Tải bản đầy đủ (.docx) (158 trang)

Hiện tượng ngân hàngtự phát và tác động của nó đối với kinh tế biên mậu ở một số khu vực biên giới việt trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.03 KB, 158 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
------------------------------

ZHAO BIN XUAN
(TRIỆU BÂN TOÀN)

HIỆN TƢỢNG “NGÂN HÀNG” TỰ PHÁT VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI KINH TẾ BIÊN MẬU Ở MỘT
SỐ KHU VỰC BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ
Ngành: Việt Nam học

Mã số: 60220113

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-------------------------

ZHAO BIN XUAN
(TRIỆU BÂN TOÀN)

HIỆN TƢỢNG “NGÂN HÀNG” TỰ PHÁT VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI KINH TẾ BIÊN MẬU Ở MỘT
SỐ KHU VỰC BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ


Ngành: Việt Nam học
Mã số: 60220113

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Tung

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GS.TS. Phạm Hồng Tung. Nội dung được trình
bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với bất kỳ công trình
nghiên cứu nào đã được công bố.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2015

Tác giả luận văn

Triệu Bân Toàn


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận
tâm của GS.TS. Phạm Hồng Tung trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp. Vì vậy, tôi xin được gửi đến Thầy lời cảm ơn, biết ơn chân

thành và sâu sắc nhất.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Viện Việt Nam học
và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong những năm tôi học tập và nghiên cứu ở trường. Những hành trang kiến thức
mà các thầy cô mang lại cho tôi sẽ không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu
luận văn mà còn là hành trang quý báu cho công việc và cuộc sống của tôi sau này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các bạn học cùng khóa và các bạn Việt Nam đã
tận tình giúp đỡ tôi tìm tài liệu, góp ý trong suốt quá trình viết luận văn.


XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

Tôi đã đọc và đồng ý với nội dung luận văn của học viên.

Hà Nội, ngày
tháng năm
2015
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
(Ký tên)

GS.TS.Phạm Hồng Tung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MẬU DỊCH VÀ HOẠT
ĐỘNG GIAO DỊCH TIỀN TỆ BIÊN GIỚI Trung - Việt............................................ 10
1.1. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cổ đại.........................10
1.2. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cận đại....................13
1.3. Một số thành tựu về mậu dịch của hai nước Trung - Việt................................... 21

1.3.1. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 1991 - 2000............................................. 22
1.3.2 . Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2001-2006............................................... 24
1.3.3. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2007 - 2014............................................. 26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA “NGÂN HÀNG TỰ PHÁT”
TẠI BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT............................................................................................ 29
2.1. Thực trạng giao dịch, buôn bán ở biên giới Trung - Việt.................................... 29
2.1.1. Cơ cấu hàng hóa của Trung Quốc xuất sang Việt Nam............................29
2.1.2. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam...................33
2.1.3. Hình thức mậu dịch và các loại hàng hóa mua bán giữa Trung Quốc
và Việt Nam........................................................................................................................... 34
2.1.4. Tình hình phát triển kinh tế mậu dịch của của Việt Nam và Trung
Quốc những năm gần đây................................................................................................. 36
2.2. Lý thuyết cơ bản phát triển của “Ngân hàng tự phát”.......................................... 45
2.2.1. Khái niệm liên quan của “Ngân hàng tự phát”............................................ 45
2.2.2. Lý thuyết liên quan đến phát triển của “Ngân hàng tự phát”.................48
2.3. Tiểu kết chương 2............................................................................................................... 55
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN
“NGÂN HÀNG TỰ PHÁT”....................................................................................................... 56
3.1. Nguồn gốc của các loại “Ngân hàng tự phát”......................................................... 56


3.1.1. Nguồn gốc lịch sử của “Ngân hàng tự phát”................................................ 56
3.1.2. Nguồn gốc xã hội: “Ngân hàng tự phát” để bù đắp cho sự thiếu hụt
trong cơ chế giải quyết thương mại biên giới............................................................ 62
3.2. Tác động của “Ngân hàng tự phát” tới kinh tế biên mậu khu vực biên giới
Việt - Trung................................................................................................................................... 74
3.2.1. Điểm mạnh của hoạt động “Ngân hàng tự phát” và tính bất hợp pháp
trong hoạt động của “Ngân hàng tự phát”.................................................................. 74
3.3.2. “Ngân hàng tự phát” dễ dàng thao tác tỷ giá hối đoái biên giới............82
3.3. Một số đề xuất về giải pháp quản lý đối với hoạt động “Ngân hàng tự phát” .. 83


3.3.1. Vấn đề trong quá trình phát triển “Ngân hàng tự phát”............................83
3.3.2. Học tập kinh niệm quản lý “Ngân hàng tự phát” của Việt Nam...........86
3.3.3. Các chính sách quản lý “Ngân hàng tự phát” mang tính công khai hóa
và hợp phát hóa ở biên giới Trung - Việt.................................................................... 95
3.4. Tiểu kết chương 3............................................................................................................ 115
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 118


DANH MỤC VIẾT TẮT
ACFTA: ASEAN - Trung Quốc Hiệp định Thương mại tự do
APEC: tiếng Anh:Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN: tiếng Anh: Association of Southeast Asian Nations,
viết tắt là ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
CBRC: China Banking Regulatory Commission
CIRC: China Insurance Regulatory Commission
CNDC: công ty xăng dầu Hải Dương Quốc gia Trung Quốc
CSRC: China Securities Regulatory Commission
DWT: Deadweight tonnage, là đơn vị đo năng lực vận tải an toàn của tàu
thủy tính bằng tấn.
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA: Hiệp định thương mại tự do
PBOC: People's Bank Of China
Trung Quốc CMG: Merchants Group
WTO: tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO:
tiếng Pháp: Organisation mondiale du commerce; tổ chức Thương mại Thế giới



