CD004954 (11).


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc
5. Efrati S. et al. Hyperbaric oxygen
induces late neuroplasticity in post stroke
patients-randomized, prospective trial. PLoS
One. 2013, 8, pp. e53716 (10).
6. Helms A. et al. Hyperbaric oxygen for
neurologic
indications-action
plan
for
multicenter trials in: Stroke, traumatic brain

injury, radiation encephalopathy & status
migrainosus. Undersea Hyperb Med, 2011, 8
(5), pp.309-319
7. Hong L., Yu S. Efficacy of hyperbaric
oxygen in treatment of ischemic stroke among
young patients. Journal of Rehabilitation
Medicine. 2008, Suppl. 46-110.

8. Imai K, Mori T, Izumoto H., Takabatake N.,
KuniedaT., Watanabe M. Hyperbaric oxygen
combined with intravenous edaravone for
treatment of acute embolicstroke: A pilot
clinical trial. Neurologia Medico-Chirurgica.
2006, 46 (8), pp.373-378.
9. Lee Y. S. et al. Long course hyperbaric
oxygen stimulates neurogenesis and attenuates
inflammation after ischemic stroke. Mediators
Inflamm. 2013, 13, pp.512978.
10. Nighoghossian N., Trouillas M.,
Adeleine P., Salord F. Hyperbaric oxygen in
the treatment of acute ischaemic stroke. A
double-blind pilot study. Stroke. 1995, 26,
pp.1369-1372.

69



×