Tải bản đầy đủ (.docx) (214 trang)

Khảo sát hoạt động của một số liên từ gốc hán trong các tác phẩm văn chính luận của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.59 KB, 214 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI
KHOA NGÔN NGỮ HỌC

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

“KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ
LIÊN TỪ GỐC HÁN TRONG CÁC TÁC
PHẨM VĂN CHÍNH LUẬN CỦA HỒ CHÍ
MINH”
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀO THANH LAN

Hà Nội - 2006


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo cách phân chia của ngữ pháp truyền thống, hư từ là phạm trù từ loại
đối lập với thực từ. Hư từ tuy có số lượng rất ít so với thực từ nhưng có tần
số xuất hiện lớn và có vai trò quan trọng trong hoạt động cú pháp.
Trong tiếng Việt hiện đại, có khá nhiều hư từ có nguồn gốc từ tiếng Hán
như phó từ, liên từ, giới từ. Trong đó, liên từ là nhóm từ đặc biệt cần được
chú trọng khi nghiên cứu các mối quan hệ ngữ pháp nội câu và liên câu cũng
như mối quan hệ trong văn bản. Việc nghiên cứu các hư từ gốc Hán trong đó


có liên từ gặp rất nhiều khó khăn bởi vì ngoài những mối quan hệ ngữ nghĩa,
ngữ dụng thông thường, chúng còn liên quan đến sự ảnh hưởng của yếu tố
Hán cũng như chịu sự tác động của các quy luật về sự biến đổi ngữ âm, ngữ
nghĩa trong quá trình hoà nhập vào tiếng Việt. Chính vì thế, cho đến nay, tuy
đã có một số công trình nghiên cứu về hư từ tiếng Việt, nhưng việc nghiên
cứu các hư từ có nguồn gốc tiếng Hán mà cụ thể là các liên từ gốc Hán theo
hướng chuyên sâu thì hầu như chưa có. Đa số các công trình nghiên cứu từ
Hán Việt mới chủ yếu khảo sát lớp từ ngữ gốc Hán nói chung hoặc lớp từ
ngữ Hán Việt, hoặc Hán cổ, Hán Việt Việt hoá nói riêng trên hai bình diện là
từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ âm lịch sử, chưa có công trình nào khảo sát hư
từ gốc Hán, nhất là liên từ trong một số những tác phẩm cụ thể.
Do đó, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu liên từ gốc Hán nhằm tìm hiểu
quá trình hoạt động và những biến đổi (nếu có) của chúng trong tiếng Việt,
góp phần vào việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt nói chung và ngữ pháp
lịch sử tiếng Việt nói riêng.

2


Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ đi vào "Khảo sát
hoạt động của một số liên từ gốc Hán qua các tác phẩm văn chính luận của
Hồ Chí Minh"
2.

Mục đích, ý nghĩa của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài

Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này là tiến hành nghiên
cứu, khảo sát hoạt động chức năng của một số liên từ có nguồn gốc từ tiếng
Hán thường dùng trong tiếng Việt trong các tác phẩm văn chính luận của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhằm thấy được đặc điểm, sự hoạt động cụ
thể cũng như sự thay đổi của chúng trong tiếng Việt theo hướng Việt hoá.
2.2 Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu, khảo sát hoạt động chức năng của một số liên từ gốc
Hán trong các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh giúp chúng ta có
cái nhìn tổng quát về sự hiện diện và hoạt động của nhóm từ này cũng như
xu hướng Việt hoá của chúng trong tiếng Việt hiện đại.
Chúng tôi mong rằng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần xứng
đáng vào việc học tập, nghiên cứu và đặc biệt là thực tiễn giảng dạy từ Hán
Việt trong trường phổ thông vì hiện nay, theo một số khảo sát của chúng tôi
và qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu thì thấy kiến thức về từ Hán
Việt của học sinh phổ thông rất kém.
3.

Đối tượng, nhiệm vụ của đề tài

3.1 Đối tượng
Đối tượng khảo sát của đề tài là hoạt động chức năng của một số đơn vị
liên từ có nguồn gốc tiếng Hán trong tiếng Việt hiện đại (Có danh sách kèm
3


theo, dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn thạc sĩ Phạm Thị Hồng Trung
- 2003 và một số công trình nghiên cứu khác)
Về tư liệu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chọn các tác phẩm văn chính
luận của tác giả Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, bao gồm tất cả những tác
phẩm văn chính luận của Người được viết từ 1919- 1969.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Nêu lên được những cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài
-


Khảo sát sự hiện diện và hoạt động của các liên từ gốc Hán kể trên

trong các văn bản tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh.
-

Rút ra những nhận xét bước đầu về hoạt động của các liên từ gốc

Hán trong tiếng Việt hiện đại.
-

Đưa ra ý kiến đề xuất cho việc học tập và nghiên cứu các liên từ gốc

Hán trong tiếng Việt.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng là phương
pháp miêu tả. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê, so
sánh và phân tích cải biến để bổ trợ.
4.1 Phương pháp miêu tả
Miêu tả là phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ dựa trên những sự quan sát
trực tiếp các hiện tượng ngôn ngữ. Chúng tôi quan sát hoạt động của các liên
từ gốc Hán trong các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh: tần số xuất
hiện, vị trí, chức vụ ngữ pháp và ý nghĩa của mỗi từ. Từ đó, chúng tôi miêu
tả lại kết quả nghiên cứu và rút ra những đánh giá, nhận xét về hoạt động của
chúng.
4