DANH MỤC BẢNG BỂU, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
1.1 Danh mực bảng biểu
Bảng 1.1. Tình hình cửa khẩu biên giới tỉnh Quảng Tây TQ và VN.............................. 14
Bảng 2.1: Tình hình xuất nhập khẩu Trung - Việt từ năm 1991 đến năm 2000.........23
Bảng 3.1: Tình hình xuất nhập khẩu ở khu vực biên giới Việt – Trung giai đoạn
2001 – 2006.......................................................................................................................................... 25
Bảng 1.2: Bảng thống kê các loại sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ở
khu vực biên giới Việt Trung......................................................................................................... 29
Bảng 2.2: Những sản phậm tự Việt Nam xuất khẩu đến Trung Quốc............................ 30
Bảng 3.2: Cơ cấu hàng hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc..........................31
Bảng 4.2: Các loại sản phẩm xuất – nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc........34
Bảng 5.2. Bảng thống kê tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2011...................................................................................................................... 37
Bảng 1.3: Bảng so sánh ngân hàng chính quy và “Ngân hàng tự phát”........................73
Bảng 2.3: Ưu thế của Ngân hàng tự phát.................................................................................. 76
Bảng 3.3: Tình hình hoạt động của “Ngân hàng tự phát”................................................... 78
Bảng 4.3. Pháp luật quản lý của chính phủ Việt Nam đối với “Ngân hàng tự phát” 88

1.2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000 .. 22
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2002 .. 25

Biểu đồ 1.3: Cơ cấu các doanh nghiệp thanh toán bằng “Ngân hàng tự phát.............81
1.3. Danh mục Sơ đồ
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ kế toán mậu dịch biên giới Việt – Trung................................................ 54
Sơ đồ 1.3: Các hình thức tổ chức của ngân hàng biên mậu............................................. 109


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Lý do thực tiễn
Từ năm 1991 đến nay mậu dịch biên giới hai nước phát triển càng ngày càng
tốt. Do các lãnh đạo hai nước sáng tạo quan hệ hữu nghị tiếp tục phát triển làm cho
tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc “láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và mãi là “láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Việt Nam và Trung Quốc trong các
vấn đề của khu vực và quốc tế có những quan điểm và lợi ích giống nhau. Hai bên
hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và
phát triển. Nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung
trên nhiều vấn đề quan trọng. Từ xưa đến nay, hai nước từ xưa đến nay, có lịch sử
lâu dài trao đổi hàng hóa và trao đổi kinh tế tự do, chủ yếu tập trung ở khu vực biên
giới của hai nước. Khái niệm của khu vực biên giới hai nước chưa rõ vì hai nước có
quan hệ láng giềng, cư dân biên giới có thể trao đổi hàng hóa, nhiều dân cư biên
giới hai nước di dân đến nhà nước đối phương. Ngoài ra, mậu dịch Trung - Việt rất
quan trọng vì nó chịu ảnh hưởng ngoài giao, chính trị, quan hệ quốc tế...
Trong mối quan hệ phát triển hai nước như vậy, trong cái lĩnh vực phát triển
sôi động nhất, đến bất kỳ cửa khẩu nào mà có giáp giới giữa biên giới hai nước đều
chính kiến, hoạt động chính kiến rất là sôi động, hàng hóa nông nghiệp, hàng hóa
lâm nghiệp, hàng hóa công nghiệp, thậm chí là hàng hóa văn hóa trao đổi giữa hai
nước rất thường xuyên. Đó là một trong những tuyến biên giới có hoạt động biên
giới sôi động, hiện nay là toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Hoạt động kinh tế biên
mậu có 3 loại hình: Một là, mậu dịch quốc gia của hai nước, đây là hình thức cơ bản
của mậu dịch kinh tế Trung - Việt. Hai là, công ty mậu dịch hai nước phải tuân theo
xuất nhập khẩu quy định của nhà nước,mậu dịch này chủ yếu là hàng hóa trao đổi

1


của vùng biên giới hai nước,đây là hình thức phụ của mậu dịch kinh tế Trung - Việt.

Ba là, mậu dịch tiểu ngạch trao đổi cư dân hai bên, đây là hình thức truyền thống
của mậu dịch kinh tế Trung - Việt. Đặt ra những vấn đề không chỉ là vấn đề kinh tế,
vấn đề an ninh, còn có vấn đề an ninh xã hội, còn vấn đề đả bảo lợi ích chính cho
tham gia hoạt động như vậy. Hơn nữa, thì giao dịch “Ngân hàng tự phát” không chỉ
lãi xuất, còn có nhiều dịch vụ.


Khái niệm liên quan của Ngân hàng tự phát

“Ngân hàng tự phát” tồn tại trong khu vực biên giới Trung - Việt (đặc biệt là tại
các cửa khẩu thương mại biên giới thịnh vượng, khu kinh tế và các điểm thương
mại biên giới), để tham gia vào các dịch vụ đổi tiền, thanh toán tiền hàng, chuyển
tiền, chủ yếu là trong các dịch vụ thương mại biên giới loại nhỏ và tổ chức kinh
doanh thương mại truyền thống ở biên giới. Vì hoạt động kinh doanh của nó với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng chính quy tương tự, lại mang hình thức kinh
doanh bán hàng rong, được người dân địa phương gọi là “Ngân hàng tự phát”.
Ở Trung Quốc, một số học giả đã coi “Ngân hàng tự phát” giống như ngân
hàng ngầm. Sau khi nghiên cứu, tác giả đã khảo sát thực địa phân tích và các thông
tin có liên quan, cho rằng hai loại ngân hàng này khác nhau nhưng có liên quan với
nhau. Vì vậy, đối với “Ngân hàng tự phát” tiến hành giới định khái niệm để xác
định, cũng cần thiết để xác định khái niệm về ngân hàng ngầm và phân tích mối
quan hệ giữa hai ngân hàng.
Ngân hàng ngầm có nghĩa là không qua cơ quan quản lý tài chính nhà nước
phê duyệt thành lập, nhằm thu được lợi ích bất hợp pháp, tham gia vào các hoạt
động bất hợp pháp như tiền gửi giao dịch tài chính, cho vay lãi xuất cao hơn ngân
hàng, cho vay nặng lãi, chuyển tiền, vốn phi pháp qua biên giới, phi pháp hoạt động
giao dịch truyền thống và tổ chức tài chính, trong số đó hầu hết trong thế giới thực
là theo hình thức công ty đầu tư tài sản tồn tại.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành (năm 2004 Trung Quốc chống
rửa tiền) báo cáo cho thấy, ngân hàng ngầm là một tổ chức tài chính bất hợp pháp,


