Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Chính sách đối ngoại của liên bang nga với việt nam từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.09 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ QUẾ

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
ĐỐI VỚI VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ QUẾ

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA ĐỐI VỚI
VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ THỤY TRANG

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Dưới


sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thụy Trang. Các kết quả trong luận văn đều có
nguồn gốc rõ ràng, tin cậy.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017
Tác giả luận văn

Dương Thị Quế


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của rất
nhiều người. Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo hướng dẫn - TS. Vũ Thụy Trang. Bên cạnh sự nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo
tôi trong suốt quá trình tôi hoàn thành luận văn, cô cũng là người đã cho tôi những
bài học và kinh nghiệm quý báu về phương pháp tiếp cận các vấn đề một cách mạch
lạc, khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy, cô giảng viên đã tham
gia giảng dạy của khoa Khoa học chính trị - Đại học KHXH&NV Hà Nội trong thời
gian tôi là học viên cao học tại trường. Nhờ các thầy, cô tôi có thể trau dồi, tích lũy
kiến thức để hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Thượng Đình, Thư viện Viện Nghiên
cứu châu Âu và Thư viện Quốc Gia đã cung cấp những tài liệu quan trọng, quý báu
để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những người thân
yêu đã luôn sát cánh, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận
văn này.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017
Học viên

Dương Thị Quế



MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................ 2
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................................. 8
6. Đóng góp của luận văn.................................................................................. 9
7. Kết cấu của luận văn..................................................................................... 9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN
BANG NGA NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI............................................... 10
1.1. Tổng quan chung về chính sách đối ngoại................................................. 10
1.1.1. Một số khái niệm về chính sách đối ngoại.............................................. 10
1.1.2. Đặc điểm của chính sách đối ngoại........................................................ 11
1.2. Các nhân tố tác động đến sự hình thành chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI.............................................................. 17
1.2.1. Bối cảnh thế giới và khu vực................................................................... 17
1.2.2. Bối cảnh trong nước............................................................................... 19
1.3. Khái quát những ƣu tiên chính trong chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.......................................................... 22

CHƢƠNG 2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA ĐÔI VỚI
VIỆT NAM VÀ QUAN HỆ VIỆT - NGA TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY................31
2.1. Vị thế của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga......31
2.2. Những định hƣớng cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
đối với Việt Nam từ năm 2001 đến nay............................................................ 34

2.3. Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga từ năm 2001 đến nay......................37

2.3.1. Giai đoạn 2001 – 2008........................................................................... 37
2.3.2. Giai đoạn 2008 – 2012........................................................................... 45
2.3.3. Giai đoạn 2012 đến nay.......................................................................... 53


CHƢƠNG 3. MỘT SỐ DỰ BÁO VỀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN
BANG NGA VÀ CHIẾN LƢỢC ĐỐI NGOẠI CỦA NGA ĐỐI VỚI VIỆT
NAM THỜI GIAN TỚI........................................................................................ 62
3.1. Đánh giá chung về việc thực hiện chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga đối với Việt Nam từ năm 2001 đến nay..................................................... 62
3.1.1.Thành tựu................................................................................................ 62
3.1.2.Hạn chế.................................................................................................... 65
3.2. Một số dự báo về xu hƣớng phát triển của Liên bang Nga.....................68
3.3. Chiến lƣợc đối ngoại của Nga đối với Việt Nam thời gian tới và triển
vọng quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga......................................................... 74
KẾT LUẬN............................................................................................................ 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 85


Từ viết tắt
APEC

ASEAN

ASEM

EAS

EU


EAEU

FTA

GDP

NATO

OSCE

WTO


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới trong thế kỷ XXI chứng kiến nhiều biến động phức tạp và khó
lường. Toàn cầu hóa, khu vực hóa tiếp tục là xu hướng chính, chi phối các quan hệ
quốc tế và tác động tới tất cả các nước. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn luôn là
mục tiêu hướng tới của mọi quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, cục diện thế giới cũng
còn tồn tại nhiều bất ổn, căng thẳng, xung đột dưới nhiều hình thức. Chủ nghĩa
khủng bố, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa phát xít mới,
nạn buôn lậu vũ khí, các tổ chức mafia và tội phạm quốc tế đang ngày càng gia tăng
trên phạm vi toàn cầu và luôn đe dọa nền hòa bình của toàn nhân loại.
Trước những diễn biến tình hình thế giới, mỗi quốc gia buộc phải hợp tác với
nhau nhằm ứng phó với các thách thức toàn cầu cũng như phải có những điều chỉnh
chiến lược và đường hướng phát triển của đất nước mình sao cho phù hợp với tình
hình quốc tế và đáp ứng được lợi ích quốc gia.

