Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Thành ngữ, tục ngữ hàn quốc nói về động vật và thực vật (một vài so sánh với việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.3 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ HƢƠNG

THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ
ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT (MỘT VÀI SO
SÁNH VỚI VIỆT NAM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ HƢƠNG

THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ
ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT (MỘT VÀI SO
SÁNH VỚI VIỆT NAM)

Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Mai Ngọc Chừ



Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật và thực vật.
(Một vài so sánh với Việt Nam)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của GS Mai Ngọc Chừ - Khoa Đông Phương, Trường Đại học
KHXH&NV, ĐHQGHN. Các tài liệu sử dụng tham khảo, trích dẫn trong Luận
văn đều đảm bảo rõ nguồn, trung thực. Các kết quả nghiên cứu được công bố
trong Luận văn là hoàn toàn chính xác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2015
Tác giả
Lê Thị Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
GS. TS Mai Ngọc Chừ – người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô khoa Đông Phương học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
dạy bảo tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng đã đọc, nhận xét và góp
ý

về luận văn.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân,

bạn bè,… những người đã tạo điều kiện thuận lợi, cổ vũ và động viên tôi rất

nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này.
Dù người viết đã có nhiều cố gắng song luận văn chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ,
những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Tác giả
Lê Thị Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................................................... 4
6. Đóng góp của luận văn........................................................................................................... 4
7. Bố cục của luận văn................................................................................................................. 5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6

1.1. Khái niệm thành ngữ.......................................................................................................... 6
1.2. Khái niệm tục ngữ................................................................................................................. 8
1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ................................................................................. 11
1.4. Một số biện pháp tạo nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ.........16
1.5. Nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ.......................................................... 20
CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ ĐỘNG
VẬT. MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM............................................................ 24
2.1. Khái quát chung thành ngữ, tục ngữ nói về động vật................................. 24
2.2. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số loài động vật tiêu biểu và so sánh
với Việt Nam.................................................................................................................................... 27
2.2.1. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con bò........................................................ 27

2.2.2. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con ngựa.................................................. 32
2.2.3. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con hổ, báo............................................. 36
2.2.4. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con gà........................................................ 40
2.2.5. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con chuột................................................. 46
2.3. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số loài động vật khác và so sánh với
Việt Nam............................................................................................................................................ 49


CHƢƠNG 3: THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ THỰC
VẬT. MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM............................................................ 62
3.1. Khái quát chung về thành ngữ, tục ngữ nói về thực vật............................ 62
3.2. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số loại thực vật tiêu biểu và so sánh
với Việt Nam.................................................................................................................................... 65
3.2.1. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến hạt đậu...................................................... 65
3.2.2. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến cây (cành, lá, rễ)................................. 70
3.2.3. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến hoa.............................................................. 74
3.2.4. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến bầu, bí....................................................... 76
3.2.5. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến gạo (thóc, lúa, mạ)............................79
3.3. Thành ngữ, tục ngữ nói đến mốt số loại thực vật khác và so sánh với
Việt Nam............................................................................................................................................ 81
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 92
PHỤ LỤC.......................................................................................................................................... 97


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Bảng tục ngữ tiếng Hàn có chứa hình ảnh động vật.................................. 25
Bảng 2: Bảng tục ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật................................... 26
Bảng 3 : Bảng so sánh một vài thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt nói
về động vật......................................................................................................................................... 54

Bảng 4: Bảng tục ngữ tiếng Hàn có chứa hình ảnh thực vật.................................... 64
Bảng 5: Bảng tục ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh thực vật.................................... 64
Bảng 6: Bảng so sánh một vài thành ngữ, tục ngữ tiếng Hànvà tiếng Việt nói
về thực vật.......................................................................................................................................... 84


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thành ngữ và tục ngữ là những sáng tạo dân gian mang đậm bản
sắc dân tộc, do vậy khi nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa của bất kì quốc gia nào
trên thế giới, người ta không thể không nói đến thành ngữ và tục ngữ. Thành
ngữ, tục ngữ là sản phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt tri thức và ghi lại
những kính nghiệm quý báu về cuộc sống lao động, sản xuất, đấu tranh…của
con người. Bên cạnh đó, thành ngữ và tục ngữ còn mang những giá trị giáo
huấn rất cao. Thành ngữ, tục ngữ sâu sắc, thâm thúy về nội dung, phong phú,
đa dạng về nghệ thuật biểu hiện, do đó có sức sống lâu bền, có thể truyền từ
đời này sang đời khác.
Trong giao tiếp ngôn ngữ, thành ngữ và tục ngữ chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng. Vì vậy, đối với việc giảng dạy ngoại ngữ, một trong những
nhiệm vụ hàng đầu là phải giúp người học nắm được và sử dụng được các
thành ngữ, tục ngữ. Tuy nhiên để có thể sử dụng thành ngữ, tục ngữ thuần
thục như người bản ngữ là điều không dễ. Do vậy, ngoài việc nâng cao nghiệp
vụ sư phạm, đặc biệt là các thao tác giảng dạy ngoại ngữ, người dạy ngoại
ngữ không thể không tập trung nghiên cứu sâu về các thành ngữ, tục ngữ để
hiểu được cái hay, cái đẹp của chúng, đồng thời nâng cao hiệu quả việc giảng
dạy ngoại ngữ.
1.2. Hiện nay số người học tiếng Hàn ở Việt Nam tăng nhanh, tiếng
Hàn được giảng dạy không chỉ cho các sinh viên chính quy ở các trường đại
học mà còn cho rất nhiều đối tượng khác nhau, kể cả công nhân làm việc
trong các nhà máy của người Hàn ở Việt Nam và Hàn Quốc. Quan hệ Việt