2


nó lợi dụng hoặc lợi dụng một phần mạng lưới thanh toán ngân hàng và tổ chức tài
chính khác, triển khai tiết kiệm và vay vốn, chuyển xuyên tiền vốn qua biên giới,
bất hợp pháp kinh doanh ngoại hối và hoạt động tài chính bất hợp pháp khác. Và chỉ
ra rằng các ngân hàng ngầm trôi dạt bên ngoài hệ thống quản lý tài chính, rất dễ
dàng để trở thành rửa tiền, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng và các hoạt động tội
phạm khác. Theo các loại kinh doanh chủng loại khác nhau, ngân hàng ngầm có thể
được chia thành: ngân hàng ngầm loại kiểu tiết kiệm cho vay và ngân hàng ngầm
đổi ngoại tệ. Có hai loại ngân hàng: ngân hàng ngầm kiểu tiết kiệm cho vay chủ yếu
là tham gia thu hút tiền tiết kiệm và dịch vụ cho vay vào bất hợp pháp, kiểu ngân
hàng ngầm trao đổi tiền ngoại tệ chủ yếu là triển khai đổi tiền tệ và hoạt động vốn
xuyên biên giới. Thông qua cả hai “Ngân hàng tự phát” và “ngân hàng ngầm” tiến
hành xác định, nó có thể được nhìn thấy tồn tại trong khu vực biên giới Trung - Việt
“Ngân hàng tự phát” không liên quan đến dịch vụ gửi tiền, so với kiểu đổi tiền
“ngân hàng ngầm” dịch vụ hình thức tương tự. Nhưng sau khi tác giả thông qua các
doanh nghiệp thương mại biên giới, các hộ cá thể và thậm chí những người kinh
doanh “Ngân hàng tự phát” tại thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây thực hiện
nhiều cuộc phỏng vấn sâu đã tìm hiểu được rằng: không phải tất cả các “Ngân hàng
tự phát” đều tham gia có liên quan đến rửa tiền và các hoạt động vi phạm khác.
Nhiều người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” chỉ kiếm chênh lệch tỷ giá từ việc bán
đồng nhân dân tệ sang tiền Việt Nam, tiền USD hoặc ngoại tệ khác hoặc theo trong
khi ngân hàng chính quy quốc gia giữa tiền Trung Quốc và tiền Việt Nam thanh
toán thương mại biên giới không thông thoát, giúp một số doanh nghiệp biên giới
thương mại số lượng nhỏ và các hộ cá thể thương mại biên giới giao dịch kinh
doanh làm dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác.
Hiện nay, thông qua các “Ngân hàng tự phát” hầu hết thanh toán thương mại là
những thương mại hợp pháp. Vì vậy, mặc dù các “Ngân hàng tự phát” và ngân hàng

ngầm dịch vụ kinh doanh tương tự và cũng đều là các tổ chức tài chính phi chính
thức, được ẩn trong “ngầm”, nhưng bài viết này sẽ phân biệt “Ngân hàng tự phát”

3


và “ngân hàng ngầm”. Theo giới chuyên môn nghiên cứu, ngân hàng tồn tại trong
khu vực biên giới Trung - Việt, chủ yếu là tham gia trao đổi tiền tệ, thanh toán tiền
vốn và hoạt động chuyển tiền khác, trong thế hệ thanh toán biên mậu Trung - Việt
chiếm một vị trí quan trọng, loại kinh doanh thanh toán theo hình thức bán rong tổ
chức kinh tế dân gian này gọi là “Ngân hàng tự phát”.
1.2. Lý do khoa học
- Nguồn gốc lịch sử
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” này không phải là bây giờ mới phát triển, cũng
không phải là bây giờ mới có mà là có hàng trăm năm nay, đặc biệt kể từ khi hai
nước có đường biên giới, thì đây là trở thành một thói quen. Trong cái giao dịch
song biên giới giữa hai nước thì cái thói quen này càng được củng cố vùng biên giới
Trung - Việt, bởi vì cái vùng đấy thì cửa giao thương kinh tế, trước đây còn có rất
nhiều thương mại của người Trung Hoa, có cả người Việt Nam.
-

Nguồn gốc xã hội

Trong cái vùng biên giới đấy, nó có địa lý, cái động người của dân tộc họ sống
một địa bản. Ví dụ như người Dao, Mông, Thái, Tày v.v... trong cái khoa học gọi là
“Cross-broder ethnic mirrorities”
-