4.2 Phương pháp thống kê
Thống kê là phương pháp "tập hợp có hệ thống các hiện tượng riêng lẻ để
phân loại, so sánh và nhận định tình hình chung" 1. Bởi vậy, công việc đầu
tiên mà chúng tôi tiến hành là thống kê, phân loại sự xuất hiện của các liên
từ gốc Hán trong các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh. Toàn bộ dữ
liệu chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại là 12 tập từ tập 1 đến tập 12 của
bộ "Hồ Chí Minh toàn tập"2 do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản.
4.3 Phân tích cải biến
Trong khi miêu tả, chúng tôi sử dụng thao tác phân tích cải biến. Vận dụng
thao tác này, chúng tôi tiến hành hai bước sau: Bước 1, xem xét chức năng
của các liên từ gốc Hán trong cấu trúc của phát ngôn. Bước 2, tạm thời lược
bỏ các liên từ ra khỏi cấu trúc của câu và đem so sánh hiệu lực giao tiếp của
hai cấu trúc ấy để thấy được hiệu lực giao tiếp vốn có, đích thực của liên từ
gốc Hán đang khảo sát.
4.3 Phương pháp so sánh
Trong quá trình khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi so sánh các hiện tượng
ngôn ngữ với nhau để tìm ra những nét giống hoặc khác nhau để xác định và
nhận diện chúng. Các đơn vị ngôn ngữ được chúng tôi so sánh là các liên từ
gốc Hán. Có lúc, chúng tôi phải nhóm các liên từ có nghĩa và cách sử dụng
tương tự nhau thành một nhóm, đôi khi lại đối lập chúng với nhau để thấy
được đặc điểm và hoạt động của chúng một cách đầy đủ nhất.
5. Cái mới của đề tài

1 Nguyễn Văn Đạm(1999) - Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt - NXB Văn hoá thông tin Hà Nội.
2 Hồ Chí Minh toàn tập(2005) - CD room - NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
5


Như đã nói ở trên, chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu sự

hoạt động của các liên từ gốc Hán trong tiếng Việt. Chính vì thế, "Khảo sát
hoạt động của của một số liên từ gốc Hán trong các tác phẩm văn chính luận
của Hồ Chí Minh" là đề tài mới. Chúng tôi đã khảo sát, thống kê, phân tích
sự hiện diện và hoạt động của lớp từ này trong những tác phẩm văn học cụ
thể để xem tiếng Việt đã tiếp nhận các liên từ gốc Hán này như thế nào và
trong quá trình hoạt động ở tiếng Việt, chúng giữ vai trò như thế nào và có
những thay đổi gì, từ đó bước đầu có thể đưa ra những đề xuất cho việc sử
dụng lớp từ đặc biệt này trong tiếng Việt.
6. Kết cấu của luận văn

Mở Đầu
Chương 1: Những cơ sở lí thuyết chung có liên quan đến đề tài
I. Khái quát chung về hư từ tiếng Việt
1.

Phạm trù từ loại hư từ

2. Hệ thống các tiểu loại của hư từ
II. Liên từ gốc Hán trong tiếng Việt
1.

Từ loại liên từ trong tiếng Việt

2.

Tiêu chí nhận diện các liên từ gốc Hán trong tiếng Việt

3.

Danh sách liên từ gốc Hán trong tiếng Việt hiện đại


Chương 2: Kết quả thống kê sự xuất hiện của các liên từ gốc Hán trong các
tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí minh
I. Giới thuyết về tư liệu khảo sát
II. Kết quả khảo sát
6


Chương 3: Nhận xét bước đầu về hoạt động của các liên từ gốc Hán trong
các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh; ý kiến đề xuất.
I. Nhận xét chung
II. Phân tích chức năng và cách sử dụng của một số liên từ Hán Việt trong
các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh
III. Một số nhận xét bước đầu về sự hiện diện và hoạt động của các liên từ
gốc Hán trong tiếng Việt, ý kiến đề xuất.

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

7


CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
I. Khái quát chung về hư từ tiếng Việt
1. Phạm trù từ loại hư từ
Trong cơ cấu của các ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính như tiếng Việt thì
thực từ và hư từ là hai phạm trù từ loại rất cơ bản. Việc phân chia từ loại
cũng như đặc điểm từ loại của tiếng Việt đã được quan tâm từ lâu. Hầu hết

các nhà nghiên cứu khi đi vào nghiên cứu ngữ pháp đều dành riêng một
phần công trình để phân định từ loại tiếng Việt. Có thể khái quát sự nghiên
cứu về từ loại của các nhà nghiên cứu thành hai giai đoạn là giai đoạn cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và giai đoạn những năm giữa thế kỉ 20 trở lại đây.


giai đoạn thứ nhất, tác giả Trần Trọng Kim3 phân tiếng Việt thành 13

loại: danh từ, mạo từ, loại từ, chỉ định từ, loại danh từ, tính từ, động từ, trạng
từ, giới từ, liên từ, tán thán từ, trợ ngữ từ, từ đệm. Bùi Đức Tịnh 4 phân các
“tự ngữ” thành tám loại: danh từ, đại từ, trạng từ, động từ, phó từ, liên từ,
giới từ và giới ngữ, hiệu từ. Dễ thấy là những cách chia này chủ yếu dựa trên
sự mô phỏng các ngôn ngữ châu Âu.


giai đoạn thứ hai, các tác giả khi phân chia từ loại đã đưa ra những tiêu

chí cụ thể. Nhìn chung, các tác giả đều chia từ tiếng Việt thành hai nhóm lớn
là thực từ và hư từ. Theo đó, hư từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng,
chúng không phải là những đơn vị định danh, không thể hiện toàn ẹn một ý
nghĩa chân thực nào mà chỉ thể hiện một ý nghĩa ngữ pháp nào đó như : thời,
thẻ, giống, số, cách....hay các quan hệ liên kết. Về chức năng, hư từ là những