Nam – Hàn Quốc nâng lên tầm đối tác, hợp tác chiến lược đã tạo điều kiện
cho Hallyu (Hàn lưu) nói chung và tiếng Hàn nói riêng càng ngày càng được
phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy

1


tiếng Hàn cho người Việt Nam đồng thời tìm hiểu cái hay, cái đẹp của ngôn
ngữ này, chúng ta không thể không chú ý đến thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn.
Cũng giống như thành ngữ, tục ngữ của Việt Nam, thành ngữ và tục
ngữ của Hàn Quốc rất đa dạng, phong phú về nội dung, trong đó nhiều thành
ngữ tục ngữ nói về động - thực vật, về cuộc sống, hoạt động sản xuất của con
người. Chúng tôi cũng rất quan tâm đến động vật và thực vật, thêm vào đó,
gần như chưa có đề tài nghiên cứu về động vật và thực vật. Chính vì vậy,
chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về
động vật và thực vật (Một vài so sánh với Việt Nam)” làm tiêu đề cho luận văn
cao học của mình. Thông qua luận văn, chúng tôi muốn làm rõ hơn đặc trưng,
tính chất, điểm tương đồng và khác biệt trong thành ngữ, tục ngữ về động
thực vật của hai nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tình hình nghiên cứu trong nước:
Đề cập đến mảng đề tài này, ở Việt Nam gần đây cũng đã xuất hiện một
số bài báo, luận văn, luận án.v.v… nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ Hàn,
chẳng hạn: “Quan niệm đền bù về đạo đức của người Hàn Quốc thông qua ca
dao, tục ngữ và những thay đổi trong thời hiện đại” của PGS. TS Đỗ Thu Hà,
2002; “Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – Việt có thành tố cấu tạo là tên
gọi động vật từ góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa”, 2009; “Hình ảnh đôi mắt trong
tục ngữ, thành ngữ Hàn Quốc” của Phan Hoàng My Thương, 2010; “Một số
tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn”, 2013 .v.v…
Tình hình nghiên cứu ngoài nước:

Do đây là mảng đề tài còn khá mới và hiếm nên phần lớn là những công
trình nghiên cứu của các học giả Hàn Quốc. Liên quan đến mảng đề tài này
thì chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu như là:
“Quan điểm về cuộc sống của người Hàn Quốc phản ánh qua tục ngữ” của
Yu In Chang” (1981); “Nghiên cứu yếu tố ý nghĩa của tục ngữ tiếng Hàn”
2


của Kim Chung Hyo” (1983); “Khảo sát về chức năng ý nghĩa của tục ngữ
tiếng Hàn” của Kim Ji Man (1986); “Nghiên cứu phân tích cấu tạo của tục
ngữ tiếng Hàn” của Jo Jae Yun (1986); “Nghiên cứu so sánh tục ngữ có từ chỉ
động vật của Hàn Quốc và Trung Quốc – trọng tâm là những tục ngữ liên
quan đến “chó” của Choi Sang Jin (2010) …v.v.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

3.

3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi hy vọng góp phần khẳng định được ý nghĩa
biểu đạt, giá trị biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Qua đó làm sáng
tỏ giá trị ngôn ngữ, văn hóa cũng như lối tư duy của người Hàn, đặc biệt là
những thành ngữ, tục ngữ nói về động – thực vật.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài của chúng tôi hướng đến những
nhiệm vụ sau:
-


Thống kê, phân loại các thành ngữ, tục ngữ nói về động vật và thực

vật trong tiếng Hàn.
-

Phân tích ý nghĩa và giá trị biểu trưng của các thành ngữ, tục ngữ

Hàn về động vật và thực vật.
-

So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các thành ngữ, tục ngữ nói

về động vật, thưc vật trong tiếng Hàn và tiếng Việt.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
-

