Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Công bằng xã hội và những yếu tố tác động đến thực hiện công bằng xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.29 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN THỊ HOÀNG MAI

CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ NHỮNG YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN THỊ HOÀNG MAI

CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ NHỮNG YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ SỐ: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn

HÀ NỘI - 2008



MỞ ĐẦU
Chương 1 Một số vấn đề lý luận về công bằng xã hội và những yếu

tố tác động đế
1.1.

Một số vấn đề

1.2.

Vai trò của cô
nghĩa xã hội

1.3.

Những yếu tố

Chương 2 Những yếu tố tác động đến thực hiện công bằng xã hội ở

Việt Nam hiện
2.1.

Thực trạng tác
công bằng xã

2.2.

Một số giải ph


hiện công bằn
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC

DANH MỤC T


BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

CBXH:

Công bằng xã hội

CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB:

Chủ nghĩa tư bản

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

KTTT:

Kinh tế thị trường

TBCN:


Tư bản chủ nghĩa

Tr.CN:

Trước công nguyên

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bằng xã hội là khát vọng, mục tiêu phấn đấu vƣơn lên của nhân loại
từ xa xƣa đến nay. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, khoa học
công nghệ và nhu cầu nhân quyền, tiến bộ xã hội…, CBXH đã trở thành một
động lực mạnh mẽ, một nhân tố bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh
tế và của toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, hiện nay, tất cả các nƣớc đều quan tâm
thực hiện CBXH. Tuy nhiên, mỗi nƣớc lại giải quyết vấn đề này một cách
khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của quốc gia, dân tộc mình.


Việt Nam, CBXH vừa là mục tiêu vừa là động lực, một nhân tố của sự phát

triển và ổn định xã hội. Hồ Chí Minh đã xác định: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không
công bằng". Nƣớc ta là một nƣớc chậm phát triển, đi lên chủ nghĩa xã hội với một
quyết tâm hƣớng tới mục tiêu xây dựng “một xã hội dân giàu, nƣớc mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh" [8,17-18]. Mục tiêu ấy là khát vọng bao đời nay của nhân
dân ta, đồng thời cũng là lý tƣởng cao đẹp của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của

Đảng và toàn dân tộc. Mục tiêu đó đƣợc khẳng định rõ tại Đại hội X của Đảng

Cộng sản Việt Nam: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bƣớc và từng chính sách phát triển, tăng trƣởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con ngƣời" [8,77].
Việt Nam tiến hành đổi mới trong điều kiện, tình hình trong nƣớc và trên
thế giới có nhiều biến chuyển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều yếu tố mới tác động
tích cực và cả tiêu cực đến việc thực hiện CBXH. Quán triệt quan điểm của
Đảng về sự kết hợp giữa tăng trƣởng kinh tế và CBXH ngay từ đầu và trong
suốt quá trình phát triển đất nƣớc, nƣớc ta đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện CBXH, củng cố đƣợc lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi
mới. Những thành tựu quan trọng đạt đƣợc đã góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định xã hội.

1


Tuy vậy, trong quá trình đổi mới đất nƣớc, chúng ta đã vấp phải nhiều khó khăn
mới nảy sinh: khoảng cách chênh lệch giàu nghèo gia tăng nhanh, tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm, các tệ nạn xã hội… vẫn tiếp tục gây nên bức xúc về mặt
CBXH, vi phạm mục tiêu cần đạt tới của xã hội ta. Thực trạng trên khiến cho không
ít ngƣời tỏ ra băn khoăn, lo ngại. Một số ngƣời cho rằng, để giữ vững định hƣớng
XHCN cần hy sinh tăng trƣởng kinh tế để đảm bảo CBXH, hoặc kiến nghị Nhà
nƣớc phải coi xây dựng chính sách an sinh xã hội là nội dung quan trọng nhất của
CBXH,… Các ý kiến khác nhau trên đây tuy đều cho rằng cần thực hiện CBXH
nhƣng bản thân nội hàm của khái niệm CBXH lại chƣa thật thống nhất, sự phân
biệt giữa CBXH và bình đẳng xã hội chƣa rõ ràng. CBXH có vai trò gì đối với sự
nghiệp xây dựng CNXH? Thêm nữa, CBXH và tăng trƣởng kinh tế có phải là
những mục tiêu không tƣơng dung nhau hay không? Thực hiện CBXH chịu tác

động của những yếu tố nào? Những câu hỏi trên cho thấy vấn đề công bằng xã hội,
trong đó có việc tìm hiểu những yếu tố cơ bản tác động đến thực hiện CBXH

ở nƣớc ta vẫn đang là những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách cần đƣợc
làm sáng tỏ để có cơ sở định ra chính sách, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn
CBXH ở nƣớc ta hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Công bằng xã hội và
những yếu tố tác động đến thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện
nay" làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Nghiên cứu về vấn đề CBXH và các vấn đề liên quan đến việc thực hiện
CBXH là một chủ đề lớn, thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
- Các đề tài, hội thảo nghiên cứu khoa học:
Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001):
“Kết hợp tăng trƣởng kinh tế với tiến bộ và CBXH trong tiến trình CNH, HĐH,
phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta” do
GS.TS Trịnh Quốc Tuấn làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã trình bày mối quan hệ

2


giữa tăng trƣởng kinh tế với phát triển theo định hƣớng XHCN ở Việt Nam, trong
đó có mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và CBXH; mối quan hệ và những tác
động, thách thức của tiến bộ, CBXH đến tăng trƣởng kinh tế. Từ đó, đề tài khẳng
định, Việt Nam muốn phát triển nhanh và bền vững thì điểm mấu chốt phải giải
quyết đƣợc vấn đề kết hợp tăng trƣởng kinh tế với tiến bộ, CBXH.