Trong thời gian qua, Liên bang Nga đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện về
kinh tế, chính trị và xã hội, tăng cường hội nhập quốc tế và khu vực, hướng tới mục
tiêu xây dựng một nước Nga hùng mạnh, vị thế của Nga ngày càng gia tăng trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay nước Nga đang đứng trước những khó khăn,
thách thức, kể từ sau khủng Ucraina, lệnh cấm vận và các đòn trừng phạt của Mỹ và
các nước phương Tây, sự sụt giảm giá năng lượng, dòng vốn chảy ra nước ngoài,
đồng rúp mất giá… đã trở thành mối đe dọa lớn đối với sự phát triển bền vững của
nước Nga, buộc nước Nga phải đề ra các giải pháp nhằm khắc phục tình hình kinh
tế, ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ các lợi ích của mình. Một trong những nhiệm
vụ quan trọng của chính quyền Nga hiện nay đó là bảo vệ vị thế của nước Nga trên
thế giới và khu vực. Trong thông điệp Liên bang của Tổng thống Nga những năm
gần đây đã đề cập đến mục đích quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Nga phù
hợp với bối cảnh quốc tế và khu vực mới. Trọng tâm trong chiến lược đối ngoại của
nước Nga là thắt chặt quan hệ với các nước thuộc khu vực hậu Xô Viết, các nước

2


châu Âu, Mỹ La tinh, châu Á – Thái Bình Dương trong đó chú trọng hợp tác với
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, ASEAN…
Trong ASEAN có thể nói, Việt Nam là nước có quan hệ truyền thống tốt đẹp
với Liên bang Nga. Việt Nam là nước có vị trí địa chính trị, địa chiến lược quan
trọng tại Đông Nam Á, là nước có nhiều đóng góp trong việc giải quyết các vấn đề
khu vực. Với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam
đang không ngừng củng cố và phát triển các mối quan hệ truyền thống tốt đẹp với
các nước trong khu vực, các cường quốc thế giới, đặc biệt coi trọng mối quan hệ với
Liên bang Nga.
Hiện nay, mối quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga đang ngày càng được củng
cố và tăng cường. Qua thời gian, mối quan hệ ấy ngày càng phát triển và nâng cao
về chất, từ quan hệ đối tác chiến lược (năm 2001) trở thành quan hệ đối tác chiến

lược toàn diện (năm 2012). Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga đối với Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay có ý nghĩa quan trọng
đối với Việt Nam trong việc nhận diện được vị thế và vai trò của Việt Nam đối với
Nga để từ đó xây dựng phương hướng và đường lối đối ngoại đất nước một cách
phù hợp, cũng như đánh giá được tầm quan trọng của Việt Nam đối với Nga ở khu
vực Đông Nam Á nói riêng cũng như khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói
chung. Do vậy, tác giả xin chọn đề tài: “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
đối với Việt Nam từ năm 2001 đến nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu trong nước
Hiện nay, nghiên cứu về nước Nga, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
đối với Việt Nam đã thu hút được sự chú ý của nhiều học giả trong nước. Có thể
nhận thấy, các nghiên cứu tập trung theo các hướng sau:
Thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu về Nga và chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga: Cuốn sách “Liên bang Nga quan hệ kinh tế đối ngoại trong

3


những năm cải cách thị trường” của tác giả Nguyễn Quang Thuấn, xuất bản năm
1999; Cuốn sách “Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI” của tác giả Côchetcốp, xuất
bản năm 2004; Cuốn sách “Liên bang Nga trong tiến trình gia nhập WTO” do tác
giả Nguyễn Quang Thuấn chủ biên, xuất bản năm 2006; Cuốn sách “Nước Nga trên
trường quốc tế: Hôm qua, hôm nay và ngày mai” xuất bản năm 2006 và cuốn sách
“Nước Nga hậu Xô viết qua những biến thiên của lịch sử” xuất bản năm 2009, của
tác giả Hà Mỹ Hương; Cuốn sách “Liên bang Nga trên con đường phát triển những
năm đầu thế kỷ XXI” xuất bản năm 2008 và cuốn “Liên bang Nga hai thập niên đầu
thế kỷ XXI” xuất bản năm 2011của tác giả Nguyễn An Hà; Luận văn thạc sĩ “Chính
sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn 1991 đến
nay)” của tác giả Vũ Thụy Trang, Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, năm 2007; Luận văn thạc sĩ “Chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga dưới thời Tổng thống Putin” của tác giả Nguyễn Hải Vân Anh, Khoa Quốc tế
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 2008; Luận văn thạc sĩ
“Chính sách châu Á – Thái Bình Dương của Liên bang Nga từ năm 2000 đến nay”
của tác giả Trần Thanh Tùng, Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, năm 2014; Cuốn sách “Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong
giai đoạn hiện nay” do tác giả Nguyễn Thị Quế chủ biên, xuất bản năm 2015.
Bên cạnh các đầu sách và luận văn, còn có rất nhiều các bài viết, công trình
nghiên cứu về nước Nga và chính sách đối ngoại của Liên bang Nga trên các tạp chí
như: bài viết “Những động thái mới trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga”
của tác giả Nguyễn An Hà, số 7/2007 trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu; bài viết
“Nga tiếp tục chính sách đối ngoại cứng rắn trong quan hệ với phương Tây?” của
tác giả Bùi Huy Khoát, số 5/2008 trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu; bài viết “Điều
chỉnh chiến lược phát triển của Liên bang Nga sau khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu” của tác giả Nguyễn An Hà, số 7/2010 trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu;
bài viết “Chiến lược đối ngoại của Nga điều chỉnh theo hướng nào?” của tác giả
Nguyễn Nhâm, trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 2/2011; bài viết “Sự điều chỉnh
chiến lược của Nga ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương (tiếp theo)” của tác giả