3 Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ và Phạm Duy Khiêm - Phạm văn Việt Nam - NXB Tân Việt, 1940
4 Nguyễn Minh Thuyết- Cách xác định thành phần câu tiếng Việt, in trong "Tiếng Việt và các ngôn
ngữ Đông Nam Á" - NXB Khoa học xã hội, 1988

8



từ không đứng độc lập, không có khả năng làm trung tâm đoản ngữ, tạo lập
thành phần câu mà chỉ có chỉ khả năng làm thành tố phụ cho trung tâm đoản
ngữ hoặc nối kết các thành phần câu, các đoản ngữ. Một số tác giả khác còn
phân chia kho từ vựng tiếng Việt thành ba loại: thực từ, hư từ và một nhóm
từ độc lập với hư từ và thực từ được gọi là tình thái từ hoặc ngữ thái từ.
Như thế có thể thấy về cơ bản các tác giả đều thống nhất trong sự phân
loại thành hai mảng thực từ và hư từ tiếng Việt.
2. Hệ thống các tiểu loại của hư từ
Việc phân chia các tiểu loại từ nhỏ hơn trong lớp hư từ cho đến nay vẫn
còn khá nhiều ý kiến khác nhau.
Lê Biên5 chia hư từ thành bốn loại là phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ và
thán từ.
Tác giả Nguyễn Kim Thản

6

chia kho từ vựng thành hai mảng: ngữ thái

từ và phi ngữ thái từ. Ngữ thái từ gồm trợ từ và thán từ; phi ngữ thái từ lại
được chia ra thực từ, hư từ và bán thực từ, bán hư từ. Trong đó, tác giả chia
quan hệ từ thành ba loại là liên từ, giới từ và hệ từ.
Tác giả Nguyễn Anh Quế7 chia hư từ tiếng Việt thành ba nhóm: Nhóm
những hư từ làm thành tố phụ đứng trước trong đoản ngữ danh từ; nhóm
những hư từ đứng trước động từ và nhóm hư từ quan hệ. Trong đó, căn cứ
vào tính chất quan hệ của các thành tố cú pháp mà những hư từ đó nối kết,
tác giả chia hư từ quan hệ thành 3 nhóm: Giới từ, liên từ và các hư từ đặc
biệt.

5 Lê Biên - Từ loại tiếng Việt hiện đại - NXB Giáo dục, HN 1999
6 Nguyễn Kim Thản - Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt - Tập 2- NXB Khoa học xã hội, HN 1964

7 Nguyễn Anh Quế - Hư từ trong tiếng Việt hiện đại - NXB Khoa học xã hội, HN 1988
9


Tác giả Nguyễn Minh Thuyết8 thì chia hư từ thành phụ từ, quan hệ từ, trợ
từ, thán từ. Nhiều người chia quan hệ từ ra hai từ loại là liên từ, giới từ.
Tác giả Nguyễn Hồng Cổn9 thì căn cứ vào khả năng làm trung tâm của
đối tố và vị tố, chia từ loại thành ba nhóm: những từ có khả năng làm đối tố,
vị tố; những từ có khả năng làm thành phần phụ cho đối tố và vị tố; những từ
liên kết cho đối tố và từ tình thái. Trong đó liên từ và giới từ được xếp chung
một nhóm - nhóm từ liên kết.
Có thể khái quát lại rằng khi đi vào nghiên cứu hư từ, khó khăn lớn nhất
mà người nghiên cứu sẽ phải đối mặt là các tiêu chuẩn phân định các lớp từ
loại nhỏ hơn không còn thuần tuý mang tính hình thức nữa. Các ý nghĩa ngữ
pháp mà các hư từ (trong đó có liên từ) hàm chứa dường như quá nghèo nàn
và khó khái quát thành các đặc điểm chung. Nói cách khác, để đi vào miêu
tả các đặc tính phạm trù của chúng, chúng ta phải có các dữ liệu nằm ngoài
kiểu dữ liệu mà ngữ pháp truyền thống thường yêu cầu, nghĩa là phải đi vào
khảo sát trong những tác phẩm cụ thể thì mới có thể thấy rõ các đặc điểm và
sự hoạt động của chúng.
II. Liên từ gốc Hán trong tiếng Việt
1.

Từ loại Liên từ trong tiếng Việt

1.1 Định nghĩa
Liên từ là một loại từ thuộc mảng hư từ và có vị trí quan trọng trong hoạt
động ngữ pháp của tiếng Việt.

8 Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp - Về khái niệm nòng cốt câu- Tạp chí Ngôn ngữ số 4- 1994

9 Nguyễn Hồng Cổn - Vấn đề phân định từ loại tiếng Việt - Tạp chí ngôn ngữ số 2- 2003
10


Theo quan điểm của ngữ pháp học truyền thống thì cho đến nay, xoay
quanh từ loại liên từ - đối tượng mà đề tài này gọi tên và nghiên cứu, khảo
sát - tồn tại những khái niệm sau đây: Quan hệ từ, từ nối, kết từ, liên từ.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học