Nguồn gốc kinh tế


Nhóm buôn bán có xu hướng “lách luật” buôn lậu.
Thông qua nghiên cứu “Ngân hàng tự phát” hay là “Ngân hàng tự phát” này
càng ngày càng có ít tôn trọng pháp luật của ngân hàng chính Trung Quốc và Việt
Nam. Bài viết này giới thiệu trước quá trình diễn ra phát triển và nguồn gốc của
“Ngân hàng tự phát”. Sau khi phân tích hiện trạng “Ngân hàng tự phát” của khu
biên giới Trung Việt, sử dụng phương thức điều tra và phỏng vấn các xí nghiệp và
thương nhân của khu biên giới Hà Khẩu Vân Nam-Trung Quốc Lào Cai (Việt Nam)
để phân tích sử dụng tình hình “Ngân hàng tự phát”, theo sự phân tích của kết quả
này có thể cho rằng “Ngân hàng tự phát” thoả mãn nhu cầu của kết quả tiền vốn của
các thương nhân trao đổi cư dân biên giới và các xí nghiệp tiểu ngạch, tồn tại của nó

4


có kết luận tính khách quan và tính hợp lý. Tiếp đó ,nghiên cứu những vấn đề phát
triển và nguyên nhân của sự phát triển của “Ngân hàng tự phát”. Trên cơ sở đó học
kinh nghiệm quản lý “ Ngân Hàng Ngoài Đường” của Việt Nam, bài viết này đưa ra
chính sách quản lý “Ngân hàng tự phát” của biên giới Trung Quốc. phải rõ rằng,
Chính sách đổi tên “Ngân hàng tự phát” đổi tên “Ngân hàng Biên Mậu”, chủ yếu
bao gồm 6 phương diện như sâu:
1.

Đưa ra pháp luật và pháp quy rõ ràng đối với “ Ngân hàng Biên Mậu”;

2.

Thiếp lập chế độ giám sát của ngân hàng biên mậu;

3. Cho ngân hàng biên mậu khuyến khích và chính sách ưu đãi, thành lập thị trường
kinh doanh thống nhất;

4. Dành cho ngân hàng biên mậu và ngân hàng thương nghiệp giao lưu hoạt động,
triển khai hoạt động lành mạnh và cạnh tranh tốt;
5.

Khuyến khích ngân hàng biên mậu tổ chức và sáng tạo nghiệp vụ mới;

6.

Hoàn thiện biện pháp đầy đủ và rõ ràng của ngân hàng biên mậu.

2.

Lịch sử vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu về quan hệ Trung - Viêt sau năm 1991
Chính sách đổi mới từ năm 1986 đến nay khoảng hơn 25 năm đổi mới, đã tác
động đến mọi mặt đời sống của cả xã hội Việt Nam trên tất cả mọi phương diện. Sự
đánh giá quá trình 25 năm chuyển biến của hoạt động tinh thần của người Việt là vô
cùng quan trọng, bởi vì cũng trong khoảng thời gian này, thế giới cũng đang đối
diện với một chuyển động lớn nhất trong lịch sử nhân loại: biến đổi khí hậu, sự
khan hiếm của tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái kinh tế của Âu Mỹ, sự bùng nổ
của thế lực Trung Quốc, sự xung đột các tôn giáo ở Trung Đông… Thế giới và nhân
loại đang đứng trước một sự thay đổi lớn về môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội và
tâm linh con người. Trong khi đó, kinh nghiệm 25 năm đổi mới và chuyển biến lớn
của xã hội Việt Nam đã để lại nhiều bài học sâu sắc về mặt ứng xử của con người
trước thay đổi của môi trường - môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế.

5



Trong kết toán mậu dịch biên mậu, Phạm Kim Nga [24] phân tích số liệu từ
năm 1991- năm 2006 mậu dịch xuất nhập khẩu hai nước Trung Việt, tìm hiểu đặc
trưng và hiện trạng phát triển của mậu dịch hai nước, phát hiện vấn đề chủ yếu là
mậu dịch hai nước mất cân đối, phân tích nguyên nhân mậu dịch mất cân đối. Chu
Tăng Lương [23] nghiên cứu phát hiện những năm gần đây trong mậu dịch đối
ngoại Việt Nam vẫn là trạng thái nhập siêu.
Trong vị trí của hai bên mậu dịch, Vương Quyên [36] vận dụng thiệt bị phần
mềm SPSS phân tích số liệu thống kê thực tế mậu dịch hai bên Trung - Việt, phát
hiện quan hệ số liệu là 0.981, chỉ ra hai nước có thể hỗ trợ với nhau.
2.2. Các công trình nghiên cứu về biên mậu Trung - Việt
Trong chính sách mậu dịch Trung - Việt, Nguyễn Văn Chính cho rằng hai nước
đều đang ở thời đại nền kinh tế có kế hoạch chuyển hướng kinh tế thị trường, tồn tại
nhiều nguyên nhân hạn chế,ví dụ như: mâu thuẫn xã hội rất phức tạp, kỹ thuật lạc hậu,
pháp luật không thuận tiện, nhưng theo chính phủ hai nước với cải cách mới, chính phủ
hai bên có thể mượn ưu thế ví dụ như: thuận lợi của giao thông địa lý, nguồn gốc lịch
sử và cấu trúc của sản phẩm bổ sung cho nhau, thúc đẩy phát triển toàn diện của quan
hệ mậu dịch hai bên. Nguyễn Thị Thủy [44] giới thiệu quan hệ hợp tác mậu dịch hai
nước Trung - Việt, phân tích các nguyên nhân có lời phát triển quan hệ mậu dịch hai
nước Trung - Việt ví dụ như: địa lý, chính trị, văn hóa v.v...

1.

Nghiên cứu vấn đề về phát triển mậu dịch Trung - Việt

2.

Nghiên cứu chính sách thúc đẩy phát triển mậu dich Trung - Việt
Nguyễn Thị Khi Dung [9], Viện Nghiên Cứu Quản lý kinh tế Trung Ương

(Chủ nhiệm đề tài cấp Bộ 1999): ''Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng

cơ chế chính sách và các biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu vực cửa
khẩu trên bộ phía Bắc Việt Nam''. Tác giả khẳng định rằng, giao lưu kinh tế qua
biên giới là sự thể hiện xu thế hội nhập kinh tế giữa các nước gần nhau về vị trí địa
lý, thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng.