4


Nguyễn Cảnh Toàn, đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 11/2012; bài viết
“Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga hiện nay – những thách thức và hướng
triển khai” của tác giả Chúc Bá Tuyên, đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số
11/2012; bài viết “Nét mới trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống Medvedev (2008-2012)” của tác giả Lê Minh Giang, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, số 10/2012; bài viết “Chính sách của Liên bang Nga tại biển
Đông: kế thừa hay thay đổi” của tác giả Huỳnh Hồ Đại Nghĩa, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, số 1/2013; bài viết “Học thuyết Quân sự mới của Liên bang

Nga năm 2014 và một số tác động” của tác giả Nguyễn An Hà, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, số 12/2014; bài viết “Tình hình ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương và chính sách của Nga trong khu vực này” của tác giả K. A. Kokarev, đăng
trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4/2014; bài viết ““Thế chân vạc” địa chiến
lược Mỹ - Trung – Nga trong thế kỷ XXI” của tác giả Thái Văn Long, đăng trên tạp
chí Lý luận Chính trị, số 11/2014; bài viết “Về chính sách đối ngoại của Nga trong
năm 2016” đăng ngày 8/1/2016 trên Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt
Nam; bài viết “Chính sách “Hướng Đông” của Nga có ý nghĩa gì đối với Đông
Nam Á” đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, ngày
26/1/2016; bài viết “Triển khai chính sách châu Á – Thái Bình Dương trong chiến
lược cân bằng Á – Âu của Liên bang Nga” của tác giả Phan Thị Thu Dung, đăng
trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 6/2016.
Nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ Nga – ASEAN, quan hệ Việt
Nam – Liên bang Nga: Cuốn sách “Quan hệ Nga – ASEAN trong bối cảnh quốc tế
mới” xuất bản năm 2007 và cuốn sách “Hướng tới quan hệ hợp tác toàn diện Nga –
ASEAN trong những thập niên đầu thế kỷ XXI” xuất bản năm 2007 của tác giả
Nguyễn Quang Thuấn; Cuốn sách “Các giải pháp phát triển quan hệ Nga – ASEAN
trong bối cảnh quốc tế mới” của tác giả Nguyễn Quang Thuấn, xuất bản năm 2009;
Cuốn sách “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên bang Nga: hiện trạng và triển vọng”
do tác giả Bùi Huy Khoát chủ biên, xuất bản năm 1995; Cuốn sách “Quan hệ Việt –
Nga trong bối cảnh quốc tế mới” do Võ Đại Lược, Lê Bộ Lĩnh đồng chủ biên, xuất

5


bản năm 2005; Cuốn sách “Hợp tác chiến lược Việt – Nga: những quan điểm, thực
trạng và triển vọng” của hai tác giả Vũ Đình Hòe và Nguyễn Hoàng Giáp, xuất bản
năm 2008.
Ngoài các cuốn sách nghiên cứu trên, nhiều tác giả đã nghiên cứu mối quan
hệ Việt - Nga cũng như chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam

với các bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu như:
Tạp chí nghiên cứu Châu Âu với các bài viết: “Quan hệ đối tác chiến lược
Việt – Nga (Từ 3/2001 đến nay)” của tác giả Đinh Công Tuấn, đăng trên số 3/2010;
bài viết “Nâng quan hệ Việt – Nga lên tầm đối tác chiến lược toàn diện” của tác giả
Lê Thanh Vạn – Lê Quỳnh Nga, đăng trên số 9/2012; bài viết “Quan hệ Việt – Nga:
một mô hình của quan hệ truyền thống và đối tác chiến lược” của tác giả Lê Quỳnh
Nga, đăng số 4/2010; hay tác giả Nguyễn An Hà với bài viết “Quan hệ đối tác chiến
lược Việt Nam – Liên bang Nga: Tiềm năng và những bước phát triển mới” đăng
trên số 6/2011; tác giả Phạm Quỳnh Hương với bài viết “Quan hệ thương mại song
phương Việt – Nga: thực trạng và triển vọng” đăng trên số 1/2010… Bên cạnh đó
còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí uy tín khác như: tạp chí nghiên cứu Quốc tế
với bài viết “Liên bang Nga – Việt Nam: tiến tới đối tác chiến lược toàn diện” của
hai tác giả Voronhin A.S và Lê Thanh Vạn, đăng trên số 3/2012; Tạp chí Cộng Sản
với các bài viết “Nhìn lại những bước tiến trong quan hệ Việt Nam – Nga những
năm gần đây” số 854/2013 của tác giả Hà Mỹ Hương, đăng trên số 854/2013; bài
viết “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Liên bang Nga trong bối cảnh quốc tế
mới” của tác giả Nguyễn Quang Thuấn, đăng trên số 19/2006.
Những công trình nghiên cứu ngoài nước
Ngoài những công trình nghiên cứu về Nga của các học giả trong nước, còn
có rất nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
của các học giả nước ngoài như công trình “The Current Foreign Policy of Russia”
(Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga hiện nay) của tác giả Tatiana
Zakaurtseva; Công trình “Russia and the New World Disorder” (Nga và rối loạn thế