10

thì kết từ là "từ chuyên

biểu thị quan hệ cú pháp, nối liền các thành phần trong câu với nhau".
Những từ như: do, của, và để, bởi, nếu, thì.......là những kết từ trong tiếng
Việt.
Liên từ là "kết từ dùng để chỉ quan hệ cú pháp giữa hai từ hoặc ngữ có
cùng một chức năng trong câu, giữa hai câu hoặc phân câu" 11. Những từ và,
nhưng, nếu, thì...là những liên từ trong câu.
Quan hệ từ là "những hư từ cú pháp không được dùng để diễn đạt các ý
nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay khác mà là công cụ diễn đạt các quan hệ
logic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của người bản ngữ" 12. Quan hệ
từ còn được gọi là từ nối.
Như vậy, có thể giải thích một cách khái quát như sau về 4 khái niệm trên
đây:
Quan hệ từ có tên gọi khác là kết từ hoặc từ nối. Ba tên gọi này thực chất
là sự chỉ ra các đặc điểm của 1 nhóm từ có chức năng liên kết trong ngữ
đoạn, trong câu hoặc giữa các câu với nhau (chúng tôi chấp nhận tên gọi
quan hệ từ). Quan hệ từ là những hư từ dùng để diễn đạt mối quan hệ giữa
thực từ với thực từ trong các phát ngôn, nghĩa là diễn đạt mối quan hệ giữa

các khái niệm trong tư duy trừu tượng. Nhóm từ này, vì thế cũng là công cụ
diễn đạt các quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của người
10
11
12

Hoàng Phê(chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt, Tr 488 - NXB Đà Nẵng, 2005
Hoàng Phê(chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt, Tr 568 - NXB Đà Nẵng, 2005
Nguyễn Như Ý(chủ biên) - Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học - NXB Giáo dục, HN 2001

11


bản ngữ. Chúng chính là phương tiện liên kết trong các kết cấu mệnh đề với
nhau trong phát ngôn. Quan hệ từ gồm có hai nhóm nhỏ hơn là giới từ và
liên từ.
Theo tác giả Nguyễn Anh Quế

13

thì liên từ thuộc nhóm hư từ kết nối

(nhóm hư từ quan hệ từ).
Diệp Quang Ban14 không sử dụng khái niệm liên từ mà dùng khái niệm
quan hệ từ. Theo đó, tác giả phân loại quan hệ từ trong tiếng Việt thành quan
hệ từ bình đẳng và quan hệ từ phụ thuộc dựa theo các quan hệ logic. Có một
danh sách khoảng hơn 40 quan hệ từ được thống kê và miêu tả trong công
trình của tác giả.
Nhóm các tác giả Hữu Đạt, Thanh Lan, Trần Trí Dõi15 thì phân biệt từ
thực với từ hư theo chức năng tín hiệu học. Theo đó, từ hư là những từ nêu

các mối quan hệ về số lượng, thời gian, không gian, mục đích, sự đánh giá
về các kiểu quan hệ logic bằng cách đi kèm với thực từ, không làm thành cái
cần gọi tên như là đối tượng của tư duy. Các tác giả này sử dụng khái niệm
kết từ để chỉ chung hai loại từ dùng để nối kết các thực từ hoặc các vế câu là
liên từ và giới từ. Theo đó, liên từ được chia làm hai loại là liên từ bình đẳng
và liên từ qua lại.
Tác giả Phan Khôi16 đặt giới từ và liên từ vào chung một loại là quan hệ
từ và định nghĩa "Liên từ là từ dùng để làm dính nhau tự với tự, từ với từ, cú
với cú, để tỏ ra sự quan hệ giữa chúng nó".
Cao Xuân Hạo17 thì định nghĩa "Liên từ là những từ công cụ ngữ pháp có
chức năng liên kết hai yếu tố đẳng lập trong câu ghép hoặc hai câu"( Tr99).
13
14
15
16

Nguyễn Anh Quế - Hư từ trong tiếng Việt hiện đại - NXB Khoa học xã hội, HN 1988
Diệp Quang Ban - Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông , Tập 2 - NXB Đại học và THCN, HN 1989
Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan - Cơ sở tiếng Việt - NXB Văn hoá thông tin, Hn 2000
Phan Khôi - Việt ngữ nghiên cứu - NXB Đà Nẵng, 2004

12


Tác giả cũng chỉ ra rằng khi làm nhiệm vụ liên kết ở vị trí ngay đầu câu, các
liên từ, dù không chứa đựng một yếu tố hồi chỉ nào trên bề mặt, cũng vẫn
cho ta thấy rằng câu ấy bắt buộc phải có quan hệ với câu trước.
Tác giả Nguyễn Hồng Cổn18 gọi tên là liên từ và xếp loại từ này vào
nhóm kết từ có tác dụng liên kết gồm liên từ và giới từ. Cũng theo tác giả thì
vai trò quan trọng của liên từ là ở chỗ nó là một phương tiện quan trọng đầu

tiên có tác dụng liên kết văn bản về mặt hình thức.
Từ hư trong đó có liên từ thường được coi như một phạm trù từ loại đối
lập với từ thực theo cách nhìn quen thuộc của ngữ pháp truyền thống của ta.
Tuy không nói ra nhưng phần lớn người ta dễ cảm nhận chức năng ngữ pháp
của nó hơn là chức năng ngữ nghĩa trong kết hợp. Và do vậy, có lẽ cũng
không hoàn toàn ngẫu nhiên mà khi xác định phẩm chất chung nhất của hư
từ, nhiều nhà ngữ pháp học hầu như đã thống nhất cho rằng, từ hư không có
khả năng đảm nhận thành phần chính trong các kết hợp. Tuy có lí do lịch sử
của nó nhưng cách nhìn vừa nêu trên, theo chúng tôi, dù muốn dù không, có
lẽ đã ít nhiều làm cho chúng ta mơ hồ về nguyên tắc đại cương đối với quan
hệ vốn không tách rời giữa phạm trù ngữ nghĩa và ngữ pháp của ngôn ngữ
học. Hơn nữa, với cách nhấn mạnh trên thì một số sắc thái ngữ nghĩa tinh tế
trong giao tiếp hàng ngày vốn gắn với từ hư trong tiếng Việt sẽ khó bề được
phát hiện như nó đang có.
Chúng tôi nghĩ rằng cần phải xem xét các liên từ nói riêng và hư từ nói
chung trong hoạt động mở của ngôn ngữ gắn với hiệu lực giao tiếp của chính
nó từ góc nhìn ngữ dụng học. Điều đó có nghĩa là:

17
18

Cao Xuân Hạo(chủ biên) - Câu trong tiếng Việt - NXB Giáo dục - HN 2003
Nguyễn Hồng Cổn - Vấn đề phân định từ loại tiếng Việt - Tạp chí ngôn ngữ số 2- 2003

13


- Các liên từ cần được xét từ góc độ tạo nghĩa gắn với quá trình phát triển
ngôn ngữ trong mối liên hệ với quá trình phát triển nhận thức theo hướng lí
giải.