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thành ngữ, tục ngữ nói về động

vật và thực vật trong tiếng Hàn.
-

Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn sử dụng 181 thành ngữ Hàn Quốc nói về động vật và 85
thành ngữ nói về thực vật; 2.111 câu tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật và
667

câu tục ngữ nói về thực vật được đăng tải trên trang chủ của Viện ngôn


ngữ quốc gia Hàn Quốc (www.korean.go.kr). Bên cạnh đó, luận văn còn sử
3


dụng từ điển giấy (Từ điển thành ngữ; từ điển tục ngữ; Từ điển thành ngữ bốn
chữ) làm tư liệu cho luận văn thêm phần phong phú.
Ngoài ra, luận văn của chúng tôi dùng 794 câu tục ngữ Việt Nam có
hình ảnh động vật; 635 câu tục ngữ Việt Nam có hình ảnh thực vật dựa theo
cuốn “Biểu trưng trong tục ngữ người Việt” của tác giả Nguyễn Văn Nở
(2010) để làm tư liệu so sánh; đối chiếu với tục ngữ tiếng Hàn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được 3 nhiệm vụ nêu trên, trong luận văn này, chúng tôi
sử dụng các phương pháp tương ứng như sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại các thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn có
liên quan đến động vật và thực vật.
Phương pháp so sánh, đối chiếu là phương pháp cơ bản chúng tôi sử

-

dụng trong toàn bộ luận văn, đối chiếu các thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn
với tiếng Việt.
-

Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, ngữ cảnh cũng được sử dụng trong

luận văn của chúng tôi. Qua việc phân tích ngữ nghĩa và ngữ cảnh của các
thành ngữ, tục ngữ đó, chúng tôi thấy được giá trị biểu trưng, lớp nghĩa biểu
trưng.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi có tham khảo một số thành ngữ,

tục ngữ tiếng Hàn trong luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thùy Dương (2013)
“Một số tín hiệu thẩm mỹ trong tiếng thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn”.
6. Đóng góp của luận văn.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có những đóng góp như sau:


Cung cấp con số chính xác về thống kê, phân loại một cách có hệ

thống các thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn nói về động thực vật.


Bước đầu làm sáng tỏ những đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị biểu

trưng của các thành ngữ, tục ngữ Hàn nói về động vật và thực vật.

4




Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng thành ngữ,

tục ngữ của người Hàn Quốc và người Việt Nam.


Luận văn hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những

người quan tâm đến tiếng Hàn và văn hóa Hàn Quốc cũng như cho các sinh
viên có chuyên ngành ngôn ngữ Hàn Quốc hay Hàn Quốc học.
7. Bố cục của luận văn.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn được triển khai thành 3 chương với các tiết sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật. Một vài so
sánh với Việt Nam.
Chương 3: Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về thực vật. Một vài
so sánh với Việt Nam.

5


CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm thành ngữ
Khi nghiên cứu về thành ngữ, nói chung các học giả Việt Nam đã đưa ra
nhiều điểm khá thống nhất. Tuy nhiên, đi vào chi tiết, việc quan niệm về thành
ngữ giữa các tác giả không phải không có những ý kiến khác nhau. Dương
Quảng Hàm (1951), trong “Việt Nam văn học sử yếu” quan niệm: “Thành ngữ
là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc một trạng
thái gì cho có màu mè.” [20; tr 15]. Hồ Lê trong “Vấn đề cấu tạo từ của tiếng
Việt hiện đại” coi thành ngữ là “những tổ hợp từ có tính vững chắc về cấu tạo
và tính bóng bẩy về ý nghĩa dùng để miêu tả một hình ảnh, một hiện tượng,
một tính cách hay một trạng thái nào đó.” [32; tr 97]. Nhà ngôn ngữ học
Nguyễn Văn Tu (1968) ở “Từ vựng học tiếng Việt hiện đại” thì cho rằng:
“Thành ngữ là từ tố cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến một
trình độ cao, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của
chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ
này cũng có hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác
nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa nguyên do như từ nguyên
đọc.” [46; tr 147 ]. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng

Phiến (2001), trong “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” xem thành ngữ là
“cụm từ cố định hoàn chỉnh về cấu trúc và ngữ nghĩa. Nghĩa của chúng có
tính hình tượng và gợi cảm”. [7; tr 157 ]. Nguyễn Thiện Giáp (2008) trong
“Giáo trình ngôn ngữ học” quan niệm: “Thành ngữ (idiom) là những cụm từ
trong cơ cấu cú pháp và ngữ nghĩa của chúng có những thuộc tính đặc biệt,
chỉ có ở cụm từ đó. Nói cách khác, thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa của
nó không được tạo thành từ ý nghĩa của các từ cấu tạo nên nó.” Ngoài ra
trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt”, ông đã định nghĩa thành ngữ