Hội thảo khoa học "Vấn đề phân phối và phân hoá giàu nghèo trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta" của Bộ Lao
động – Thƣơng binh xã hội (2004) đã làm rõ khái niệm, cấu trúc và những

điều kiện thực hiện CBXH, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thực hiện
CBXH ở Việt Nam hiện nay.
Hội thảo khoa học quốc tế “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn
kết xã hội” của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (10/2007), trong đó vấn đề
CBXH đƣợc trình bày từ những vấn đề lý luận chung đến thực hiện CBXH ở
Việt Nam hiện nay; mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và CBXH; những
vấn đề cụ thể trong thực hiện CBXH nhƣ: chính sách lao động, tiền lƣơng,
CBXH về giáo dục, công tác xóa đói giảm nghèo, bình đẳng về giới,…
- Các luận án, luận văn có liên quan:
Luận án Tiến sĩ Triết học "Công bằng xã hội và tiến bộ xã hội" của Nguyễn
Minh Hoàn (2006) (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đề cập tới vai trò, vị trí của
CBXH vừa với tính cách là động lực vừa là thƣớc đo về mặt xã hội của tiến bộ
xã hội. Luận án cũng đã khái quát các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà
nƣớc ta trong việc thực hiện CBXH thời kỳ từ đổi mới đến nay.
Luận án Tiến sĩ Triết học “Nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội của
nhà nƣớc trong quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay”
của Nguyễn Đăng Thông (2000) (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã
tập trung trình bày vai trò của nhà nƣớc đối với sự phát triển xã hội thông qua
thực hiện chức năng xã hội của mình trên tất cả các lĩnh vực, trong đó cơ bản là
thực hiện định hƣớng XHCN đối với quá trình tăng tƣởng kinh tế.

3


- Các sách tham khảo và bài viết đăng trên tạp chí:
Sách tham khảo “Tăng trƣởng kinh tế và công bằng xã hội – một số vấn đề
lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung” (2001) do Phân viện Đà Nẵng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trƣờng Đại học Kinh tế và quản trị
kinh doanh Đà Nẵng,…, chủ biên, tập trung làm rõ mối quan hệ và đề xuất một
số giải pháp nhằm thực hiện tăng trƣởng kinh tế và CBXH ở miền Trung.


Sách tham khảo “Quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới: vấn đề và giải pháp” (2007) do TS Nguyễn Thị
Nga, chủ biên, nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế với CBXH ở
nƣớc ta trong thời kỳ đổi mới, qua đó đề ra những giải pháp góp phần hạn chế
sự bất bình đẳng trong xã hội, thực hiện CBXH.
Ngoài ra, còn có các bài tạp chí, bài báo bàn xung quanh vấn đề CBXH
nhƣ bài "Từ tƣ tƣởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa
xã hội" của GS.TS Lê Hữu Tầng (Tạp chí Triết học số 2/1993), "Công bằng
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay" của tác giả
Lƣơng Việt Hải (Tạp chí Triết học số 4/2004), “Về vai trò của nhà nƣớc đối
với việc thực hiện công bằng xã hội trong tiến trình hiện đại hóa” của tác giả
Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí Triết học số12/2002)…
Qua tìm hiểu có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề
CBXH dƣới các góc độ khác nhau. Các công trình này là những tài liệu tham
khảo quan trọng của luận văn. Tuy vậy, phần lớn các công trình trên tập trung
vào khai thác mối quan hệ giữa CBXH và tăng trƣởng kinh tế, chƣa có tài
liệu nào nghiên cứu trực tiếp những yếu tố tác động đến thực hiện CBXH ở
nƣớc ta hiện nay. Do vậy, luận văn tập trung nghiên cứu chủ đề này để góp
phần làm rõ cách thức và quá trình thực hiện CBXH ở nƣớc ta hiện nay.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ quan niệm, vai trò của việc thực hiện CBXH, những
yếu tố cơ bản tác động đến thực hiện CBXH, luận văn tập trung đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp điều tiết những yếu tố tác động đến thực
hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm về CBXH, vai trò của CBXH và những yếu tố cơ bản tác

động đến quá trình thực hiện CBXH;
-

Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của những yếu tố cơ bản đến

thực hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay;
-

Đề xuất một số giải pháp để phát huy những tác động tích cực, hạn chế

những tác động tiêu cực đến CBXH, nhằm thực hiện tốt hơn CBXH ở Việt
Nam hiện nay.
4. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về
vấn đề CBXH. Ngoài ra, luận văn cũng tham khảo, tiếp thu một số kết quả
của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về vấn đề này trong những
năm gần đây. Đặc biệt, luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn thực hiện CBXH ở nƣớc ta trong thời kỳ đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ yếu sử dụng phƣơng pháp kết
hợp giữa phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử . Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng một số phƣơng pháp cụ thể của xã hội học nhƣ thống kê, so sánh,…

5



5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những yếu tố cơ bản tác động đến thực
hiện CBXH với ba yếu tố: kinh tế, chính trị, toàn cầu hóa; Thực trạng tác
động của những yếu tố này đến thực hiện CBXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới (từ 1986 đến nay).
6. Đóng góp của luận văn
-

Khái quát những yếu tố cơ bản tác động đến thực hiện CBXH và thực

trạng tác động của những yếu tố này đến thực hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay;

-

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động của những

yếu tố tích cực, hạn chế tác động của những yếu tố tiêu cực trong thực hiện
CBXH ở nƣớc ta.
7.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu chung về vấn
đề
-

Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc


nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề có liên quan đến CBXH, thực hiện
8.

Kết cấu của luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu

tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận văn bao gồm hai chƣơng với năm tiết.

6


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ NHỮNG
YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1.1. Quan niệm về công bằng xã hội
CBXH là vấn đề đƣợc đặt ra từ lâu trong lịch sử xã hội loài ngƣời, ngay từ khi
con ngƣời ý thức đƣợc những bất công trong xã hội loài ngƣời. Do đó, nó là một
trong những vấn đề quan trọng đƣợc con ngƣời, trong mọi thời đại, quan tâm và
đƣa ra những cách giải quyết khác nhau. CBXH là một nội dung tất yếu của tiến bộ
xã hội, trở thành một trong những mục tiêu mà con ngƣời hƣớng đến thông qua
cuộc đấu tranh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Thực tiễn lịch sử xã hội loài ngƣời
cũng luôn chứng tỏ rằng, sự phát triển của xã hội luôn vận động theo hƣớng đạt đến
sự công bằng và bình đẳng ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, ở mỗi một thời kỳ lịch
sử khác nhau, nội dung của CBXH lại đƣợc hiểu khác nhau.