6


Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng
hóa Việt Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ thời kỳ đến 2005", do tác giả
Phạm Thị Cải [2] làm chủ nhiệm cho thấy: Phát triển thương mại hàng hóa Việt
Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ là chủ trương của cả Chính phủ Trung
Quốc và Chính phủ Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Đăng Ninh [25] trong ''Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt
động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc'', NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, khẳng định, cùng với quá trình cải cách và mở cửa,
trên cơ sở nhận thức vai trò của hoạt động kinh tế biên mậu mà trọng tâm là việc
thúc đẩy giao lưu kinh tế qua các cửa khẩu trên bộ, Chính phủ Việt Nam đã ban
hành hàng loạt các chính sách có liên quan để hỗ trợ cho quá trình này.
“Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ 2006 – 2010” của
Bộ Thương mại [1] nhận định: Trung Quốc là một nước đang phát triển có dân số
lớn nhất thế giới, kinh tế phát triển vào loại nhanh nhất thế giới. Ngay từ những
ngày đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có một chiến lược khá toàn diện trong
việc phát triển biên mậu, cho đến ngày nay đang tham gia sâu vào thể chế kinh tế
thế giới nhưng về cơ bản vẫn duy trì những chính sách đó.
2.3. Các công trình nghiên cứu về hoạt đồng “Ngân hàng tự phát”
Tóm lại, qua đánh giá sơ bộ tình hình nghiên cứu có thể thấy rằng, các công
trình nghiên cứu đã thực hiện mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh trong quan hệ
thương mại Trung - Việt. Chưa có công trình nào đi sâu vào việc đánh giá một cách
có hệ thống thực trạng và triển vọng “Ngân Hàng Ngoài Đường”. Hiện nay, nhiều

văn bảng chủ yếu phân tích những phương diện như cấu trúc mậu dịch, tiêu thụ mậu
dịch, địa vị mậu dịch, chính sách mậu dịch v.v... Một phần văn bản nghiên cứu vấn
đề tồn tại mậu dịch Trung - Việt và nguyên nhân hạn chế phát triển mậu dịch TrungViệt, đưa ra chính sách cải thiện.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
“Ngân Hàng Tự Phát” ở một số khu vực biên giới Trung - Việt.

7


3.2. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
- Làm rõ nguồn gốc lịch sử của hoạt động biên mậu “Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ nguồn gốc xã hội của hoạt động biên mậu “Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ nguồn gốc kinh tế của hoạt động biên mậu Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ tác động của “Ngân Hàng Tự Phát” đối với kinh tế biên mậu Việt –
- Khảo sát và đánh giá thực trạng phát triển của Ngân hàng tự phát”.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý đối với “Ngân hàng tự phát”.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn phương pháp nghiên cứu mang tính liên

ngành: lịch sử, văn hóa, kinh tế...
1. Khảo sát thực trạng phát triển của nền kinh tế Việt Nam, thông qua các tài liệu, sự
kiện và các hoạt động kinh tế biên mậu thể hiện trạng thái của mậu dịch biên giới
Trung - Việt.
2. Tổng hợp các tư liệu liên quan đến mậu dịch biên giới Trung - Việt ở khu vực
biên giới Trung - Việt, chủ yếu là khu vực biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và
tỉnh Lào Cai Việt Nam và trên thế giới.

3. So sánh sự phát triển của mậu dich biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và tỉnh
Lào Cai Việt Nam.
4. Khảo sát thực tế ở một số biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và tỉnh Lào Cai
Việt Nam theo hướng tiếp cận liên ngành Dân Tộc Học và Xã Hội Học.
5.

Đóng góp mới
Làm rõ thực trạng “Ngân hàng tự phát” có lợi ích và suy yếu nào để phát triển

biên mậu Trung Việt.
Đề xuất một số giải pháp để cải thiện chính sách “Ngân hàng tự phát” Trung Quốc.

6.

Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

8


Chƣơng 1: Khái quát lịch sử phát triển mậu dịch và hoạt động giao dịch tiền tệ


biên giới Trung - Việt

Chƣơng 2. Thực trạng pháp triển của hoạt động “Ngân hàng tự phát” ở biên
giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và Lào Cai Việt Nam
Chƣơng 3. Phân tích và đánh giá về hoạt động của “Ngân hàng tự phát”


9


Chƣơng 1.
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MẬU DỊCH VÀ HOẠT ĐỘNG GIAO
DỊCH TIỀN TỆ BIÊN GIỚI Trung - Việt
1.1. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cổ đại
Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, thiết
lập một vương triều phong kiến tập quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong lịch
sử Trung Quốc. Nhà Tần phía Bắc đánh đuổi Hung Nô, xây dựng Vạn lý trường
thành để bảo vệ bờ cõi của mình; nam chinh bắc chiến, thiết lập quận huyện để cai
trị, sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính Bách Việt, đã lập thêm bốn quận Mân Trung,
Nam Hải, Quý Lâm, Tượng Quận. Tượng Quận nằm ở Bắc bộ Việt Nam ngày nay,
nhưng nhà Tần mệnh vận rất ngắn, sớm bị diệt vong.Nhà Hán ra đời. Vào đời Hán
Vũ Đế, đời nhà Hán trong khu Lĩnh Nam thiết lập 09 quận, trong đó có Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Nam là ba quận hiện nay là Trung bộ và Bắc bộ Việt Nam.
Nhà Đường thay thế nhà Hán trị vì đất nước, đời Nam Bắc triều thống trị Giao
Châu mấy trăm năm. Nhà Đường mới đầu đặt Giao Châu là Tổng quản phủ, sau đó
lại đổi thành Giao Châu Đô đốc Phủ năm 679 lại đổi tên thành An Nam Đô Hộ Phủ
thành phủ, hiện nay là Hà Nội. Năm 939, Ngô Quyền tự xưng vua, Bắc bộ Việt Nam
bắt đầu độc lập với Trung Quốc. Lãnh thổ của triều Nguyên vượt quá Hán Đường.
Nửa sau thế kỷ 13, Nhà Nguyên đã ba lần tấn công xâm lược nước Đại Việt và cả ba
lần đều bị thất bại. Nhưng không lâu, nhà Nguyên và nước Việt Nam lại khôi phục
quan hệ truyền thống bang giao. Từ đó đến cuối Nguyên, sứ thần của hai nước đi lại
thường xuyên và cũng không còn đối đầu quân sự quy mô lớn nữa. Cả hai nước duy
trì mối quan hệ hòa bình và thân thiện.
Nhà Minh thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình. Sau khi, Chu Nguyên Chương
lên làm Hoàng đế, An Nam [19] đã nhận cáo dụ của nhà Minh và xin nhà Minh sắc
phong, thiết lập mối quan hệ của nhà Minh với nước An Nam. Mối quan hệ của Trung