- Các liên từ, xét về mặt cấu trúc cần được xét gắn liền với cơ chế tín hiệu
học- một cơ chế trực tiếp chi phối các mặt hoạt động và quá trình phát triển
ngôn ngữ mà ở đấy, sự tồn tại của nó luôn dựa trên nguyên tắc hình thức
không tách rời nội dung.
- Các liên từ phải được xem xét gắn với hiệu lực giao tiếp từ góc nhìn ngữ
dụng học cùng với quan điểm động trong khảo sát. Vì vậy, khi nghiên cứu đề
tài này, chúng tôi sử dụng một thao tác mà tác giả Nguyễn Lai và Văn
Chính19 gọi là thao tác "cải biến"- một trong những thủ pháp rất lợi hại của
ngữ dụng học thực hành. Chúng tôi tiến hành qua hai bước như sau:
-

Bước một: Xem xét chức năng của liên từ - cụ thể là xem nó đã đóng

góp gì vào hiệu lực giao tiếp chung của cả cấu trúc phát ngôn. Cần xác định
rõ ba phạm trù nghĩa, chức năng và hiệu lực giao tiếp. Đây là ba phạm trù
thống nhất nhưng không đồng nhất bởi vì nghĩa là tiền đề hình thành chức
năng, chức năng là tiền đề hình thành hiệu lực giao tiếp. Vì thế, người
nghiên cứu bắt đầu từ hiệu lực cuối cùng thông qua sức mạnh dụng học để
ghi nhận lại các bước tương tác ngôn ngữ học nói trên theo hướng ngược
chiều tức là từ hiệu lực giao tiếp xác định chức năng và nghĩa.
-

Bước 2: tạm thời lược bỏ yếu tố liên từ ấy ra khỏi cấu trúc. Sau khi

lược bỏ nó đi, bằng sự cảm nhận đích thực hiệu lực giao tiếp của người bản
ngữ, đem so sánh hiệu lực giao tiếp của hai cấu trúc. Kết quả cuối cùng, nếu
ở cấu trúc không còn liên từ đã mất thông tin gì so với cấu trúc còn lại thì đó
19 Nguyễn Lại và Văn Chính - Một vài suy nghĩ về hư từ nhìn từ góc độ dụng học - Tạp chí Ngôn ngữ số 5 - 1999

14



chính là hiệu lực giao tiếp vốn có đích thực của liên từ đã bị tạm loại bỏ mà
ta đang muốn khảo sát.
Hơn nữa, xét từ góc độ phép liên kết thì các liên từ trong đó có liên từ
gốc Hán cũng đóng một vai trò quan trọng. Phương thức liên kết nối được
khá nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm. Phép nối chủ yếu dựa vào ý nghĩa
chuyên biệt của bản thân từ nối và ý nghĩa của các đơn vị phát ngôn được
nối trong văn bản:"Phép nối khác với quy chiếu, thay thế và tỉnh lược ở chỗ
nó không phải là cách để nhắc người đọc nhớ lại những thực thể hành động
và sự thể đã được đề cập ...Nó là phương thức liên kết nối bởi vì nó báo hiệu
các mối quan hệ mà những quan hệ này chỉ có thể được hiểu một cách đầy
đủ qua tham khảo các phần khác của văn bản"20.
M. Halliday và Hassan21 cũng cho rằng bản thân các từ nối không mở
khả năng hồi chỉ hay khứ chỉ giống như các phương thức liên kết vừa nêu,
mà có tác dụng chỉ ra tiền giả định cho tính liên hoàn về cấu trúc văn bản, ý
nghĩa của các phát ngôn. Sự xuất hiện của các phương tiện nối báo trước
mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các mệnh đề, câu - phát ngôn, đoạn văn trong
văn bản; chúng liên kết các bộ phận của văn bản thành một chỉnh thể thống
nhất. Các nhà phân tích diễn ngôn khẳng định phép nối được sử dụng nhiều
hơn so với các phương thức liên kết khác trong liên kết văn bản.
M.Halliday cũng nhấn mạnh rằng bản chất của phép nối là việc sử dụng
những từ ngữ có khả năng chỉ quan hệ để bộc lộ kiểu quan hệ ngữ nghĩa
giữa các phát ngôn và bằng cách đó chúng liên kết với nhau.