a. Một số quan niệm về công bằng xã hội trong lịch sử
-

Quan niệm về CBXH trong các xã hội tiền TBCN:


Vào giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy ở phƣơng Tây, cùng với sự
phát triển của lực lƣợng sản xuất, chế độ tƣ hữu xuất hiện dẫn đến sự phân chia xã
hội thành các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Các nhà nƣớc cổ đại dần dần xuất hiện,
mà ban đầu dƣới hình thức những thành bang, vốn là những thành trì do các bộ lạc
xây dựng nên với mục đích phòng thủ, sau này nó phát triển lên thành trung tâm của
nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ. Mỗi một thành bang đều có các tổ chức chính trị và
hành chính riêng, có sinh hoạt kinh tế, xã hội, phong tục tập quán riêng, có thần bảo
hộ và các nghi thức tôn giáo riêng. Việc sử dụng các công cụ bằng sắt trong sản xuất
thủ công nghiệp đã khiến cho thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, sản xuất hàng
hóa phát triển đã kích thích thƣơng nghiệp và mậu dịch hàng hải phát triển. Các
khoa học tự nhiên nhƣ thiên văn học, khí tƣợng, vật lý, toán học cũng do vậy mà
phát sinh và phát triển. Giao lƣu văn hóa với các nƣớc

7


vùng Cận Đông đã biến các thành phố ở các quốc gia cổ đại, đặc biệt là Hy Lạp,
La Mã cổ đại, trở thành các trung tâm văn minh lớn của Châu Âu thời bấy giờ.

Sự phát triển về kinh tế - xã hội nhƣ vậy làm biến đổi cơ cấu xã hội – giai
cấp và phá hủy công xã nông thôn. Trong xã hội, một lực lƣợng đông đảo
những ngƣời nô lệ đƣợc hình thành, là lực lƣợng lao động chủ yếu trong xã
hội, nhƣng họ chỉ đƣợc coi là “công cụ biết nói”, không đƣợc hƣởng một
chút quyền lợi gì. Nhà nƣớc lúc bấy giờ là nền chuyên chính tàn bạo của giai
cấp chủ nô, giai cấp thống trị trong xã hội. Bởi vậy xã hội chiếm hữu nô lệ
càng phát triển thì đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ, giữa ngƣời giàu và
ngƣời nghèo càng ngày càng gay gắt.
Việc sử dụng rộng rãi sức lao động của nô lệ là một trong những nguyên nhân
làm cho lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Nền kinh tế chiếm hữu nô lệ đã
sinh ra một đội ngũ trí thức đông đảo chuyên nghiên cứu triết học, khoa học. Tuy

vậy, đội ngũ trí thức này đều xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội, do vậy các tƣ
tƣởng của họ chủ yếu nhằm phục vụ và bảo vệ cho giai cấp chủ nô. Trong quan
niệm của hầu hết các nhà tƣ tƣởng thời kỳ cổ đại ở phƣơng Tây, công bằng và bình
đẳng xã hội bị giới hạn bởi lập trƣờng giai cấp. Theo họ, trong xã hội cần phải duy
trì các hạng ngƣời khác nhau và do đó không thể có bình đẳng hoàn toàn giữa mọi
ngƣời. Theo đó, công bằng là công bằng giữa những ngƣời trong cùng một đẳng
cấp chứ không phải giữa những ngƣời ở các đẳng cấp khác nhau.
Platon (428 – 348 Tr.CN), một trong những nhà tƣ tƣởng kiệt xuất thời cổ đại
đã có những quan điểm cụ thể về công bằng và bình đẳng xã hội. Trong hai tác
phẩm “Nhà nƣớc” và “Luật lệ”, Platon đã khẳng định không có sự bình đẳng giữa
các tầng lớp ngƣời khác nhau trong xã hội. Từ đó, ông cho rằng, cần phải duy trì
các hạng ngƣời khác nhau, thực hiện các dạng phân công lao động khác nhau nhằm
thỏa mãn các nhu cầu xã hội. Nhƣ vậy, theo Platon, trong xã hội đƣơng thời hoàn
toàn không có sự bình đẳng và điều đó là tất yếu. Tuy nhiên, trong quan niệm của
Platon, mặc dù xã hội không có sự bình đẳng nhƣng vẫn có công bằng, bởi lẽ công

8


bằng là ở chỗ mỗi hạng ngƣời dù ở địa vị xã hội nào cũng phải làm hết trách
nhiệm của mình, sống đúng tầng lớp của mình và biết đƣợc thân phận của mình.

Aritstot (384 – 322 Tr.CN), nhà triết học vĩ đại của nền văn minh Hy Lạp
cổ đại, cho rằng, công bằng là phạm trù gắn với nhà nƣớc, bởi luật pháp –
tiêu chuẩn của sự công bằng – là quy phạm điều chỉnh mọi sự giao tiếp chính
trị - xã hội. Trên cơ sở pháp luật, tùy thuộc vào sự cống hiến của mỗi ngƣời
mà họ đƣợc hƣởng thụ một cách tƣơng xứng. Với quan niệm này, Aritstot đã
hƣớng CBXH tới lĩnh vực phân phối trên cơ sở pháp luật. Tuy vậy, cũng nhƣ
Platon, do chƣa thoát khỏi lập trƣờng giai cấp của mình, Aritsot quan niệm
công bằng là sự bình đẳng giữa những ngƣời có cùng địa vị xã hội, theo đó

mỗi ngƣời phải sống đúng với địa vị xã hội của mình. Bản thân sự bất bình
đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội cũng là công bằng.
Trong xã hội phong kiến châu Âu, dƣới sự thống trị của giáo hội và nhà thờ,
các nhà tƣ tƣởng thời kỳ này hầu nhƣ không đƣa ra đƣợc một quan niệm đáng chú