6


giới mới) của tác giả Dr. Bobo Lo xuất bản năm 2015; Công trình: “The New
Russian Foreign Policy Concept: Evolving Continuity” (Khái niệm chính sách đối
ngoại mới của Nga: sự phát triển liên tục), tác giả Andrew Monaghan, được đăng

tải trên Chatham House, The Royal Institute of International Affairs, April 2013;
công trình “Russian Foreign Policy: Continuity in Change” (Chính sách đối ngoại
của Nga: tiếp tục thay đổi) của nhóm tác giả Andrew C. Kuchins và Igor A. Zevelev
xuất bản năm 2012 trên tạp chí The Washington Quarterly, Vol.35, No.1; bài viết
“Russia‟s „New‟ Tools for Confronting the West: Continuity and Innovation in
Moscow‟s Exercise of Power” (Các công cụ mới của Nga đối đầu với phương Tây:
Liên tục và đổi mới trong cách thể hiện quyền lực của Matxcova) của tác giả Keir
Giles đăng tải trên Chatham House, The Royal Institute of International Affairs
ngày 21/3/2016…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên tập trung nghiên
cứu vào các vấn đề sau:
- Hệ thống hóa về sự hình thành và phát triển chính sách đối ngoại của mỗi
nước sau chiến tranh lạnh, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của mỗi bên cho phù
hợp với lợi ích và tình hình thế giới hiện nay, những xu hướng vận động, phát triển
trong quan hệ hợp tác Liên bang Nga – Việt Nam.
-

So sánh quan hệ hợp tác Nga – Việt với một số đối tác của cả hai nước và

những yếu tố tác động đến quan hệ hợp tác Nga – Việt.
Nhận định về quan hệ Nga – Việt hiện nay, đề cập đến những kết
quả đạt
được và những hạn chế còn tồn tại đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng
cường thúc đẩy hợp tác toàn diện quan hệ Liên bang Nga – Việt Nam trong thời
gian tới.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát, chuyên sâu
về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam giai đoạn 2001 đến
nay. Do đó, nghiên cứu của luận văn được hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ

7



hơn chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam, gợi mở những vấn đề trong
quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga để từ đó giúp xác định vị trí của Việt Nam trong
chính sách đối ngoại của Liên bang Nga.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga đối với Việt Nam từ năm 2001 đến nay.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau:
-

Nghiên cứu, phân tích vị thế của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của

Liên bang Nga, những nội dung chính trong chính sách đối ngoại của Nga đối với
Việt Nam từ năm 2001 đến nay.
Nghiên cứu, phân tích mối quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga qua
từng
giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
-

Đánh giá việc thực hiện chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam từ

năm 2001 đến nay.
Nhận định một số dự báo về xu hướng phát triển của Liên bang Nga,
chiến
lược đối ngoại của Nga đối với Việt Nam và triển vọng quan hệ Việt Nam – Liên
bang Nga trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Từ năm 2001 đến nay.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu truyền thống như
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, logic, so sánh, phương pháp định tính,


8


định lượng… nhằm làm sáng tỏ vấn đề, rút ra những nhận định có tính tổng hợp,
khái quát phục vụ nghiên cứu chi tiết, xác thực.
6.

Đóng góp của luận văn

Luận văn đã tổng hợp, hệ thống hóa nguồn tư liệu, trong đó có tư
liệu gốc,
được cập nhật có liên quan đến đề tài và có thể làm tài liệu tham khảo sau này.
-

Luận văn tập trung phân tích, làm sáng tỏ chính sách đối ngoại của Liên

bang Nga đối với Việt Nam từ 2001 đến nay, đưa ra một số đánh giá chung về chính
sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam thời gian qua. Ngoài ra, luận

văn cũng đưa ra một số dự báo về xu hướng phát triển của Liên bang Nga, chiến
lược đối ngoại của Nga đối với Việt Nam trong thời gian tới và triển vọng quan hệ
Việt Nam – Liên bang Nga.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung nghiên cứu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu
tham khảo gồm 3 chương, 9 tiết.