Quốc với các nước Đông Nam Á trong thời kỳ này là thịnh vượng nhất.

10


Mối quuan hệ ấy được hình thành từ nhà Minh duy trì cho đến thời kỳ nhà Thanh
(năm 1644-1840). Năm 1666, nhà Thanh chính thức phong Lê Duy Hỷ làm vua Đại
Việt [13], từ đó nước Đại Việt định kỳ cống vật cho Nhà Thanh, mối quan hệ hòa
hảo giữa hai nước duy trì hơn hai trăm năm. Nhân dân được sống trong hòa bình.
Nhà Tống, mậu dịch có đường bộ và đường thủy. Mậu dịch đường thủy chủ
yếu là Khâm Châu, Liêm Châu (hiện nay là huyện Hạ Phố, tỉnh Quảng Châu), từ
Đại Việt đi thuyền đến, đường bộ gần phải mất nửa ngày mới đến. Nếu từ Đại Việt
đến Vĩnh An Châu (nay là Tỉnh Quảng Ninh) đến Khâm Châu thuyền phải đi mất
một ngày mới đến.
Khi mới bắt đầu từ Đại Việt đi thuyền đến Liêm Châu, vì đường sá xa xôi, gió
biển lớn, sóng biển cao, thường hay xảy ra tai nạn, thuyền bị đắm, cho nên những
thương nhân chuyển sang đi bên đường Khâm Châu. Đường mậu dịch bằng đường
bộ chủ yếu là tại Vĩnh Bình Trại (nay là huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam)
và Nam Giang San ...
Khi đó, những điểm mậu dịch này được gọi là Bãi Bác Dịch. Bãi Bác Dịch
nằm tại ngoại thành Khâm Châu Dịch Giang Đông, mậu dịch ở đây có hai loại: Một
loại là mậu dịch dân gian, lượng mậu dịch không lớn, gọi là tiểu cương. Chính
quyền ở đây tiến hành quan phương mậu dịch, số lượng lớn, gọi là đại cương. Dân
Châu Vĩnh An (Đại Việt) sinh sống gần bờ biển nên họ sống nhờ biển, họ bắt cá,
tôm, ngao và các loại hải sản để đi đổi với người Trung Quốc lấy gạo và vải.
Thương nhân người Việt chuyên làm nghề mậu dịch, nếu đến Khâm Châu buôn
bán, phải nộp công văn trước cho quan phủ Khâm Châu mới được từ đường biển
vào Bãi Bác Dịch Khâm Châu tiến hành giao dịch, thương nhân Đại Việt và quan
viên mang các hàng đến bán chủ yếu như vàng, bạc, đồng tiền, hương trầm, hương
quang, hương thục, hương sinh, chân châu ngọc trai, ngà voi, sừng trâu...

Tiểu thương nhân của Tống triều thì mang giấy, bút, gạo, vải... đến giao dịch với
người Việt.

11


Những thương nhân giàu có thường là người Tứ Xuyên [46], họ mang đến thổ
cẩm, mua về các loại hương của Đại Việt, số lượng giao dịch có thể đạt đến hàng
nghìn lạng, nhưng một năm chỉ đi lại được một lần. Hai bên mua và bán đàm phán,
họ ngồi với nhau vừa uống rượu, vừa trò chuyện, vừa trả giá. Quan phủ theo tỉ lệ
400 tiền thu 30 tiền thuế. Hai bên đều có một số gian thương, triều Tống có người
bán thuốc giả, có thương nhân người Việt xảo quyệt trộn đồng vào vàng bạc, hương
trầm ngâm muối, để cho nó chìm được xuống nước.
Bãi Bác Dịch Thủy Bình Trại chỉ cách Đại Việt một dòng sông là thị trường
giao dịch chủ yếu của đường bộ. Ở đây, mậu dịch dân gian là chủ yếu. Giao Chỉ [15]
chủ yếu có các sản phẩm là hương liệu, sừng trâu, ngà voi, vàng bạc và muối… để
đổi các loại hàng vải, lụa với người Tống Triều.
Huyện Vũ Duyên (nay là huyện Vũ Minh, Trung Quốc) sản xuất loại vải khổ
hẹp rất được ưa chuộng. Điểm mậu dịch Nam Giang San (nay là biên giới Long
Châu, Quảng Tây) là nơi mậu dịch dân gian tiến hành mậu dịch của Tô Mậu Châu
Đại Việt, dân biên giới Đại Việt mang đồ thổ sản của miền núi đến đổi hàng vải,
cẩm, the lụa của dân biên giới nhà Tống. Ngoài ra, còn có những mậu dịch phi
pháp.
Gần biên giới Đại Việt có nơi thịnh sản mỏ vàng, thiếu lao động, đã lừa người
từ Tống Triều bán sang Đại Việt để làm nô lệ, khai thác mỏ vàng.
“Nam Châu khách lữ, lừa người làm nô gánh phụ, khi đến Châu Động thì trói
lại mang đi bán, mỗi người bán được hai lạng vàng. Từ Châu đông lại bán đến
Giao Chỉ, bán được ba lạng vàng, mỗi năm bán ra mấy trăm gần nghìn người, nếu
ai có năng khiếu nghệ thuật thì bán giá gấp đôi, hiểu biết văn sách thì hơn bán
được hơn hai lần nữa. Lấy khăn che mặt đi đường, đầu ngẩng lên để không nhìn