ý nào về CBXH và tiến bộ xã hội. Sự vận động của xã hội và bản thân con
ngƣời sống trong xã hội đó đều đƣợc quan niệm là bị điều khiển và an bài
bởi Thƣợng đế, con ngƣời không có vai trò gì trong quá trình vận động của
xã hội. Khát vọng về CBXH trong thời kỳ này đƣợc thể hiện chủ yếu thông
qua các cuộc đấu tranh, khởi nghĩa đơn lẻ.
- Quan niệm về CBXH trong xã hội TBCN:
Bƣớc sang giai đoạn Phục Hƣng ở Châu Âu (khoảng từ cuối thế kỷ XIV –
XVIII), quan hệ sản xuất TBCN dần dần xác lập đƣợc địa vị của mình, xã hội cũng
dần thoát khỏi sự thống trị của chế độ phong kiến và những quan điểm thần học
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học thực nghiệm, nền sản xuất công nghiệp cũng có những bƣớc phát triển mới.
Các công trƣờng thủ công, hình thức sản xuất mang tính chất TBCN đầu tiên ra đời,
thay thế phƣờng hội, tập trung dần năng lực sản xuất. Bên cạnh đó, công cụ sản
xuất nông nghiệp cũng đƣợc cải tiến, đất đai canh tác đƣợc mở rộng; sản xuất,

9


trao đổi hàng hóa có những bƣớc tiến dài, phá vỡ khuôn khổ tự cung tự cấp.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, mức độ trao đổi hàng hóa
ngày càng mở rộng hơn và ở trình độ cao hơn.
Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phƣơng thức sản xuất TBCN
nhƣ một xu thế của lịch sử đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tƣ sản cùng
hệ tƣ tƣởng tƣ sản với giai cấp địa chủ phong kiến và hệ tƣ tƣởng Cơ đốc
giáo ngày càng sâu sắc. Chính mâu thuẫn đó đã thúc đẩy hàng loạt các cuộc

cách mạng tƣ sản nổ ra trên khắp lãnh thổ Châu Âu.
Những cơ sở kinh tế - xã hội này đã khiến cho nội dung của những tƣ tƣởng về
CBXH không còn bị bó hẹp trong phạm vi của những đòi hỏi về quyền bình đẳng ở
địa vị xã hội, mà đã ngày càng dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá của nền sản
xuất hàng hóa, sử dụng nó nhƣ là thƣớc đo của CBXH. Tuy nhiên, trong nền sản
xuất hàng hóa TBCN, mặc dù quan hệ trao đổi ngang giá đƣợc coi là thƣớc đo của
CBXH, nhƣng quan hệ phân phối lại lệ thuộc vào quan hệ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ
liệu sản xuất. Cho nên thƣớc đo ấy của CBXH chỉ là công bằng đối với những
ngƣời sở hữu tƣ liệu sản xuất, ngƣợc lại là sự bất công và bất bình đẳng đối với
những ngƣời chỉ sống dựa vào sức lao động của mình. Giải pháp để giải quyết vấn
đề xã hội nhằm phát triển kinh tế cũng chỉ mang tính chất nửa vời, và chỉ đƣợc
chính phủ tƣ sản xem là phƣơng tiện để duy trì sự tồn tại của chế độ TBCN. Vì thế,
trong CNTB, CBXH chỉ là phƣơng tiện chứ không phải là mục đích.
Quan niệm về bình đẳng và tự do trong thời kỳ này không chỉ đơn thuần dừng
lại ở việc tiếp thu và khôi phục lại các tƣ tƣởng truyền thống, mà còn phát triển với
những màu sắc riêng của thời đại lịch sử. Đa số các nhà tƣ tƣởng tiến bộ trong thời
kỳ này, trong khi đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế với nền tảng tƣ tƣởng của
nó là thần học, cũng nhƣ phê phán tính trạng bất công nảy sinh trong xã hội TBCN,
họ đều đƣa ra những mô hình xã hội mới xây dựng trên mô hình của tự nhiên. Đồng
thời, các nhà tƣ tƣởng luôn đề cao con ngƣời và các quyền của con ngƣời trong xã
hội. Tình hình đó thúc đẩy hình thành những quan niệm mới về

10


CBXH, tiến bộ xã hội, khi nhiều nhà tƣ tƣởng coi công bằng và bình đẳng là
tiêu chuẩn để đánh giá một xã hội tiến bộ.
Tiếp thu tƣ tƣởng của các đại biểu thời kỳ Phục hƣng, các nhà XHCN không
tƣởng mà tiêu biểu là ba nhà XHCN không tƣởng – phê phán nửa đầu thế kỷ XIX ở
Pháp và Anh là Xanh-Xi-mông (1760 – 1825), S.Phuriê (1772 – 1837), R.Ô-oen

(1771 – 1858) đều cho rằng trong xã hội TBCN không thể có CBXH. Theo các ông,
chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất chính là nguyên nhân làm nảy sinh và làm trầm
trọng thêm sự bất công trong xã hội. Sự giàu có ngày càng tập trung về phía giai cấp
tƣ sản, giai cấp có quyền sở hữu của cải của xã hội; còn sự bần cùng, nghèo khổ
ngày càng tập trung về phía giai cấp vô sản, giai cấp những ngƣời không có quyền
sở hữu của cải xã hội. Để xóa bỏ tình trạng này, theo các ông, phải xây dựng một xã
hội mới khác về căn bản so với xã hội TBCN. Mô hình xã hội lý tƣởng mà các ông
đƣa ra hoạt động theo nguyên tắc tối cao: mọi ngƣời đều bình đẳng, đều phải lao
động và thậm chí lao động trở một thành nhu cầu không thể thiếu của mỗi ngƣời;
mọi ngƣời đều đƣợc hƣởng thụ nhƣ nhau và xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi trong
xã hội. Đây là một tƣ tƣởng rất tiến bộ về CBXH. Nó nói lên một đòi hỏi tất yếu để
thực hiện CBXH là phải xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ hình thức sở hữu tƣ nhân
TBCN về tƣ liệu sản xuất, xác lập một chế độ xã hội mới dựa trên cơ sở công hữu
về tƣ liệu sản xuất. Nhƣng khi giải quyết câu hỏi: làm thế nào để xóa bỏ xã hội
TBCN và xây dựng xã hội mới thì các nhà XHCN không tƣởng đều chƣa tìm thấy
đuợc những biện pháp, cách thức đúng đắn. Đó là do các ông chƣa nhận thức đƣợc
bản chất của xã hội TBCN và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cũng
nhƣ chƣa đánh giá đúng vị trí, vai trò của giai cấp vô sản trong lịch sử xã hội.
Chính vì vậy, lý thuyết của các ông vẫn rơi vào không tƣởng.