6


một cách rất ngắn gọn: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn
chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm” . Theo Hoàng Văn Hành (2010) trong
“Tuyển tập ngôn ngữ học”, “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền
vững về hình thái – cấu trúc, hoàn chỉnh và bóng bẩy về nghĩa, được sử dụng
với chức năng như từ” và “Thành ngữ là một hiện tượng trung gian nằm ở
khu đệm, giữa một bên là từ, thuộc từ vựng; một bên là ngữ, thuộc cú pháp;
và một bên nữa là các hiện tượng thuộc văn hóa dân gian (tục ngữ, ca dao)
…”.
Tại Hàn Quốc, trong “Nghiên cứu thành ngữ quốc ngữ”, Kim Moon Chang
(1974) quan niệm “Thành ngữ là cụm từ hoặc từ có cấu tạo từ hai từ trở lên
hoặc mang ý nghĩa đặc biệt khác với phương pháp diễn đạt thông thường của
một ngôn ngữ.” Theo Park Young Sun (1985), trong “Nghiên cứu về thành
ngữ” thì “Thành ngữ là một hình thái ngôn ngữ được kết hợp từ hai từ trở lên,
nó được sử dụng phổ biến giữa những từ kết hợp phi cú pháp. Về mặt cấu
trúc, thành ngữ là từ ghép được ghép bởi hai từ trở lên, còn về mặt ý nghĩa
nó là loại ngôn ngữ đặc thù mang ý nghĩa thứ ba mà không mang theo
ý


nghĩa cơ bản”. [44; tr 7].
Có một tình hình đáng chú ý là, vì cách quan niệm của các học giả không

hoàn toàn trùng nhau nên trong dịch thuật, để biểu thị khái niệm tương đương
với thuật ngữ “thành ngữ”, người ta có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn, thành ngữ, quán ngữ, quán dụng cú, ngữ quán dụng, thậm
chí cả cách biểu đạt quán dụng, những lời nói quen thuộc hay lời nói thường
xuyên sử dụng.v.v…
Tuy nhiên, dù có nhiều định nghĩa khác nhau về thành ngữ nhưng tựu
chung lại các tác giả đều thống nhất với nhau ở chỗ: Đó là tập hợp từ cố định
đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích được một cách
đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó. Ví dụ: Một nắng hai sương, Rán
sành ra mỡ, An cư lạc nghiệp , Ăn cây táo rào cây sung, v.v.
7


Trong hệ thống thành ngữ tiếng Hàn, đặc biệt là những thành ngữ nói về
động – thực vật, chúng ta có thể thấy một số ví dụ tiêu biểu như sau:
“견견견견” (Khuyển vượn chi gian), là thành ngữ dùng để chỉ những
người có tính cách trái ngược không thể sống hòa hợp với nhau và nó tương
đương với thành ngữ “như chó với mèo” trong tiếng Việt. “견견견견” (Cửu
ngưu nhất mao) hàm ý chỉ sự quá ít ỏi, chẳng thấm tháp gì, chẳng có tác dụng
gì như việc chín con trâu mất một sợi lông. Thành ngữ này tương đương với
“Như muối bỏ biển” hay “Hạt cát trong sa mạc” trong tiếng Việt. “견견견견
(Tái ông thất mã), đây là thành ngữ chỉ sự luân hồi của phúc - họa, trong họa
có phúc, trong phúc có họa. Trong tiếng Việt, chúng ta thường dùng: “Trong
cái rủi có cái may” hay “họa phúc khôn lường” với ý nghĩa tương tự. “견견견
견견견 견견 견견 견견 견견 견견 견견견견 견견 견견견 견견” có thể
hiểu là: Nếu chim khách kêu vào buổi sáng thì có điềm may đến hay có tin
vui, còn nếu quạ kêu vào ban đêm thì sẽ có điềm không tốt (đại biến) hay

chuyện không hay sắp xảy ra. Đây là thành ngữ nói về điềm dự báo trong
tương lai.
Như vậy qua một vài phân tích ở trên chúng ta đã có được những hiểu biết
cơ bản nhất về thành ngữ nói chung và thành ngữ nói về động thực vật trong
tiếng Việt và tiếng Hàn nói riêng.
1.2. Khái niệm tục ngữ
Cũng như thành ngữ, hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
của các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian và ngôn ngữ học về khái
niệm tục ngữ. Tuy nhiên trong luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu khái
niệm tục ngữ dựa trên quan điểm của nhà ngôn ngữ học là chủ yếu.

8


Nói về tục ngữ, Dương Quảng Hàm (1968) trong quyển “Việt Nam văn
học sử yếu” quan niệm: “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc
khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì”. [21; tr 15]. Nguyễn Văn Tố trong bài “Tục
ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây” viết: “Tục ngữ là câu thành ngữ
nói đã quen trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy, ý tứ cao xa, câu nào
từ đời xưa truyển lại gọi là ngạn ngữ, cũng có khi gọi là tục ngạn; tục ngữ
hay tục ngạn thì nghĩa cũng gần giống nhau”. (Dẫn theo Chu Xuân Biên –
Lương Văn Đang – Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr 20).
Kế thừa quan điểm của các học giả đi trước, năm 1978 trong cuốn “Từ
và vốn từ tiếng Việt hiện đại”, Nguyễn Văn Tu (1978), đưa ra quan niệm:
“Trong tiếng Việt, những tục ngữ, phương ngôn và ngạn ngữ có liên quan đến
thành ngữ và quán ngữ. Chúng không phải là đối tượng của từ vựng học mà
là đối tượng của văn học dân gian. Nhưng vì chúng là đơn vị có sẵn trong
ngôn ngữ được dùng đi dùng lại để trao đổi tư tưởng cho nên chúng dính
dáng đến vấn đề cụm từ cố định. Thực ta chúng là những câu hoàn chỉnh chỉ