15


Diệp Quang Ban22- người đi theo quan niệm của M.Halliday và có nhiều
ứng dụng vào tiếng Việt hơn cả đã định nghĩa: "Phép nối là việc sử dụng tại

vị trí đầu câu hoặc trước vị ngữ (trước động từ ở vị ngữ) những từ ngữ có
khả năng chỉ quan hệ để làm bộc lộ kiểu quan hệ giữa hai câu có quan hệ với
nhau, và bằng cách đó liên kết hai câu này với nhau" (Tr375).
Tác giả cũng chỉ ra rằng nhóm từ đầu tiên có chức năng làm phương tiện
kết nối là quan hệ từ. Những quan hệ do các từ này diễn đạt là quan hệ logic
giữa hai bộ phận do chúng kết nối lại. Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ
học văn bản hướng vào nghiên cứu các mặt nghĩa, coi liên kết thuộc về hệ
thống ngôn ngữ, phép nối cũng được nghiên cứu theo hướng đi sâu vào phân
tích các quan hệ nghĩa của các phương tiện nối khi chúng đảm nhận chức
năng liên kết văn bản.
Chúng tôi, trong công trình nghiên cứu này, chấp nhận một khái niệm có
tính chất tác nghiệp như sau về liên từ: "Liên từ là những hư từ cú pháp có
tác dụng liên kết các từ trong một ngữ, các vế trong một câu ghép hoặc các
câu trong văn bản với điều kiện là các yếu tố mà nó liên kết trên đây phải là
những yếu tố đẳng lập, đồng đẳng và đồng chức. Mối quan hệ giữa các khái
niệm trong tư duy mà các liên từ diễn đạt là quan hệ bình đẳng hoặc là quan
hệ liên hợp". Sử dụng khái niệm này, chúng tôi nhận diện và phân biệt liên
từ với các từ có chức năng nối kết khác như giới từ và những từ ngữ chuyển
tiếp, theo đó, một hư từ được chấp nhận là liên từ khi và chỉ khi nó phải là từ
liên kết các yếu tố trong một cấu trúc ngữ pháp nhất định (ngữ, câu, văn
bản), đồng thời mối quan hệ giữa các yếu tố mà nó diễn đạt phải là quan hệ
đẳng lập hoặc quan hệ liên hợp kể cả về ngữ pháp lẫn ý nghĩa.
1.2 Phân loại
22

Diệp Quang Ban - Ngữ pháp tiếng Việt - NXB Giáo dục, HN 2005

16



Căn cứ vào ý nghĩa ngữ pháp và chức năng sử dụng thì liên từ có thể
được chia thành các loại như: liên từ tập hợp, liên từ tương ứng 23 hoặc liên
từ bình đẳng và liên từ qua lại24.
Căn cứ vào nguồn gốc, chúng ta có hai loại: liên từ gốc Hán và liên từ
thuần Việt.
Liên từ thuần Việt là những liên từ có nguồn gốc thuần tuý là tiếng Việt.
Liên từ gốc Hán là những liên từ sử dụng trong tiếng Việt có nguồn gốc từ
tiếng Hán nhưng được đọc theo cách của người Việt.
1.3 Phân biệt liên từ với giới từ, phó từ
Liên từ và giới từ: Sự khác nhau giữa liên từ và giới từ là ở kiểu quan hệ
được diễn đạt. Giới từ là những từ diễn đạt quan hệ chính phụ, thường dùng
để nối định ngữ với danh từ hoặc bổ ngữ gián tiếp với động từ; còn liên từ là
những từ diễn đạt quan hệ bình đẳng về ngữ pháp hoặc quan hệ liên hợp qua
lại về ngữ pháp và ý nghĩa.
Liên từ và phó từ: Phó từ là “lớp từ loại hư từ có tác dụng tu sức hoặc hạn
định cho động từ, tính từ biểu thị phạm vi, trình độ” 25. Đặc điểm để nhận
diện phó từ là về mặt hình thức phó từ có khả năng kết hợp với các vị từ, còn
về mặt chức năng chúng là lớp từ loại phụ cho vị từ. Như thế, sự khác nhau
giữa liên từ và giới từ là sự khác nhau về chức năng. Liên từ có chức năng
liên kết và diễn đạt mối quan hệ giữa các thực từ còn trợ từ có chức năng
phụ trợ cho vị từ.
2. Liên từ gốc Hán trong tiếng Việt

23
24

Nguyễn Anh Quế - Hư từ trong tiếng Việt hiện đại - NXB Khoa học xã hội, HN 1988
Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan - Cơ sở tiếng Việt - NXB Văn hoá thông tin, Hn 2000

25 Đào Thanh Lan - Nhận xét sơ bộ về hoạt động của phó từ Hán Việt trong tiếng Việt - Tạp chí ngôn ngữ số 22007


17


2.1 Đặc điểm nhận diện
Như đã đề cập đến ở trên, liên từ gốc Hán là những liên từ có ngồn gốc từ
tiếng Hán. Các liên từ tiếng Hán không chỉ hoạt động trong ngôn ngữ Hán
mà trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán, chúng còn nhập vào ngôn
ngữ Việt qua những con đường khác nhau và trở thành một bộ phận quan
trong trong ngữ pháp tiếng Việt.
Để nhận diện liên từ gốc Hán, trước hết cần xác định cách hiểu về yếu tố
gốc Hán trong tiếng Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn 26 thì có một số những khái
niệm sau đây cần hiểu cho rạch ròi là: yếu tố gốc Hán, cách đọc Hán Việt, từ
Hán Việt, Hán Việt Việt hoá.
Cách đọc Hán Việt là một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm
tiếng Hán đời Đường, mà cụ thể là Đường âm ở Giao Châu vào giai đoạn
bao gồm 2 thế kỉ VIII, IX. Cách đọc Đường âm đó, sau khi Việt Nam giành
được độc lập, đã dần dần biến dạng đi, dưới tác động của quy luật ngữ âm và
ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách xa hẳn với cách đọc của người Hán để trở
thành một cách đọc riêng biệt của người Việt và những người thuộc khu vực
văn hoá Việt.
Yếu tố Hán là những yếu tố đã được du nhập vào trong tiếng Việt, bất
luận đó là những yếu tố như thế nào, xét về mặt quan hệ với văn tự.
Chúng tôi xin ghi lại đây sơ đồ về mối quan hệ giữa các yếu tố trên đây của
Nguyễn Tài Cẩn:

I

III


II

26 Nguyễn tài Cẩn(2004) - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

18


Cách đọc
Hán –Việt

Khu vực I là cách đọc Hán Việt. Trong khu vực này ta chỉ bắt gặp những
chữ tuy ta có thể đọc Hán – Việt được, nhưng những chữ đó chỉ liên quan
đến Hán ngữ chứ không liên quan gì đến tiếng Việt.
Khu vực II là khu vực những yếu tố mà người Việt mượn từ tiếng Hán,
nhưng những yếu tố đó lại không trực tiếp liên quan gì đến cách đọc Hán
Việt. Có ba trường hợp của các yếu tố gốc Hán như sau:
- Trường hợp mượn trước cách đọc Hán- Việt như mùa, mùi, buồng,
buồm…
- Trường hợp mượn đời Đường, cùng một lần với cách đọc Hán- Việt,
nhưng sau diễn biến theo một con đường khác với cách đọc Hán- Việt. Ví dụ
như gan, gần, vốn, ván…Đây chính là những trường hợp mà chúng ta gọi là
Hán Việt Việt hoá.
- Trường hợp mượn thông qua một phương ngữ tiếng Hán, ví dụ mỳ chính,
cắc, lú bú…
Khu vực III là những yếu tố cũng thuộc vào loại mượn từ tiếng Hán,
nhưng đó là những yếu tố mượn thông qua cách đọc Hán Việt nên gọi là yếu
tố Hán – Việt. Các yếu tố này có thể bao gồm tiếng Hán Việt và từ Hán Việt.
Ở đây, chúng tôi xem xét đến những từ Hán Việt.

19



Để nhận diện các từ Hán Việt, chúng ta cũng cần phải dựa trên những
tiêu chí nhận diện nhất định. Có ba tiêu chí thường được đưa ra để nhận diện
từ Hán Việt là:
-

Về ý nghĩa: từ Hán Việt là những từ tiếng Việt thường phải giải nghãi

mới hiểu chúng một cách thấu đáo được.
-

Về mặt cấu tạo từ: các từ Hán Việt có cấu tạo ngược với trật tự cấu tạo

từ tiếng Việt: yếu tố phụ đặt trước yếu tố chính.
-

Về phương diện ngữ cảm: các từ Hán Việt thường có sắc thái trang

trọng, tao nhã.
Trên đây là ba tiêu chí thường được các nhà nghiên cứu đề cập đến khi
tìm hiểu từ Hán Việt nói chung nhưng đa phần là áp dụng với các thực từ.
Việc áp dụng ba tiêu chí này để nhận diện hư từ và đặc biệt là với các liên từ
gốc Hán thì có phần khó khăn hơn. Đặc biệt là đối với những liên từ đơn tiết.
Chính vì thế, chúng tôi có sử dụng đồng thời cách nhận diện từ Hán Việt dựa
vào đặc điểm cấu tạo âm thanh của tác giả Nguyễn Đức Tồn 27. Theo đó, tác
giả Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra các loại cấu âm đặc trưng là:

-


-

Các cấu tạo âm thanh chỉ có trong các tiếng(hoặc từ đơn) Hán - Việt

-

Các cấu tạo âm thanh chỉ có trong các tiếng(hoặc từ đơn) thuần Việt

Các cấu tạo âm thanh có cả trong các tiếng(hoặc từ đơn) Hán - Việt và

thuần Việt.
2.2 Phân loại liên từ gốc Hán trong tiếng Việt

27 Nguyễn Đức Tồn - Cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với từ Hán - Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 2-2001

20


Các liên từ gốc Hán khi nhập vào tiếng Việt đã tạo thành hai loại: liên từ
Hán Việt và liên từ Hán Việt - Việt hóa.
Liên từ Hán Việt là những liên từ gốc Hán khi nhập vào tiếng Việt được
sử dụng với cách đọc Hán Việt.
Liên từ Hán Việt Việt hoá là những liên từ gốc Hán đã được đọc theo âm
đọc của người Việt.
Quá trình tiếp xúc hai ngôn ngữ Việt - Hán là một quá trình lâu dài và sâu
rộng, thể hiện qua sự hiện diện các từ gốc Hán trong tiếng Việt. Có thể thấy
các từ gốc Hán có chức năng là công cụ ngữ pháp chiếm tỉ lệ cao trong tiếng
Việt. Điều này chứng tỏ rằng ngữ pháp tiếng Hán có ảnh hưởng lớn tới ngữ
pháp tiếng Việt.
Chính vì thế, hư từ cũng như bộ phận thực từ, chịu ảnh hưởng của sự tiếp

xúc ngôn ngữ Hán- Việt nên cũng tồn tại song song hai nhóm là các hư từ
thuần Việt và hư từ gốc Hán.
Chúng ta thấy rằng trong quá trình phát triển, nền văn hoá dân tộc ta đã
có mối quan hệ mật thiết với nền văn ngôn và chữ Hán. Người Việt Nam
trước đây từ thế hệ này sang thế hệ khác đã liên tục trong nhiều thế kỷ, sử
dụng chữ Hán và lối văn ngôn như một công cụ văn hoá của dân tộc, dùng
nó để ghi chép, viết lách, lưu lại đến ngày nay một kho tàng không nhỏ
những công trình về sử học, về luật học, về y học, về văn học...Đó là một gia
tài quý mà chúng ta phải đọc, phải tìm hiểu. Hơn nữa, ngôn ngữ là một hệ
thống, các từ Hán Việt nằm trong tiếng Việt với tư cách là một bộ phận của
hệ thống. Cho nên, khảo sát về bộ phận này cũng không phải chỉ để hiểu
riêng bộ phận này mà còn là để góp phần soi sáng chung cho toàn bộ hệ
thống.