9


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN
BANG NGA NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
1.1. Tổng quan chung về chính sách đối ngoại
1.1.1. Một số khái niệm về chính sách đối ngoại
Ngày nay, chính sách đối ngoại là một trong những thuật ngữ không còn xa
lạ với những ai quan tâm đến tình hình thế giới, đến quan hệ giữa các quốc gia trong
môi trường chính trị thế giới. Chính sách đối ngoại thường được nhìn nhận là một
trong những hoạt động của nhà nước, hướng ra bên ngoài. Trong đó, bên ngoài ở
đây vừa là môi trường quốc tế - một tiến trình phức tạp và khó nắm bắt với những
sự kiện diễn ra liên tục, thay đổi không ngừng – vừa là mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ
lớn nhỏ trên thế giới với các chủ thể khác nhau tham gia vào quan hệ quốc tế và
luôn tác động qua lại lẫn nhau. Hay nói một cách khác, chính sách đối ngoại là
những chính sách, hoạt động của nhà nước đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ
khác trên thế giới, nó còn xa lạ và ít nhận được sự quan tâm của nhân dân trong
nước so với các hoạt động đối nội của nhà nước có tác động trực tiếp đến đời sống
của nhân dân và diễn ra hàng ngày, thường xuyên.
Có thể nói, chính sách đối ngoại là một lĩnh vực rộng lớn và là đối tượng
nghiên cứu của rất nhiều học giả cũng như các trường phái khác nhau. Mặc dù hiện
nay có rất nhiều quan điểm về chính sách đối ngoại, song tựu chung lại có thể thấy,
các chủ thể “khơi mào” cho những hành động liên quan tới chính sách đối ngoại

và những chủ thể là mục tiêu cho các hành động đó thường là quốc gia (dù không
phải lúc nào cũng vậy). Do đó, có thể nhận định, khi nói tới chính sách đối ngoại
tức là nói tới những hành động, chiến lược và quyết định nhằm vào các chủ thể bên
ngoài phạm vi của một hệ thống chính trị nội địa (ví dụ, một nhà nước) [132].
Cho đến nay, đã có rất nhiều những nhận định khác nhau về khái niệm chính
sách đối ngoại. Theo học giả Breuning, chính sách đối ngoại là “tổng thể các chính
sách và các mối tương tác với môi trường bên ngoài biên giới quốc gia”, “chính

10


sách đối ngoại của một quốc gia bao quát nhiều vấn đề khác nhau, từ an ninh
truyền thống và các lĩnh vực kinh tế tới những vấn đề môi trường, năng lượng, viện
trợ nước ngoài, di cư và quyền con người”[132] còn các học giả Kaarbo, Lantis,
Beasley cho rằng: “mục tiêu định hướng ban đầu của chính sách đó là mở rộng tầm
ảnh hưởng của quốc gia, điều này phân biệt chính sách đối ngoại với chính sách
đối nội” [132]. Theo từ điển thuật ngữ ngoại giao, chính sách đối ngoại là “chủ
trương, chiến lược, kế hoạch và các biện pháp thực hiện cụ thể do một quốc giai đề
ra, có liên quan đến các mối quan hệ quốc tế mà quốc gia đó thiết lập với quốc gia
và chủ thể khác nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích quốc gia mình” [7, tr.37].
Từ đây có thể thấy, chính sách đối ngoại là một lĩnh vực rộng lớn, được nhìn
nhận dưới nhiều góc cạnh khác nhau như: lĩnh vực đối ngoại (đối ngoại của Đảng,
Nhà nước), nội dung đối ngoại (chủ trương, quan điểm, đường lối), môi trường bên
ngoài, phương thức và nghệ thuật triển khai chính sách đối ngoại (các hàn động ứng
phó, đối sách)… Vì thế khi xem xét, nghiên cứu cần triển khai theo những chiều
cạnh khác nhau để có cái nhìn bao quát và tổng thể hơn.
1.1.2. Đặc điểm của chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại của một quốc gia là tập hợp những chiến lược mà quốc
gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức quốc
tế, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội nhằm đạt được

những mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Chính sách đối
ngoại của một quốc gia thường được hoạch định bởi bộ máy chính phủ cao nhất của
quốc gia. Mỗi quốc gia khác nhau, mỗi thể chế chính trị khác nhau lại có cách cấu
tạo bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại khác nhau.
Tuy nhiên, về bản chất, chính sách đối ngoại là sự tương tác ra bên ngoài
phạm vi của quốc gia, do đó chính sách đối ngoại có những đặc điểm chung trong
hầu hết các chính sách đối ngoại của các quốc gia trên thế giới hiện nay.