một nội dung đầy đủ, không cần những thành phần cú pháp nào cả”. [47; tr
87]. Sau đó, vào năm 1985, Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng học
tiếng Việt”, cho rằng: “Các tục ngữ cũng được dùng lặp đi lặp lại nhiều lần
trong lời nói như một đơn vị có sẵn; nhưng khác với thành ngữ ở chỗ nghĩa
của tục ngữ bao giờ cũng là một phán đoán. Về mặt nội dung, nghĩa của tục
ngữ gần với cụm từ tự do, bởi vì nó không biểu thị một khái niệm như thành
ngữ mà biểu thị một tổ hợp khái niệm”. [17; tr 87].
Ngoài ra chúng ta còn thấy hàng loạt các định nghĩa khác về tục ngữ,
chẳng hạn, theo Nguyễn Lân, “Tục ngữ là những câu hoàn chỉnh, có ý nghĩa
trọn vẹn, nói lên hoặc một nhận xét về tâm lý, hoặc một lời phê phán, khen
hay chê, hoặc một câu khuyên nhủ, hoặc một kinh nghiệm về nhận thức tự
nhiên hay xã hội…” [30; tr 6]. Còn theo Vũ Ngọc Phan (1998), “Tục ngữ là
9


một câu tự nó diễn trọn vẹn, một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân
lý, một công lý, có khi là một sự phê phán” [40; tr 39]. Gần đây, Nguyễn Văn
Nở (2008) đề cập đến khái niệm tục ngữ theo cách hiểu: “Tục ngữ là sản
phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báu,
những triết lý nhân sinh vừa sâu sắc, vừa thâm thúy vừa không kém phần
nghệ thuật, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [38; tr 11].
Cũng giống như tình hình ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
Hàn Quốc cũng có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về tục ngữ. Ở Hàn Quốc,
một trong những người quan tâm đặc biệt đến tục ngữ là Im Dong Kwon.
Trong cuốn “Từ điển tục ngữ”, ông viết, tục ngữ “có thể được coi là di sản
văn hóa tuyệt vời, trong đó cô đọng và hàm súc những lời giáo huấn, những
tri thức, kinh nghiệm trong cuộc sống, là nghệ thuật ngôn từ của toàn thể dân
tộc được truyền khẩu từ đời này sang đời khác” [63; tr 3]. Cũng với quan
niệm tương tự, Won Young Sub (2003) coi “Tục ngữ không phải là những cái
được làm mới trong một khoảng thời gian ngắn mà là những lời đúc kết cô

đọng truyền miệng từ đời này sang đời khác” [66; tr 3].
Như vậy, qua cách hiểu cũng như định nghĩa của các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ kể trên chúng ta có thể hiểu tục ngữ chính là sản phẩm tư duy, di
sản văn hóa dân tộc, là công cụ diễn đạt những kinh nghiệm sống hay những
lời giáo huấn quý báu, cô đọng và hàm súc, đồng thời tục ngữ có thể là một
nhận xét, một phê phán khen hay chê…Tục ngữ được truyền từ đời này sang
đời khác.
Dưới đây là một số câu tục ngữ nói về động thực vật trong tiếng Hàn và
ý

biểu hiện tương đương trong tiếng Việt. Trong tiếng Hàn, câu tục ngữ “견견견

견 견 견견견 견견” được hiểu là: Hổ nghe thấy là hổ đến, và nó
tương đương với câu tục ngữ “Nhắc đến Tào Tháo, Tào Tháo đến” trong tiếng
Việt. Câu tục ngữ “견견 견견 견견견 견견 견견 견견” có nghĩa là “Lời nói
10


đi có hay thì lời nói đến mới hay” và nó gần tương đương với có câu: “Lời nói
chẳng mất tiền mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” trong tiếng Việt.
Câu tục ngữ “견 견견 견견견 견견견”, có nghĩa là: Mất bò mới sửa chuồng,
chỉ người không biết lo xa, tương đương với “Mất bò mới lo làm chuồng”
trong tiếng Việt. Câu tục ngữ “견견견견 견견견견 견견견견” được hiểu là
“Con khỉ cũng có thể rơi từ trên cây xuống”, gần tương đương với câu “Nhân
vô thập toàn” trong tiếng Việt. Câu tục ngữ “견견견 견 견견”, được hiểu là
“Đọc kinh thánh bên tai bò”, tương đương với câu “Đàn gảy tai trâu” trong
tiếng Việt.
Trong tiếng Việt chúng ta có thể kể đến một số câu tục ngữ như: “Đói
cho sạch, rách cho thơm”, câu này hàm ý dùng để khuyên cần phải giữ mình
trong hoàn cảnh túng bấn. Hay “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, câu này