thấy đường mà biết là đi đâu. Ra khỏi nước, họ chỉ biết người chủ và phải làm nô lệ
cả đời, trên trán bị khắc 4-5 chữ, đàn bà con gái thì khác chữ vào eo. Họ bị bắt giữ
đánh đập nếu chạy trốn sẽ bị giết chết” [75]

thời nhà Nguyên, khi Đại Việt trong thời kỳ triều Trần, vì triều Trần
áp dụng

12


chính sách phong tỏa, mậu dịch của hai nước Trung - Việt đã bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, nhưng hai dân biên giới trên sinh hoạt vẫn cần phải đi lại trao đổi. Mậu dịch
dân gian thời kỳ này vẫn được tiến hành. Hàng hóa của Đại Việt có bạc trắng, đồng,
thiếc, ngà voi, lông thú, quế, cau…đổi với hàng Trung Quốc là lụa, thổ cẩm, vải,
lược ngà, giấy và đồ đồng, đồ sắt.
Mậu dịch của thời Minh vẫn có đường thủy và đường bộ, vì đi đường thủy số
lượng vận chuyển lớn và nhanh, thuận tiện. Họ đã mở Phường Thành, Phật Đào hai
đường thủy Tao, Ninh Việt, Dung Luân hai trạm thế vận chuyển, Phật Đào, Long Môn.
Huyện Linh Sơn có Long Môn, An Xuyên. Hai mã Tao, An Hà, Cơ Mu là hai trạm vận
chuyển. Thiên Mã Sao huyện Khâm châu là trạm đường thủy và đường ngựa đều đi
được. Đại Việt cũng có thiết lập An Thủy Sao của Tĩnh An Châu, Đồng An trạm vận
chuyển, Vạn Ninh Thủy Tao, Vạn Ninh trạm vận chuyển của huyện Vạn Ninh.

1.2. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cận đại
Bảng 1.1. Tình hình cửa khẩu biên giới tỉnh Quảng Tây TQ và VN
Cửa khẩu Trung Quốc
Đông Hưng
Bằng Tượng
Hữu Nghị Quan
Thủy Khẩu

Long Bang
Động Trung
Ái Điểm
Bình Nhi Quan
Khoa Giáp
Đo Lông
Nhạc Vu
Bình Mãng

13


Nhà Thanh từ Trung Quốc sang Việt Nam bằng đường bộ chủ yếu qua 7 con
đường, ở tỉnh Quảng Tây có 5 đường đi. Con đường thứ nhất là từ Bằng Tường, Quảng
Tây thông qua thị Trấn Nam Quan (nay là Hữu Nghị Quan), đi vào Văn Uyên, Việt
Nam (nay là Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn Việt Nam). Đây là đường chỉ dùng để vận
chuyển đồ cống cho triều đình thương khách dân gian không được đi lại.

Đường thứ hai là từ Bằng Tường, Quảng Tây đi sang Văn Uyên, Thoát Lãng,
Lạng Sơn. Đường thứ ba là từ Phủ Tư Minh (nay là huyện Ninh Minh) qua Ma
Thiên Lĩnh, qua Tư Linh, Lộc Bình Nhì Châu đến Việt Nam.
Đường thứ bốn là từ Dật Long Châu Bình (sau gọi là Quan, nay thuộc thành
phố Bằng Tường) sang Thất Uyên Châu Việt Nam. Đường thứ năm là Quan Long
Khẩu của Long Châu sang Đạt Long, Việt Nam.
Trong địa phận của tỉnh Vân Nam có hai đường đi: đường thứ nhất là Từ Mông
Tự qua Liên Hoa Than đi sang Trình Lan động Việt Nam; đường thứ hai là từ Dật
Hà Dương sang Việt Nam. Trước thời kỳ Càn Long (1736-1795) mậu dịch Trung Việt đóng cửa. Trong thời kỳ Càn Long, theo yêu cầu của vua Việt Nam, Nguyễn
Quang Bình, mới bắt đầu hồi phục thương mại mậu dịch.
Thời kỳ Dân Quốc, tiền lưu thông trên thị trường rất phức tạp, chế tạo của
Pháp lưu thông tại Việt Nam là đồng tiền xu Pháp Quang, tiền giấy Pháp giấy, còn

người Anh sử dụng tại Hồng Kông là đồng tiền Cảng Dương, tiền giấy gọi là Cảng
Giấy. Xưa khi Lục Vinh Đình cai quản Quảng Tây và năm 1918 phát hành đồng tiền
và tiền giấy “tiền Lão Quế” [31], dân biên giới gọi là “tiền Lão Lộc”.
Năm 1932, Lục Vinh Đình lại tiếp tục phát hành “tiền Quế”. Có hai loại tiền:
tiền đồng xu và tiền giấy, đồng thời, còn lưu thông nhiều loại tiền khác. Đến thế kỷ
20, những năm 40, nhất là năm 1946 - 1949, vì thời cuộc không ổn định nên đồng
tiền sử dụng còn hỗn loạn, phức tạp. Đồng tiền không ổn định, mất giá rất nhanh,
sáng tối tỷ lệ khác biệt rất lớn, chẳng hạn như buổi sáng số tiền có thể mua được
một đấu gạo, chiều thì chỉ đủ mua một nửa đấu gạo thôi.