11


Thứ nhất, chính sách đối ngoại là sự phản ánh chức năng đối ngoại của một
nhà nước, mà chức năng đối ngoại là sự tiếp tục và mở rộng của chức năng đối nội.
Điều này liên quan đến mục tiêu của chính sách đối ngoại, bởi dù chính sách đối
ngoại do chủ thể hay quốc gia nào hoạch định thì mục tiêu chung nhất mà nó hướng
tới đó là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, phát triển kinh tế, tối đa hóa lợi ích
hay khẳng định vị thế quốc gia… và những mục tiêu này luôn luôn song trùng với
mục tiêu của chính sách đối nội.
Sẽ không có trường hợp mục tiêu đối nội và mục tiêu đối ngoại của một quốc
gia tách rời nhau, chúng chỉ khác nhau thông qua hình thức, con đường và phạm vi
thực hiện: chính sách đối nội thực hiện thông qua tuyên truyền, vận động, khuyến
khích công dân trong lãnh thổ; còn chính sách đối ngoại thực hiện thông qua con
đường hợp tác, cạnh tranh, xung đột, hoặc thậm chí chiến tranh với các chủ thể bên
ngoài lãnh thổ quốc gia.
Thứ hai, chính sách đối ngoại chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong nước và
bối cảnh chính trị quốc tế bên ngoài. Đây không chỉ là đặc điểm mà nó còn là một
trong những nhân tố có tác động đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của một
quốc gia. Tham chiếu từ mục đích của chính sách đối ngoại mà các chủ thể hoạch
định chính sách nhìn nhận tình hình, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước để có
cái nhìn đa chiều, xác định đâu là những yếu tố có ảnh hưởng đến chính sách đối

ngoại của quốc gia, từ đó có những quyết định phù hợp với mục tiêu mà chính sách
đối ngoại đó hướng tới nhằm tối đa hóa lợi ích mà quốc gia đạt được. Do đó, các
quốc gia đều phải chú ý đến những yếu tố về kinh tế, văn hóa, dân tộc, nền tảng
chính trị cũng như các biến đổi về kinh tế, chính trị quốc tế trong quá trình xây dựng
chính sách đối ngoại.
Thứ ba, chính sách đối ngoại là sản phẩm đa chủ thể. Trong một quốc gia,
không có một cơ quan riêng lẻ nào có thể tạo lập được chính sách đối ngoại, mà nó
là sản phẩm tổng hợp của các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, của nhà nước.
Điều này được thể hiện qua hầu hết các thể chế chính trị mà các quốc gia trên thế

12


giới áp dụng hiện nay trong quá trình vận hành bộ máy chính trị đất nước. Sau nữa,
các chính sách đối ngoại của một quốc gia còn phải nhận được sự đồng tình, ý kiến
đóng góp của toàn dân cũng như các nhân vật chính trị, các chính khách.
Thứ tư, chính sách đối ngoại có tính giai đoạn. Điều này thể hiện qua bản
chất của chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại là một hoạt động chính trị quốc
tế rất nhạy cảm đồng thời nó là sự tiếp tục các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa,
chính trị trong nước, do đó chính sách đối ngoại không thể tách rời độc lập với các
yếu tố trên. Vì vậy, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại là một đặc trưng rất rõ nét.
Khi theo dõi diễn biến của các chính sách đối ngoại có thể thấy trong đó là những
sự ưu tiên thứ bậc các vấn đề trong quan hệ quốc tế của một quốc gia. Sự ưu tiên
này thay đổi theo những biến động trong nước trong những điều kiện nhất định. Mặt
khác, các yếu tố bên ngoài, những thay đổi trong môi trường quốc cũng tác động
mạnh vào chính sách đối ngoại của một nước. Do vậy, chính sách đối ngoại luôn có
sự điều chỉnh theo những biến động của môi trường trong nước và quốc tế, do đó,
chính sách đối ngoại có đặc tính giai đoạn.
Thứ năm, chính sách đối ngoại có tính kế thừa. Quá trình phát triển của các
quan hệ quốc tế luôn diễn ra trong một chuỗi các gia đoạn, theo đó mà các chính

sách đối ngoại được hoạch định. Tính kế thừa trong chính sách đối ngoại của một
quốc gia thể hiện ở chỗ trong một chính sách, nhà nước phải phát huy được những
ưu điểm, những mặt mạnh, cũng như cần phải tránh không lặp lại những thất bại, sơ
hở của những đường lối, chính sách đối ngoại trước đó gặp phải.
Thứ sáu, chính sách đối ngoại có tính sáng tạo. Chính sách đối ngoại là sản
phẩm kết hợp giữa hai yếu tố: yếu tố vật chất khách quan và năng lực cụ thể của con
người. Nhưng tựu chung lại, chính sách đối ngoại là sản phẩm chủ quan của con
người khi nhận thức các sự kiện có tính chất vật chất khách quan, phát triển có quy
luật, do đó nó mang tính sáng tạo. Bên cạnh đó, tính sáng tạo của chính sách đối
ngoại còn được thể hiện ở khả năng dự báo xu hướng phát triển của các sự kiện
chính trị trong nước và quốc tế; dự báo được khuynh hướng tất yếu của các hoạt