nghĩa là cho dù có họ xa với nhau còn hơn người ngoài, có họ vẫn hơn. Câu
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hàm ý nói sống phải có tình, có nghĩa, phải tỏ lòng
biết ơn người đã làm ơn cho mình. Hay “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay
cao thì nắng, bay vừa thì râm” là câu tục ngữ nói về kinh nghiệm của nhân
dân về thời tiết.
1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Thành ngữ và tục ngữ là các đối tượng nghiên cứu khoa học, cả hai đều
được sử dụng khá phong phú và đa dạng trong đời sống hằng ngày của nhân
dân. Nếu thành ngữ là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học nói chung, từ
vựng học nói riêng thì tục ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu của văn học
dân gian. Thành ngữ và tục ngữ là những khái niệm có nhiều điểm tương
đồng và khác biệt, song việc phân biệt chúng một cách thật rạch ròi thì không
phải dễ. Theo Dương Quảng Hàm (1951), “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý
nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì, còn thành ngữ chỉ là

11


những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn một ý gì hoặc tả một trạng thái
gì cho có màu mè”. [20; tr 15]. Trong cách thức phân loại của Dương Quảng
Hàm, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về thành ngữ và tục ngữ nhưng
vẫn chưa phân định được rõ ràng về mặt tác dụng của thành ngữ và tục ngữ,
bởi vì ở mặt này cả hai có phần tương đối giống nhau.
Trong “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ” (1973), Cù
Đình Tú đưa ra nhận xét: “Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là


sự khác nhau về chức năng, thành ngữ là những đơn vị định danh, về mặt

này thành ngữ tương đương như từ, còn tục ngữ cũng như các sáng tạo khác

của dân gian như ca dao, truyện cổ tích đều là các thông báo”. [48; tr 41].
Đến Vũ Ngọc Phan (1978), trong cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”,
tác giả đã phân biệt thành ngữ và tục ngữ một cách khá rõ ràng: “Tục ngữ là
một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một
luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần
câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng
tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi
thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Về cấp độ,
thành ngữ ngang hàng với từ, thành ngữ là anh, từ độc lập là em, vì thành
ngữ qua thời gian, đã được tập hợp một cách gắn bó thành cụm”. [40; tr 37].
Đỗ Thị Kim Liên trong công trình “Tục ngữ Việt Nam dưới góc nhìn ngữ nghĩa

– ngữ dụng” cũng đã đưa ra các tiêu chí để phân loại thành ngữ và tục ngữ.
Tác giả phân loại dựa vào cấu tạo, ngữ nghĩa, chức năng và đích tác động.
Qua đó, có thể thấy việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ một cách triệt
để, rạch ròi với các tiêu chí cụ thể vẫn chưa đi đến đích. Điều này hiện nay
vẫn đang được các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Trong khuân khổ luận
văn, dựa trên việc kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi tạm
thời nêu ra sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ như sau:


Về số lượng âm tiết:

12


Thứ nhất, thành ngữ thường chủ yếu gồm 4 âm tiết, cũng có khi có 3
âm tiết, ví dụ, trong tiếng Việt: Đầu xuôi đuôi lọt, con dại cái mang, Khô như
rang, Cứng như đá, trong tiếng Hàn: “견견견견” (hỏi đông đáp tây – hàm ý
những người hỏi một đằng trả lời một nẻo, trong tiếng Việt có câu “hỏi gà đáp

vịt”) , 견견견견 (làm một chén – dùng để rủ ai đó đi ăn nhậu cùng)…
Ngược lại, tục ngữ thường có cấu tạo 6 âm tiết trở lên, cũng có tục ngữ
4

âm tiết nhưng chúng tại khác thành ngữ về mục đích. Ví dụ, trong tiếng

Việt,:“Có đi có lại mới toại lòng nhau”, “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”,
trong tiếng Hàn: “견견 견견 견견 견견 견견 견견” (Miếng bánh cho đi có
to thì miếng bánh nhận về, đến mới to – hàm ý khi người khác thăm hỏi, biếu
xén hay làm điều gì tốt cho mình thì mình cũng phải báo đáp lại một cách tử
tế thì quan hệ đó mới bền chặt được, trong tiếng Việt có câu “Có đi có lại mới
toại lòng nhau”), “견견 견 견견 견견 견견” (Thuốc đắng thì tốt cho cơ thể
- ý nói thuốc đắng thì chóng khỏi bệnh, lời nói thẳng thắn thì khó nghe nhưng
lại tốt, bổ ích cho mình nên chớ nóng giận, tiếng Việt có dùng: “Thuốc đắng
dã tật, sự thật mất lòng”)…


Về cấu tạo:

Thành ngữ có cấu tạo là một cụm từ cố định, giữa các thành tố có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, nó là một bộ phận của câu.
Ví dụ trong tiếng Việt: Mồm cá ngão, Mẹ tròn con vuông…
Trong tiếng Hàn: “견견견 견” (bánh vẽ - để nói những việc hão huyền,
“mơ hão”), “견견견 견 견견” (Nằm ăn bánh gạo – hàm ý nói những việc dễ
dàng, “dễ như trở bàn tay” trong tiếng Việt)…

13


Ngược lại tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, đưa ra trọn vẹn một nhận

định, một phán đoán, quan hệ giữa các thành tố trong tục ngữ là quan hệ tự do,
quan hệ cú pháp
Ví dụ: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”

Trong tiếng Hàn: “견견견 견견 견견 견견견 견견” (Nếu nhện chăng
tơ thì thời tiết đẹp – đây là câu tục ngữ nói về thời tiết, kinh nghiệm thời tiết)


Về chức năng:

Thành ngữ chỉ là cụm từ, tương đương với từ, nó đóng vai trò là một
thành phần của câu nên thường làm thành phần cấu tạo câu. Vi vậy, thành ngữ có
chức năng cấu tạo câu. Còn tục ngữ là một câu độc lập, một phán đoán, thực hiện
chức năng thông báo. Vì vậy, tục ngữ có chức năng cấu tạo đoạn văn.


Về ngữ nghĩa:

Thành ngữ thường thể hiện những hình ảnh liên tưởng sinh động, biểu
cảm, giàu tính hình tượng. Ngoài ra, thành ngữ thường dùng nghệ thuật tu từ,
ẩn dụ, hoán dụ, thậm xưng. Ví dụ như là:
“Chân cứng đá mềm” (biện pháp hoán dụ)
“Chuột sa chĩnh gạo” (biện pháp ẩn dụ)
“Hô phong hoán vũ” (thậm xưng)
Trong tiếng Hàn: “견견견 견견” (Ăn mỳ - hàm ý muốn hỏi ai đó khi
nào thì tổ chức lễ cưới và mời mọi người ăn cưới).
Nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trưng, khái quát, cô đọng và hình
tượng bóng bẩy. Điều đó tạo cho thành ngữ những ấn tượng mạnh mẽ đối với
người nghe, người đọc, tạo hiệu quả diễn đạt và sức biểu đạt cao.
Ngược lại, tục ngữ thường diễn đạt một ý trọn vẹn, một phán đoán.

Nghĩa của tục ngữ thường nêu lên những đúc rút kinh nghiệm của con người
lao động, sản xuất, đấu tranh sinh tồn trong tự nhiên và xã hội. Ví dụ: “Đêm
14


tháng năm chưa nằm đã sáng; Ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Trong tiếng

Hàn: “견 견 견견 견견 견견견견” (Sau khi mưa đất trở nên cứng hơn – câu
tục ngữ này không chỉ đơn thuần nói về thời tiết mà còn hàm ý là: trong cuộc
sống, sau khi trải qua những khó khăn thì con người ta sẽ trưởng thành hơn).
Tục ngữ thường là những câu nói có vần điệu, cân đối, dễ nhớ, phản
ánh những bài học, kinh nghiệm sống, nhận định về mối quan hệ giữa con
người với nhau, quan hệ giữa con người với tự nhiện và xã hội.
Trên cơ sở cách phân loại trên chúng ta có thể tìm thấy điểm tương
đồng và khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ trong bảng sau:
Giống nhau

Về số lượng âm
tiết
Về cấu tạo (ngữ
pháp)

Về chức năng

15


Về ngữ nghĩa

Tất cả những phân định, phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ dựa vào

các tiêu chí trên chỉ mang tính tương đối vì trong thực tế vẫn có những đơn vị
“lưỡng khả”, có thể quan niệm là thành ngữ hay tục ngữ đều được.
1.4. Một số biện pháp tạo nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ.
Có nhiều biện pháp, hình thức để tạo nên nghĩa biểu trưng đối với thành
ngữ, tục ngữ.
Thứ nhất là biểu trưng dựa vào mối quan hệ liên tưởng như: so sánh, ẩn
dụ, hoán dụ.
Thứ hai là biểu trưng dựa vào quan hệ kết hợp như: điệp ngữ, tương
phản, khoa trương… Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi chủ yếu tập
trung vào ba biện pháp thứ nhất đó là: So sánh, ẩn dụ và hoán dụ.
Biện pháp so sánh: So sánh là lối đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có
một hay nhiều dấu hiệu giống nhau về hình thức bên ngoài, hoặc tính chất bên
trong nhằm mục đích giải thích, miêu tả, đánh giá hay bộc lộ tình cảm về đối
tượng được nói đến.
Biện pháp này được sử dụng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày, nó giúp người nghe có thể hiểu điều mà mình muốn nói, muốn biểu đạt
nhanh chóng hơn.
Tác dụng của biện pháp so sánh là dùng để miêu tả đối tượng bằng
những hình ảnh cụ thể, gồm cả giải thích, đánh giá và biểu lộ tình cảm. Có thể