Những quan niệm về CBXH và bình đẳng xã hội đã đƣợc tiếp tục kế thừa
và phát triển trong các thế kỷ XIX – XX, một mặt, bởi C.Mác, Ph. Ăngghen,
V.I.Lênin và các nhà tƣ tƣởng tiêu biểu của CNXH khoa học; mặc khác, bởi
một số nhà triết học phƣơng Tây, trong đó, đáng kể nhất là quan điểm của John

11


Rawls (1921 – 2002) , nhà triết học chính trị Mỹ, ngƣời đã đƣa ra lý thuyết về
CBXH, với mong muốn khắc phục đƣợc hạn chế của nhiều quan điểm trƣớc đó về

công lý, và về công bằng. J.Rawls coi lý thuyết của mình là sự tiếp nối và phát triển
những tƣ tƣởng truyền thống về CBXH trong lịch sử, mà đặc biệt là tƣ tƣởng “Khế
ƣớc xã hội” của J. Rútxô và những tƣ tƣởng về đạo đức học của I. Kant. Trong tác
phẩm “Lý thuyết về công lý” (A theory of justice) (1971), vấn đề công bằng và bình
đẳng đã đƣợc J.Rawls nghiên cứu một cách hệ thống mang tính lý thuyết thuần túy,
mà đối tƣợng của công bằng đƣợc ông xác định là thể chế xã hội nói chung. Theo
J.Rawls, công bằng chỉ có đƣợc khi con ngƣời tự nguyện cùng tham dự vào hợp tác
xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành đƣợc lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn
lẻ. Trong quan niệm của J.Rawls, sự công bằng hay không công bằng trong một thể
chế xã hội không phải là sự khác nhau về xuất phát điểm của mỗi cá nhân, mà chỉ
chủ yếu ở chỗ: khi tham gia vào hợp tác xã hội, cho dù có sự bất bình đẳng vì có
những khác biệt bẩm sinh và địa vị xã hội giữa ngƣời với ngƣời, nhƣng nếu đó là
sự chấp nhận mang tính tự nguyện trong cơ chế hoạt động hợp tác xã hội chung đó
thì vẫn đƣợc coi là công bằng. Vì thế, một thể chế xã hội là không công bằng, nếu
thể chế đó bị những ngƣời ở một giai cấp này lợi dụng những nhân tố ngẫu nhiên để
biến thành đặc quyền, đặc lợi cho riêng mình, và biến nó thành sự bất lợi cho những
ngƣời ở giai cấp khác - những ngƣời không biết đƣợc rằng đang có sự chi phối của
những yếu tố ngẫu nhiên đó. Ông đã đƣa ra nguyên tắc “tối đa hóa cái tối thiểu”
cho những ngƣời bị thiệt thòi, yếu thế trong xã hội, xem đó nhƣ là lý tƣởng xã hội
công bằng và con đƣờng tiến lên xã hội đó bằng đạo đức. Nói tóm lại, mặc dù rất cố
gắng và hy vọng đƣa ra đƣợc một quan niệm mới về CBXH, song lý thuyết của ông
vẫn chứa đựng không ít hạn chế rất khó khắc phục, thậm chí cả những bất hợp lý và
còn dừng ở mức chung chung [38].
Nhƣ vậy, vấn đề CBXH đã đƣợc đề cập trong suốt tiến trình phát triển lâu dài
của lịch sử loài ngƣời, nó phản ánh sâu sắc quá trình đấu tranh của các giai cấp về
quyền sở hữu, tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối, trao đổi sản phẩm lao động.

12



Các nhà tƣ tƣởng đã trình bày những quan niệm và đƣa ra những giải pháp
khác nhau để thực hiện CBXH. Mặc dù chƣa thật đầy đủ và hệ thống, nhƣng
những tƣ tƣởng đó là những tiền đề lý luận quan trọng làm cơ sở cho việc
nhận thức và giải quyết vấn đề CBXH trong thực tiễn.
b. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định CBXH là sản phẩm của đời sống xã
hội, là quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời hình thành trong quá trình con
ngƣời hoạt động sinh sống. Về thực chất, CBXH là mối quan hệ giữa con
ngƣời trong xã hội về mặt lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế là cơ bản nhất, có ý
nghĩa quyết định. Do vậy, thực hiện CBXH, trƣớc hết, phải giải quyết vấn đề
CBXH trên lĩnh vực kinh tế và phải thực hiện từng bƣớc, xuất phát từ những
điều kiện thực tế của sự phát triển sản xuất.
Nghiên cứu nền sản xuất TBCN, các nhà sáng lập chủ nghĩa C.Mác vạch rõ cơ
sở khách quan của tình trạng bất công trên lĩnh vực kinh tế trong CNTB là do chế
độ tƣ hữu tƣ nhân TBCN về tƣ liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Để xóa bỏ sự
bất công đó cần xóa bỏ chế độ tƣ hữu tƣ nhân TBCN và thiết lập chế độ sở hữu
mới, sở hữu XHCN về tƣ liệu sản xuất. Điều đó chỉ có thể đƣợc thực hiện thông
qua lực lƣợng vật chất thực tế của xã hội, đó chính là giai cấp công nhân đƣợc tổ
chức một cách khoa học, đồng thời lôi cuốn và đoàn kết đông đảo nhân dân tiến
hành một cuộc đấu tranh cách mạng, thay thế xã hội TBCN bằng xã hội XHCN, xã
hội cộng sản chủ nghĩa. CBXH, qua đó, đƣợc giải quyết từng bƣớc cùng với việc
xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN và xây dựng, phát triển quan hệ sản xuất XHCN.
Đứng trên lập trƣờng bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng quan điểm về CBXH mà nội dung chủ yếu của nó
chính là nguyên tắc phân phối theo lao động, đƣợc trình bày tập trung trong tác phẩm
“Phê phán Cƣơng lĩnh Gôta” (1875). Theo C.Mác, trong nền sản xuất TBCN, quan hệ
trao đổi ngang giá khi mua và bán sức lao động đƣợc nhà tƣ bản coi là quan hệ công
bằng. Nhƣng trên thực tế, hàng hóa sức lao động lại có đặc điểm là khi đƣa vào sử
dụng còn tạo ra một số lƣợng giá trị lớn hơn nó trƣớc khi đƣợc đƣa vào sử


13


dụng, cho nên việc ngƣời công nhân chỉ đƣợc nhận lại “tiền công của lao động”,
còn phần giá trị gia tăng do sức lao động tạo ra không đƣợc trả công và chuyển
thành lợi nhuận của nhà tƣ bản đã làm cho quan hệ trao đổi ngang giá đó không thể
đƣợc coi là công bằng. Đó chính là bản chất bất công của chế độ phân phối TBCN.
Vì vậy, theo các ông, muốn có CBXH phải thực hiện đƣợc nguyên tắc phân phối
theo lao động, nhƣng phải phân phối đúng với giá trị của sức lao động.