14


Việt Nam sử dụng đồng tiền là của ngân hàng Hội Lý Đông Phương Pháp phát
hành “BO SHI TE”. Biến động tỷ giá ảnh hưởng lớn đến phát triển thương mại của
cả hai bên. Từ năm 1840, sau chiến tranh thuốc phiện, chính sách đóng cửa tự thủ
của Trung Quốc bị phá vỡ, hàng nhập từ phương Tây sang đến duyên hải đông Nam
bị bán phá giá , dần dần lan rộng vào lục địa, sau mấy chục năm sau đó, một số sản
phẩm mới từ ba tuyến đường vào biên giới Việt Trung.
Tuyến đường thứ nhất là Hương Cảng - Quảng Châu Ngô Châu - Nam Ninh Long Châu hoặc Bạch Sắc; tuyến thư hai là Hải Phòng Việt Nam - Hà Nội - Lạng
Sơn - Long Châu Quảng Tây Trung Quốc; Tuyến đường thứ ba là Hải Phòng Việt
Nam - Hà Nội - Lào Cai - Hà Khẩu, lúc đó thuộc tỉnh Quảng Đông, Đông Hưng Móng Cái Việt Nam cũng là một điểm mậu dịch, nhưng không bằng Long Châu Lạng Sơn, Hà Khẩu - Lào Cai phồn vinh.
Khi đó giao thông không thuận lợi, đường bộ quốc lộ rất ít, giao thông vận
chuyển đắt, các phương tiện vận chuyển thô sơ. Chủ yếu là do người gánh ngựa thồ,
lượng vận chuyển có hạn. Vận chuyển bằng thuyền đi theo đường thủy rất lớn, nó
vừa thuận lợi, vừa rẻ cho nên những thị trấn gần bờ sông từ từ phát triển, trở lên
phồn vinh. Long Châu nhờ vào sông Lệ Giang (nay là sông Tả) nguồn chảy từ Việt
Nam, đi theo dòng sông Chảy, qua tổng Tà, Phục Thuận, dọc theo nước chảy về
phía đông, qua Quý Cảng, Ngô Châu đến Quảng Châu.
Hà Khẩu dựa vào sông Nậm Thi. Mặc dù Đông Hưng có đường biển, phía nam

có thể đi đến Hồng Kỳ, Hải Phòng, miền Bắc có thể đi đến được Bắc Hải, Hồng
Kông, nhưng đường lộ không có đường sông và cũng không có con đường lộ lý
tưởng, vì vậy không tốt bằng Long Châu, Hà Khẩu phát triển và thịnh vượng. Đến
thời kỳ Dân Quốc, hàng ngoại đã đi vào thị trường Trung Việt nhiều năm .
Có hai loại muối ăn, muối chín và muối thô. Muối chín nhỏ mịn, nhưng hương
vị không ngon bằng muối biển, giá đắt hơn so với muối thô. Muối biển giá rẻ nhưng
thô. Sức mua của dân biên giới không cao, thường mua muối biển.

Quảng Tây, đi theo đường bờ biển Hòa Phổ, Bắc Hải, Khâm Châu
làm bằng

15


muối biển, họ gánh đến Ngọc Lâm, chuyển qua Hằng Châu, Nam Ninh và sau đó
bán ra biên giới. Biên giới Vân Nam cũng có hai con đường chuyển muối ăn, một
đường là được vận chuyển từ đất liền là muối giếng (còn gọi là muối nấu chín) và
một con đường khác là dọc theo sông Hồng vận chuyện muối biển đến Hà Khẩu Lào Cai Việt Nam.
Lúc đó, biên giới chưa có đèn điện, dân biên giới ban đêm đốt đèn dùng dầu,
không có đều kiện dùng giá cao dầu tây (kerosene, dầu hỏa), chỉ có thể dùng những
dầu tự sản xuất như dầu trẩu, dầu vừng, dầu hạt cải.
Mối quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam có hai ngàn năm lịch sử. Có thể
nói, trong quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á thì quan hệ giữa
Trung - Việt thân mật nhất.
Pháp xâm lược Việt Nam, không chỉ muốn xâm chiếm mà còn muốn phá hoại
mối quan hệ truyền thống Trung - Việt . Hơn thế nữa, Việt Nam biên giới giáp với
tỉnh Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, mục tiêu quan trọng của Pháp là muốn lợi
dụng Việt Nam làm cơ sở để xâm lược Trung Quốc. Đối với chính sách xâm lược và
chiến tranh của Pháp, chính phủ nhà Thanh ban đầu có thái độ khá kiên quyết,
nhưng trong chiến tranh thời kỳ đầu với sự thất bại của quân Thanh, lập trường của

chính phủ nhà Thanh đã phát sinh biến đổi.
Chính sách cơ bản của chính phủ nhà Thanh là để tránh chiến tranh cầu hòa,
nhân nhượng và nhượng bộ. Ngày 09 tháng 06 năm 1885, Lý Hồng Chương [20]
đại diện cho chính phủ nhà Thanh và đại sứ viên Pháp tại Trung Quốc Bade Nuo đã
ký “Trung - Pháp hội định điều khoản Việt Nam” hoặc gọi là “Hiệp ước Trung Pháp”. Trong hiệp ước này, chính phủ nhà Thanh chính thức công nhận Pháp là
thực dân thống trị Việt Nam.
Kể từ đó, cắt đứt quan hệ quan phương truyền thống giữa Trung Quốc và Việt
Nam đã kéo dài hơn 2000 năm. Sau khi các cường quốc phương Tây chiếm đóng
các nước khu vực Đông Nam Á, biến các nước này thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa, nơi đầu tư và nơi cung cấp nguyên liệu của chúng. Do Trung Quốc với khu vực

16


×