16


nói so sánh chính là biện pháp cơ bản được sử dụng nhiều trong tục ngữ,
thành ngữ.
Chúng ta có thể kể đến một số thành ngữ, tục ngữ như là: Nhanh như
cắt, hiền như Bụt, gầy như mắm, cứng như đá, đẹp như tiên, chậm như rùa;
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống (So sánh phân hạng); Có mười thì tốt,
có một thì xấu (So sánh tương phản); Vợ chồng như đũa có đôi; Tiền vào nhà
khó như gió vào nhà trống; Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân; Miếng ngon

nhớ lâu, đòn đau nhớ đời…v.v.
Chúng ta cùng phân tích một số câu thành ngữ, tục ngữ dưới đây để
cùng rõ ý nghĩa và biện pháp so sánh được sử dụng trong những câu đó.
Thành ngữ “Gầy như mắm” hay “Gầy như cá mắm” là thành ngữ để
nói những người có thân hình mảnh mai, gầy guộc. Thành ngữ đó đã dùng
hình ảnh con cá mắm (là loại cá phơi khô không còn nước) để so sánh với
người rất gầy, khô không có sức sống. “Hiền như Bụt” hàm ý những người
hiền lành vì chúng ta biết Bụt thường xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,
xuất hiện để cứu giúp những người có khó khăn, nỗi khổ, bế tắc. Hay “Ngang
như cua” dùng để ám chỉ những người nói hay có hành động ngang ngược,
hay bàn ngang, bàn lùi. Những người đó được so sánh với con cua vì con cua
bò ngang. Thành ngữ“Cứng như đá” là để chỉ những vật rất cứng không dễ
có thể làm vỡ nó ra được. Dùng hình đá để so sánh, đá rất cứng nên muốn thể
hiện những vật cứng, rắn. Câu tục ngữ “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống” là tục ngữ nói về một kinh nghiệm của nghề làm nông nghiệp: “nước,
phân, sự chăm sóc, giống” là những yếu tố quyết định đến sản lượng của đồng
ruộng. Câu “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống” (trống: nghĩa là trống
trải) ý nói những nhà đã nghèo thì bao nhiêu vào cũng vẫn trống, vẫn không
đủ. Câu “Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời” hàm ý khi nói năng thì hãy
cẩn thận, cẩn trọng với lời nói của mình. Nói những lời cay độc khiến người
khác đau đớn rằn vặt cả đời.

17


Trong tiếng Hàn khi muốn nói những việc dễ dàng thực hiện thì dùng
biểu hiện: “견견 견 견견” (Ăn cháo nguội – việc gì đó quá dễ dàng và được
người Hàn Quốc ví với việc ăn cháo nguội) hay “견 견견 견견견견” (Chống
tay xuống đất bơi trên mặt đất). Còn khi muốn diễn tả những công việc rất
khó, gần như không thể làm được thì dùng biểu hiện: “견견견 견 견견” (Hái

sao trên trời – hàm ý những việc khó khăn nhưng cho dù có có gắng nhưng
cũng khó đạt được).
Hay thành ngữ như:
“견견견견” (Như cá gặp nước)
“견견견 견견견견견” (Như chó chạy sấm/ Chạy như chó phải pháo)
Biện pháp ẩn dụ: là hình thức chuyển nghĩa dựa trên cơ sở liên tưởng
nét giống nhau của hình dáng, màu sắc, tính chất, phầm chất hoặc chức năng
của đối tượng khác loại. Ẩn dụ khác so sánh ở chỗ chỉ giữ lại vế được so sánh.
Xét về mặt cấu trúc, ẩn dụ có các dạng: Ẩn dụ bằng danh từ; Ẩn dụ
bằng tính từ; Ẩn dụ bằng động từ; Ẩn dụ cả câu.
Xét về mặt liên tưởng thì ẩn dụ cũng có nhiều loại, có thể chia làm bốn
loại là: Lấy cái cụ thể biểu thị cái trừu tượng; Lấy cái cụ thể biểu thị cái cụ
thể; Lấy cái trừu tượng biểu thị cái trừu tượng; Lấy cái trừu tượng biểu thị cái
cụ thể
Ngoài ra, trong cách nói ẩn dụ thì “Ví” cũng được coi là một cách nói
ẩn, ví von, không nêu rõ đối tượng nên ẩn dụ thường có tính phiếm chỉ hoặc
ám chỉ. Cách nói ẩn dụ có phần bóng gió, xa xôi, chính vì thế mà ẩn dụ có thể
đặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau mà vẫn phù hợp.
Chúng ta cùng tìm hiểu biện pháp ẩn dụ qua những thành ngữ, tục ngữ
ví dụ như là: Ếch ngồi đáy giếng, đầu trâu mặt ngựa, đầu voi đuôi chuột; Gần

18


×