Sở dĩ trong chế độ sở hữu tƣ bản tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, mong muốn
thực hiện đƣợc nguyên tắc phân phối (theo lao động) của những ngƣời XHCN
trên đây không thể trở thành hiện thực, bởi vì theo quan điểm của C.Mác và Ph.
Ăngghen, bao giờ “sự công bằng hình nhƣ đòi hỏi cả hai bên ngay từ đầu đã
phải đƣợc đặt vào những điều kiện nhƣ nhau”[23,367], thế nhƣng trong nền sản
xuất TBCN sự thật lại không phải nhƣ vậy. Trong cuộc chạy đua với nhà tƣ bản,
ngƣời lao động luôn ở vào thế bất lợi. “Nếu nhà tƣ bản không đồng ý với công
nhân, thì y có điều kiện để chờ đợi và sống bằng tƣ bản của y. Ngƣời công nhân
không thể làm nhƣ thế đƣợc…Cái đói đặt anh ta vào một hoàn cảnh hết sức bất
lợi. Thế mà, theo khoa học kinh tế chính trị của giai cấp các nhà tƣ bản, đó là
đỉnh cao của sự công bằng” [23,367]. Để xây dựng đƣợc một xã hội công bằng
thực sự thì phải xóa bỏ bất bình đẳng về những điều kiện ban đầu ấy. Muốn thế,
phải làm cho mọi ngƣời đƣợc bình đẳng trong quan hệ sở hữu, tức là làm cho
mọi ngƣời phải ngang nhau về địa vị trong quan hệ với tƣ liệu sản xuất. Đó mới
chính là xuất phát điểm bình đẳng làm cơ sở để thực hiện đƣợc công bằng thực
sự trong xã hội. Và điều này chỉ có đƣợc trong CNXH.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ nguyên tắc công bằng dƣới chủ nghĩa nghĩa xã
hội là: sau khi khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất
cũng nhƣ để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ
đƣợc phân phối theo cách thức: mỗi ngƣời sản xuất sẽ đƣợc nhận lại từ xã hội một

số lƣợng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lƣợng lao động mà anh ta đã cung
cấp cho xã hội. C.Mác nhấn mạnh rằng, phân phối theo lao động cũng chỉ là

14


công bằng trong điều kiện giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng đồng (cộng sản),
chứ chƣa phải là công bằng hoàn toàn. Bởi vì “với một công việc ngang nhau
và do đó, với một phần tham dự nhƣ nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì
trên thực tế, ngƣời này vẫn lĩnh hơn ngƣời kia, ngƣời này vẫn giàu hơn
ngƣời kia” [24,479]. Nguyên nhân là “một cá nhân này, về thể chất và tinh
thần lại hơn một cá nhân khác và do đó, trong cùng một thời gian nhƣ thế,
ngƣời ấy cung cấp đƣợc nhiều lao động, hoặc có thể đƣợc lao động lâu hơn”
[24,480]. C.Mác cho rằng, những thiếu sót đó của công bằng là “không thể
tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng đồng chủ nghĩa”.
Điều đó có nghĩa là trong khi thực hiện CBXH chúng ta vẫn chƣa thực hiện
đƣợc bình đẳng xã hội, nhất là trong điều kiện KTTT, thu nhập đƣợc phân bổ
theo mức độ tham gia của những yếu tố (vốn, kỹ thuật, tài nguyên…) vào quá
trình sản xuất; và do đó có thể đảm bảo công bằng về các phƣơng diện kinh tế
nhƣng có thể không có đƣợc những bình đẳng trong những hoạt động chính trị,
xã hội, vì trong xã hội vẫn tồn tại những tầng lớp xã hội khác nhau. Nhƣ vậy,
CBXH chỉ thực sự có đƣợc khi xã hội bƣớc vào giai đoạn phát triển cao của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, khi con ngƣời không còn phụ thuộc vào sự phân công
lao động; khi lao động không đơn thuần là phƣơng tiện sinh sống mà trở thành
nhu cầu hoạt động và phát triển; đó là xã hội mà không ai lợi dụng ƣu thế của
mình để lấn át hay áp bức ngƣời khác, sự bất bình đẳng đƣợc xóa bỏ hoàn toàn,
mọi thành viên trong xã hội đƣợc sống theo nguyên tắc “làm theo năng lực,
hƣởng theo nhu cầu”. Nói cách khác, CBXH chính là một giá trị định hƣớng, và
nó sẽ đƣợc thực hiện dần từng bƣớc trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội để
tiến tới sự công bằng và bình đẳng hoàn toàn trong xã hội.


c. Quan niệm của Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
Tiếp thu quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội, Hồ Chí
Minh đã bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo những quan niệm đó vào công
cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: trong chế độ xã hội