13


động đối ngoại đã được trù liệu và được nhà nước điều khiển trong những thời điểm
nhất định [6, tr.257-259].
*
Các nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách đối ngoại
quốc gia
Mỗi quốc gia trên thế giới, dù lâu đời hay mới thành lập, đều có nhu cầu
khẳng định bản sắc của đất nước trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại của mỗi
quốc gia tác động, ảnh hưởng đến quốc gia đó và nó thể hiện rõ vai trò với quốc gia
của mình trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh đặc biệt như: khi có quan hệ căng
thẳng với một quốc gia nào đó, thậm chí có nguy cơ xảy ra chiến tranh; khi chủ
quyền quốc gia hay toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa dưới nhiều hình thức khác nhau; sự
thống nhất quốc gia hay khối đoàn kết dân tộc có nguy cơ bị phá vỡ…
Từ đây có thể thấy, tác động chủ yếu của chính sách đối ngoại với mỗi quốc
gia là bảo vệ lợi ích của mình trên trường quốc tế, chống lại mọi thế lực làm tổn hại
hoặc đe dọa đến lợi ích của mình. Do vậy, khi hoạch định một chính sách đối ngoại

quốc gia, các nhà hoạch định luôn phải chú ý đến những nhân tố chủ chốt quyết
định chính sách đối ngoại của một quốc gia:
Chủ quyền quốc gia. Đây được coi là nhân tố có ảnh hưởng cốt lõi trong quá
trình hoạch định chính sách đối ngoại của quốc gia, bởi quốc gia sẽ không tồn tại
nếu không có chủ quyền. Chủ quyền quốc gia là một đặc tính của quốc gia, đã là
quốc gia thì phải có chủ quyền. Theo đó, chủ quyền quốc gia là quyền tự chủ của
một nhà nước độc lập thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của mình [20,
tr. 54].
Chủ quyền quốc gia được phát sinh cùng với sự hình thành của nhà nước,
vận động cùng với quá trình phát triển quốc gia và nhà nước sinh ra là để bảo đảm
chủ quyền quốc gia. Ngược lại, điều kiện quan trọng để quốc gia có chủ quyền thực
sự chính là một nhà nước độc lập, một nhà nước có khả năng tự mình đề ra chính
sách, tự mình thực thi các quyền và chức năng một cách tự chủ mà không chịu sự áp
chế từ bên ngoài. Với ý nghĩa đó, chủ quyền quốc gia là mục đích và giá trị thiêng

14


liêng của mọi quốc gia. Do đó, nhân tố chủ quyền quốc gia trở thành giá trị cốt lõi
trong việc hình thành chính sách đối ngoại quốc gia bởi mọi quốc gia đều theo đuổi
việc bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình trong quan hệ quốc tế.
Địa vị và lợi ích quốc gia – dân tộc. Đây được coi là điểm xuất phát và là căn
cứ chủ yếu nhất của chính sách đối ngoại của tất cả các nước trên thế giới, bởi tác
động chính của một chính sách đối ngoại đó là bảo vệ lợi ích và địa vị của chủ thể
khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Thông thường, chủ thể nào cũng có những lợi ích
của riêng nó, đối với chủ thể quốc gia, lợi ích của nó chính là lợi ích của cả dân tộc
mà nhà nước, kẻ đại diện cho dân tộc ấy phải có trách nhiệm kiếm tìm, duy trì và
phát triển các lợi ích mà người dân lập ra nó đòi hỏi. Một nhà nước và chế độ của
một quốc gia được xây dựng dựa trên những lợi ích chung và căn bản của toàn dân
tộc, do đó, nói đến lợi ích quốc gia là nói đến lợi ích của cả dân tộc.

Lợi ích quốc gia nảy sinh cùng với sự ra đời của nhà nước và có sự vận động
cùng với quá trình hình thành và phát triển quốc gia, nhà nước với chức năng đối
ngoại của mình được sinh ra là để thực hiện lợi ích quốc gia đồng thời nhà nước
cũng là đại diện quốc gia trong việc thực thi lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Ban đầu, lợi ích quốc gia được hiểu như là lý do tồn tại của một hình thức tổ chức
nhà nước nào đó, ngày nay, dưới sự ảnh hưởng của Chủ nghĩa Hiện thực, nó được
coi là một trong những lý do căn bản cho việc các quốc gia theo đuổi quyền lực
trong quan hệ quốc tế. Hay nói một cách khác, lợi ích quốc gia chính là sự cụ thể
hóa động cơ tham gia quan hệ quốc tế của một quốc gia, là sự hướng dẫn hành vi
của quốc gia trong quan hệ quốc tế và là kết quả mong đợi của sự tương tác giữa các
quốc gia. Do vậy chính sách đối ngoại của một quốc gia là sự phản ánh lợi ích của
quốc gia đó trên trường quốc tế, đồng thời cũng là công cụ bảo vệ lợi ích đó. Ngày
nay, chính sách đối ngoại của các quốc gia đều coi trọng việc nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia, coi đó là điều kiện cơ bản, quyết định việc nâng cao địa vị quốc
tế. Bảo vệ địa vị quốc gia tương xứng với trọng lượng của nước đó trên vũ đài quốc
tế là lợi ích chính đáng của bất kỳ quốc gia nào.