21


3. Danh sách các liên từ gốc Hán trong tiếng Việt
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Trung 28 khi tìm hiểu, tra cứu,
so sánh từ điển phổ thông tiếng Hán và tiếng Việt thì có khoảng hơn 30 liên
từ gốc Hán tồn tại và hoạt động trong tiếng Việt là: bất luận, bất nhiên, cố
nhiên, bất quản, do, đồng thời, giả như, giả thiết, giả sử, hoà, hoặc, hoặc giả,
nhi, như, nhược, tắc, tại, thí dụ, thí như, thảng nhược, sở dĩ, tỉ dụ, tỉ như, trừ
phi, tuy, tuy nhiên, tuỳ, tức, tự nhiên, vạn nhất, vô luận, vị.
Tác giả Phạm Thị Hồng Trung sau khi đưa ra danh sách hơn 30 liên từ
gốc Hán hiện diện và hoạt động trong tiếng Việt hiện đại đã phân chúng
thành 7 nhóm căn cứ vào cách dùng cụ thể và quan hệ nghĩa của các liên từ
trong phát ngôn như sau:
- Nhóm 1: Liên từ biểu thị sự lựa chọn: Hoặc, hoặc giả
- Nhóm 2: Liên từ biểu thị quan hệ nhân quả: sở dĩ

- Nhóm 3: Liên từ biểu thị quan hệ giả thiết: Giả sử, giả như, vạn nhất, thảng
hoặc.
- Nhóm 4: Liên từ biểu thị quan hệ điều kiện: trừ phi, bất luận, vô luận.
- Nhóm 5: Liên từ biểu thị quan hệ đối lập: Tuy, tuy nhiên.
- Nhóm 6: Liên từ biểu thị quan hệ song song: hoà, đồng thời.
- Nhóm 7: Liên từ biểu thị quan hệ liệt kê: tỉ như, thí như.
Căn cứ vào bảng phân loại này, kết hợp với định nghĩa về liên từ như đã
đưa ra ở phần trước cũng như dựa vào việc khảo sát các từ điển Hán Việt, từ
điển hư từ, chúng tôi có một vài nhận xét như sau về số lượng các liên từ có
28 Phạm Thị Hồng Trung - Khảo sát hoạt động chức năng của một số hư từ có nguồn gốc tiếng Hán trong tiếng
Việt hiện đại - Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa Ngôn ngữ học- ĐHKHXH&NV Hà Nội 2003

22


nguồn gốc từ tiếng Hán trong danh sách tác giả Phạm Thị Hồng Trung đã
đưa ra:
1. Cố nhiên, tự nhiên trong danh sách trên không phải là liên từ mà là phó từ
Hán Việt.
2. Các từ hoà, tắc, giả thiết, vị, nhi, nhược chỉ hoạt động với tư cách là liên
từ trong tiếng Hán, khi nhập vào tiếng Việt thì hoặc là chúng đã chuyển
nghĩa, hoặc là được sử dụng với các biến thể. Chẳng hạn, nhược thường
được dùng với biến thể thảng nhược, thảng hoặc, nhược bằng; vị được dùng
với biến thể vì, hoà được dùng chủ yếu bằng biến thể và, tỉ như được dùng
với biến thể ví như; giả thiết, tuỳ, tỉ dụ được dùng với nghĩa danh/ động từ.

3. Vì tiếng Việt và tiếng Hán đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, từ
không biến hình nên đều có một đặc trưng là cùng một từ có thể được dùng
với những tính chất từ loại khác nhau (hiện tượng một từ đa loại, còn gọi là
hiện tượng chuyển loại). Chẳng hạn các từ do, tại, như trong tiếng việt có

thể hoạt động với tư cách là giới từ với chức năng nối yếu tố phụ với từ
trung tâm. Nhưng chúng cũng hoạt động với tư cách là liên từ nối hai vế của
câu ghép chính phụ và khi đó chúng thường kết hợp với 1 số từ như: nên,
mà, vậy, đó…tạo thành những cặp liên từ kép. Tuy nhiên, trong luận văn này
chúng tôi chỉ quan tâm tới cương vị liên từ của chúng.
4. Theo thống kê của tác giả Hoàng Trọng Phiến 29 thì trong tiếng Việt có
khoảng hơn 60 liên từ (bao gồm cả liên từ thuần Việt và Hán Việt). Khảo sát
và so sánh với các từ điển từ Hán Việt cũng như từ điển Hán Việt, chúng tôi
thấy còn có một số liên từ gốc Hán sau đây mà trong công trình của Phạm
29

Hoàng Trọng Phiến - Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt - NXB Tri thức, HN 2008

23


Thị Hồng Trung chưa đề cập đến: bất quá, duy, hình như, huống hồ, liệu,
nhân, phàm, quí hồ, tự, tựu trung.
Như vậy, các liên từ gốc Hán được chúng tôi khảo sát trong các tác
phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh bao gồm 29 liên từ sau: bất luận, bất
nhiên, bất quá, bất quản, do, duy, đồng thời, giả như, giả sử, hình như, hoặc,
hoặc giả, như, huống hồ, liệu, nhân, phàm, quí hồ, sở dĩ, tại, thảng nhược,
trừ phi, tuy, tuy nhiên, tự, tức, tựu trung, vạn nhất, vô luận,...
Bảng 1: Danh sách liên từ Hán Việt trong tiếng Việt
Liên từ
STT

Hán
Việt


1

Bất luận

2

Bất
nhiên

3

Bất quá

4

Bất quản

24


×