15


thực dân, phong kiến hoàn toàn không có CBXH. Trong xã hội đó, những ngƣời
lao động - lực lƣợng chủ yếu sáng tạo nên của cải vật chất cho xã hội, thì suốt
đời nghèo khổ, trong khi một số ít ngƣời không lao động thì lại “ngồi mát ăn bát
vàng”. Giải thích căn nguyên dẫn tới “nỗi chẳng công bằng” này, Hồ Chí Minh
cho rằng, đó là vì: “một số ít ngƣời đã chiếm làm tƣ hữu những tƣ liệu sản xuất
của xã hội” [28,203]. Từ những nhận định này, Hồ Chí Minh kết luận rằng, công
bằng chỉ thực sự có đƣợc trong chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ cộng hòa, nơi
“nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi” [28,219]. Hơn nữa, sự công bằng
của chế độ XHCN còn đƣợc đảm bảo bằng những cơ sở vững chắc. Điều này thể
hiện ở chỗ: “Nhà nƣớc này là của tất cả những người lao động… Nhân dân lao
động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa,
đều bình đẳng về nghĩa vụ” [31,310].
Tƣ tƣởng về CBXH đƣợc Hồ Chí Minh thể hiện một cách sinh động, linh hoạt
trong những hoàn cảnh và tình huống cụ thể khác nhau của quá trình xây dựng đất
nƣớc. Khi nói đến CBXH, Hồ Chí Minh thƣờng gắn nó với quan niệm về bình
đẳng xã hội, thông qua mối quan hệ giữa cống hiến và hƣởng thụ, giữa nghĩa vụ và
quyền lợi, của mỗi thành viên trong xã hội. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã coi
CBXH chính là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Với quan niệm nhƣ vậy, Ngƣời
đòi hỏi tất cả những ngƣời lao động ngày nay đều phải nhận rõ mình là ngƣời chủ
nƣớc nhà; và đã có quyền hạn làm chủ thì phải làm trọn nghĩa vụ của ngƣời chủ đó là cần kiệm xây dựng nƣớc nhà, xây dựng CNXH, nhằm mục đích không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trƣớc hết là nhân dân lao

động. Ngƣời khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều hƣởng
nhiều, làm ít hƣởng ít, không làm thì không đƣợc hƣởng” [30,175]. Quan điểm này
cũng đƣợc thể hiện rất rõ trong Di chúc của Ngƣời; trong đó, Ngƣời căn dặn toàn
Đảng, Chính phủ và toàn dân khi cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng, một trong
những việc phải làm đầu tiên là thực hiện CBXH: “Đối với những ngƣời dũng cảm
hy sinh một phần xƣơng máu của

16


mình… Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm cách lo cho họ có nơi ăn, chốn
ở yên ổn… Đối với cha mẹ, vợ con (của thƣơng binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao
động và túng thiếu, thì chính quyền địa phƣơng phải giúp đỡ họ có công ăn
việc làm thích hợp, quyết không để họ đói rét” [32,503].
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, việc thực hiện CBXH là một yêu cầu
bức thiết, và yêu cầu đó lại càng bức thiết khi cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Ngay trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn quyết liệt,
nhân dân miền Bắc phải chịu nhiều thiếu thốn, dồn tài lực, vật lực cho tiền
tuyến lớn miền Nam, Hồ Chí Minh đã phát biểu trƣớc Hội đồng Chính phủ:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [32,185].
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, thực hiện CBXH với
nguyên tắc ngang bằng nhau giữa ngƣời với ngƣời trong mối quan hệ giữa nghĩa
vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hƣởng thụ… trong hoàn cảnh nƣớc nhà còn
nhiều khó khăn về kinh tế cũng không có nghĩa là có thể làm cho đời sống của
nhân dân có ngay đƣợc sự no đủ. Do đó, không đƣợc coi việc thực hiện CBXH
nhƣ một sự cào bằng trong nghèo khổ. Ngƣời khẳng định: “Không phải chúng
ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì
chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sƣớng” [29,226].


Qua đó cho thấy, Hồ Chí Minh quan niệm về CBXH có tính thực tiễn sâu
sắc, do đó rất khoa học và toàn diện. Ngƣời không chỉ khẳng định vai trò của
CBXH là để “yên dân” mà còn khẳng định CBXH vừa là chính sách xã hội,
chính sách kinh tế, vừa mang tính đạo lý, nhân văn. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về CBXH chính là sự bổ sung và tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về nguyên tắc phân phối theo lao động - một nguyên tắc đảm bảo
CBXH trong quá trình phát triển theo định hƣớng XHCN.

17


d. Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội
CBXH là mục tiêu đƣợc xác định ngay từ những ngày đầu bƣớc vào sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nƣớc ta. Quan điểm của Đảng về CBXH và nội
dung của việc thực hiện CBXH có sự thay đổi qua hai giai đoạn phát triển
lớn: thời kỳ trƣớc đổi mới và thời kỳ sau đổi mới đến nay.
Trƣớc đổi mới, từ quan điểm cho rằng chế độ tƣ hữu là nguồn gốc của sự bóc
lột, của tình trạng bất công và bất bình đẳng xã hội nên trong thực tiễn, việc xóa bỏ
chế độ tƣ hữu đã trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động của Đảng và Nhà
nƣớc ta nhằm thực hiện CBXH ở thời kỳ này. Cùng với việc củng cố và hoàn thiện
quan hệ sở hữu nhà nƣớc và sở hữu tập thể, Đảng ta đã nhấn mạnh đến việc phải
tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động – một nguyên tắc quyết định cho việc
thực hiện CBXH trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy vậy, do thực hiện nguyên tắc
này trong khuôn khổ của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp nên đã làm cho nó
bị biến dạng, trở thành vật cản đổi với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất. Kết quả
là phân phối theo lao động thực tế bị biến dạng thành phân phối mang tính chất cào
bằng, bình quân, không tính đến hiệu quả kinh tế thực sự và chính nguyên tắc này
đã làm triệt tiêu động lực tăng trƣởng kinh tế.
Khắc phục những sai lầm của tƣ tƣởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về
CNXH, Đại hội VI (năm 1986) đã quyết định chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế

hoạch hóa tập trung dựa trên chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất chủ yếu sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng dƣới sự quản lý
của nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN. Đồng thời, Đại hội VI đã đƣa ra quan niệm
mới về CBXH khi xác định rằng không thể thực hiện CBXH sớm bằng cách xóa bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi XHCN. Đại hội xác định, CBXH chỉ có thể đạt
đƣợc từng bƣớc tƣơng ứng với sự phát triển của CNXH, trên nền tảng của sự phát
triển kinh tế nhất định. Đại hội cũng nêu một số quan điểm quan trọng chỉ đạo việc
thực hiện CBXH. Văn kiện Đại hội khẳng định: “Tôn trọng lợi ích chính đáng của
những hoạt động kinh doanh hợp pháp, có ích cho xã hội. Ngăn chặn và