15


Tình hình quốc nội và thực lực quốc gia. Chính sách đối ngoại xuất phát từ
tình hình quốc nội và thực lực của mỗi quốc gia. Ở đây có thể hiểu tình hình quốc
nội và thực lực quốc gia hay còn gọi là sức mạnh tổng hợp quốc gia là một khái
niệm được dùng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, dùng để chỉ toàn bộ thực lực đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, bao gồm nhiều nhân tố cấu thành
như: lãnh thổ, dân số, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, giao thông, sức mạnh quân sự,
quan hệ đối ngoại… Xét từ sâu xa thì tình hình nội trị là cơ sở quan trọng hàng đầu
trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Chính sách đối ngoại bao giờ cũng
hướng đến việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội và chính trị quốc nội, đặc
biệt là những vấn đề cơ bản nhất, bức xúc nhất của quốc gia, có liên quan trực tiếp

đến quyền lực chính trị của giai cấp thống trị hoặc một bộ phận của giai cấp thống
trị, do đó, đối ngoại phải xuất phát từ chính trị đối nội, phục vụ cho đối nội. Điều đó
có nghĩa là thực lực quốc gia là một trong những cơ sở để hoạch định đường lối
chính sách đối ngoại. Với tất cả các quốc gia, chính sách đối ngoại không thể đề ra
một cách chủ quan mà phải xuất phát từ thực tế khách quan, trước hết là thực lực
nước đó trong tương quan so sánh với các nước trong cộng đồng quốc tế. Ngoài ra,
việc dựa vào các nguồn lực quốc gia để đề ra chính sách đối ngoại là tất yếu, song
phương thức sử dụng nguồn lực quốc gia thì không giống nhau. Căn cứ vào thực lực
quốc gia, song không coi thường các xu hướng của thế giới, đặc biệt là xu hướng
hòa bình, hợp tác và phát triển; không quá ỷ lại vào sức mạnh để giải quyết các vần
đề quốc tế, biết tạo ra những quan hệ quốc tế có lợi cho quốc gia, kết hợp sức mạnh
quốc gia – dân tộc với những điều kiện bên ngoài [27, tr.24-30].
Nhìn chung, chính sách đối ngoại của hầu hết các quốc gia đều xuất phát từ
những tiêu chí chủ quan nền tảng mang tính phổ biến như: địa vị và lợi ích quốc gia,
chế độ chính trị - xã hội, lợi ích riêng của tập đoàn cầm quyền, tình hình nội bộ của
các nước về kinh tế, chính trị, xã hội, nguồn lực tổng hợp… Vì vậy, ngoài những
yếu tố kể trên, khi quốc gia hoạch định chính sách đối ngoại còn chịu tác động từ
những nhân tố khác như: môi trường bên trong bao gồm các yếu tố kinh tế - xã hội
và các yếu tố chính trị - xã hội; môi trường xã hội bên ngoài; môi trường tự

16


nhiên bên ngoài; các yếu tố nhận thức xã hội… Tựu chung lại, mỗi quốc gia khi
hoạch định chính sách đối ngoại đều có những tiêu chí lựa chọn riêng. Dù xuất phát
từ tiêu chí nào đi chăng nữa thì các chính sách và biện pháp trong quan hệ đối ngoại
cũng được xây dựng dựa theo hai loại hình: một là dựa trên sức mạnh quốc gia, hai
là dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, chính trị, an ninh… tùy theo tính chất
của giới cầm quyền quốc gia đó và trong tương quan lực lượng trên thế giới cũng
như trong những mối quan hệ cụ thể mà loại hình nào được đề cao hơn.

1.2. Các nhân tố tác động đến sự hình thành chính sách đối ngoại của
Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI
1.2.1. Bối cảnh thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Liên Xô - Mỹ không còn,
Mỹ trở thành siêu cường duy nhất chi phối cục diện chính trị thế giới. Tuy nhiên,
bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, toàn
cầu hóa, khu vực hóa, sức mạnh kinh tế đang dần trở thành một yếu tố quyết định
đến vị thế các nước trong hệ thống quyền lực trên thế giới. Có thể nói, sự vận động
và phát triển của thế giới chịu tác động mạnh mẽ của các xu hướng: 1/Toàn cầu hóa
là một xu thế khách quan, mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực, đang lôi cuốn hầu
hết mọi quốc gia, bất luận ở trình độ phát triển nào, tham gia vào quá trình này;
2/Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới phát triển nhanh, nền kinh tế thế giới
đang trong bước chuyển sang kinh tế tri thức và xu thế này cũng không còn là vấn
đề riêng của các nước phát triển; 3/Trên bình diện an ninh – chính trị, xu thế hòa
bình, hợp tác cùng phát triển vẫn chiếm ưu thế trên bàn cờ thế giới; 4/Thế giới hiện
nay chịu sự tác động, chi phối của xu hướng đa cực hóa trong cấu trúc quyền lực thế
giới.
Về chính trị, nắm giữ vai trò điều khiển “cuộc chơi” toàn cầu, tiếp tục gia
tăng chủ nghĩa đơn phương, lấn át vai trò của Liên hợp quốc trong việc giải quyết
các công việc của thế giới như chống chủ nghĩa khủng bố, ngăn chặn phổ biến vũ
khí hạt nhân… vẫn là nước Mỹ. Bên cạnh đó, Liên bang Nga với tư cách là nước kế

17


×