18


xử lý nghiêm khắc các nguồn thu nhập bất chính… Nghiêm trị những kẻ
phạm pháp bất kỳ ở cƣơng vị nào… Bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và
nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền, đặc lợi”[9,423].
Đại hội VI tiếp tục nhấn mạnh tới nguyên tắc phân phối theo lao động, tuy
nhiên không tuyệt đối hóa nguyên tắc này, coi nó là nguyên tắc phân phối duy
nhất đúng trong thời kỳ quá độ lên CNXH: “Giải quyết một phần quan trọng
việc làm cho ngƣời lao động và bảo đảm về cơ bản phân phối theo lao động.
Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nƣớc ta”[9,378].
Đại hội VII (năm 1991) diễn ra trong điều kiện nƣớc ta đang trong quá trình
tìm tòi, từng bƣớc thể nghiệm những bƣớc đi đầu tiên của sự nghiệp đổi mới,
mạnh dạn phát triển kinh tế thị trƣờng dƣớc sự quản lý của nhà nƣớc XHCN.
Bên cạnh hình thức phân phối cơ bản theo lao động, Đại hội VII thừa nhận các
hình thức phân phối khác: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”[3,10]. Hội nghị Đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) thể hiện rõ hơn quan điểm của
Đảng về CBXH dƣới góc độ phân phối này: “phân phối theo lao động là chủ
yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; đồng thời phân phối theo

nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh”[4,47]. Đây là quan niệm mới về
phân phối của Đảng nhằm tiến tới CBXH một cách thực tế, điều này phù hợp với
hoàn cảnh của nƣớc ta trong giai đoạn thúc đẩy nền kinh tế, phát huy mọi nguồn
lực, nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra, đến Văn kiện Đại hội VIII (năm
1996), Đảng ta đề cập thêm hình thức phân phối thông qua phúc lợi xã hội, hình
thức phân phối này ngoài việc có ý nghĩa mở rộng CBXH còn thể hiện bản chất
ƣu việt của chế độ XHCN. Đồng thời, quan niệm về CBXH không chỉ dừng ở
phân phối hợp lý tƣ liệu sản xuất, kết quả lao động mà còn thể hiện ở công bằng
về cơ hội; “Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tƣ liệu sản
xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi ngƣời
đều có cơ hội phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng”[4,47].

19


Tới Đại hội IX (năm 2001), nguyên tắc phân phối đƣợc Đại hội thông
qua đã thể hiện đƣợc một nội dung đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn so với các
nguyên tắc phân phối đƣợc nêu ra trong các Văn kiện trƣớc: “Kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn
và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội”[6,88]. Bên cạnh hình thức đóng góp về lao động, vốn thì Đảng ta vẫn
tiếp tục khuyến khích các hình thức đóng góp khác cùng với phúc lợi xã hội.
Ngoài việc tiếp tục nhấn mạnh quan điểm về CBXH đã đƣợc thể hiện từ
các Đại hội trƣớc, Đại hội X đã khẳng định thực hiện CBXH phải thể hiện
trong việc xây dựng và tiến hành mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bƣớc và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[8,26].

CBXH đã đƣợc Đảng quan niệm phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất
định, do vậy mà CBXH không chỉ là mục tiêu mà đã thực sự trở thành động
lực cho sự tăng trƣởng kinh tế. Ở đây, CBXH đƣợc hiểu theo hai góc độ:
CBXH theo chiều ngang và CBXH theo chiều dọc. CBXH theo chiều ngang
nghĩa là đối xử ngang nhau với những ngƣời có đóng góp nhƣ nhau và
CBXH theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau đối với những ngƣời có
những khác biệt bẩm sinh hoặc có điều kiện xã hội khác nhau.

20


Tóm lại, từ những quan điểm trên đây, có thể hiểu công bằng xã hội theo
nghĩa chung nhất là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người và
người dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa
cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với khả năng hiện thực của những điều
kiện kinh tế - xã hội nhất định.
CBXH đƣợc coi nhƣ một giá trị định hƣớng để con ngƣời sinh sống và phát
triển trong các quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về cả vật chất và
tinh thần. CBXH thƣờng đƣợc xem xét ở nhiều phƣơng diện: kinh tế, chính trị,
pháp luật, đạo đức,… trong đó phƣơng diện kinh tế, tức là sự phù hợp, tƣơng
xứng giữa lao động, đóng góp (của cá nhân, nhóm xã hội) vào quá trình sản xuất
với sự hƣởng thụ những kết quả của sản xuất là phƣơng diện cơ bản nhất. Khía
cạnh chính trị, pháp luật của CBXH là sự tƣơng xứng, chẳng hạn, giữa công lao
của những ngƣời đã chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc với sự đánh giá, ghi công, đền đáp của xã hội, hoặc giữa
sự thiệt hại mà cá nhân gây ra cho xã hội với những hình phạt của xã hội đối với
họ. Về mặt xã hội, CBXH là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển
của con ngƣời và phát triển xã hội. Do vậy, trong mỗi bƣớc phát triển kinh tế
cần thực hiện đồng thời CBXH để có đƣợc sự phát triển bền vững. Thực hiện
CBXH là hoạt động có tính tích cực, chủ động của các chủ thể (đảng, nhà nƣớc,

tổ chức xã hội các cấp và tất cả ngƣời dân) để xác lập sự ngang bằng nhau giữa
ngƣời với ngƣời (cá nhân, nhóm xã hội) trên nguyên tắc phù hợp giữa sự đóng
góp với sự thụ hƣởng của cá nhân và nhóm xã hội trong mỗi bƣớc tăng trƣởng
kinh tế, nhằm đạt đƣợc sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi tƣ liệu sản xuất chƣa thể công hữu hóa
hoàn toàn, trong xã hội còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau, thì quan
niệm về cống hiến không chỉ là cống hiến sức lao động, mà sự đóng góp các
nguồn lực khác cho phát triển xã hội cũng đƣợc thừa nhận và đƣợc hƣởng thụ
tƣơng xứng. Mặc dù nguyên tắc cống hiến nhƣ thế nào, hƣởng thụ nhƣ thế ấy

21


×