Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.29 KB, 15 trang )

Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC DUY TRÌ SĨ SỐ
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Để  thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ  trọng tâm của  
ngành giáo dục, của mỗi địa phương, mỗi đơn vị  trường học đó là công tác duy trì sĩ số 
học sinh, chống học sinh bỏ  học. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội 
nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí, đào tạo  
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chỉ thị số 61/CT­TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng  
đã nêu “Bước vào thế  kỉ  XXI, chất lượng nguồn nhân lực giữ  vai trò quyết định trong  
việc phát huy nội lực, phát triển đất nước, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập khu vực và 
quốc tế. Vì thế việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học (PCGDTH) và PCGDTH đúng  
độ tuổi nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện sự  điều động cán bộ  quản lí, tháng 9 năm 2008 tôi về  công tác tại 
trường TH Nguyễn Viết Xuân, trong hoàn cảnh nhà trường vừa đón nhận bằng công 
nhận chuẩn quốc gia mức độ 1. Trường gồm hai phân hiệu cách xa nhau 2,5 km, hầu hết  
là người kinh sinh sống tại địa phương. Đa số thanh niên xây dựng gia đình xong đều đi  
mua đất làm ăn xa ở Đak Nông, Gia Lai, Bình Phước…nên toàn là gửi con cho ông bà và 
người thân trông coi. Nhiều gia đình thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chỉ lo làm thuê kiếm 
tiền sinh sống, một số bộ phận gia đình không hạnh phúc, li hôn, li thân…đã ảnh hưởng  
đến tâm lí của trẻ, không ai quan tâm đến nơi đến chốn, việc học hành được sao hay vậy, 
khi đi học, khi bỏ  học gia đình không hay biết. Đó là những vấn đề  thực tế  xảy ra tại  
trường TH Nguyễn Viết Xuân trong những năm qua. Vậy làm thế nào để đảm bảo duy trì 
sĩ số học sinh 100%, là người làm công tác quản lí nhiều năm, trăn trở  với việc học sinh  
có nguy cơ bỏ học, mong góp một phần công sức nhỏ vào việc duy trì sĩ số học sinh, nên  
tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số”.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
1




Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Làm thế  nào để  khắc phục tình trạng học sinh bỏ  học để  đảm bảo duy trì sĩ số 
hàng năm. Giải quyết được công tác duy trì sĩ số nhà trường sẽ thực hiện đúng mục tiêu  
PCGDTH và PCGDTH đúng độ  tuổi, đó là vấn đề  đặt ra cho người quản lí nhà trường.  
Bất kì người quản lí nào cũng mong muốn học sinh mình từ đầu năm học đến cuối năm 
học đều đảm bảo tốt về mặt duy trì sĩ số, chất lượng học tập cũng như  các hoạt động  
giáo dục khác được nâng cao. Nhưng thực tế không đơn giản như mong muốn của chúng  
ta, vì quản lí về  con người rất phức tạp, mà đối tượng cụ  thể  là học sinh tiểu học, các  
em còn nhỏ  tuổi, chưa có nhận thức cao, mỗi em có mỗi hoàn cảnh và điều kiện sống  
khác nhau., nếu không có cách làm khéo léo, tận tụy thì sẽ không đảm bảo được duy trì sĩ  
số như mong muốn.
Nhiệm vụ của đề tài này tôi tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Nắm rõ thông  
tin về học sinh – Hoàn cảnh gia đình – các điều kiện cần giúp đỡ học sinh – Một số hoạt  
động để thu hút học sinh đế trường “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Là học sinh trường TH Nguyễn Viết Xuân trong 5 năm học.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Từ  năm học 2010 – 2011 đến học kì I năm học 2014 – 2015 trên địa bàn ba thôn  
Quỳnh Ngọc. Cụ thể
Năm học
2010 – 2011
2011 – 2012
2012 – 2013
2013 – 2014
2014 ­ 2015  (Kì I)

Dân tộc

11
13
15
13
15

TSHS
304
303
300
284
287

I.5. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp thống kê
­ Phương pháp điều tra khảo sát
­ Phương pháp phối kết hợp
II. PHẦN NỘI DUNG
2

Hộ nghèo
63
58
55
40
38


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên


II.1. Cơ sở lí luận
Trong những năm qua được sự  quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cấp các  
ngành ở địa phương, sự qua tâm chỉ  đạo sát sao của Phòng Giáo dục và đào tạo về công  
tác phổ cập giáo dục tiểu học. Nhưng tình trạng học sinh bỏ học vẫn còn xảy ra ở  một  
số trường tiểu học, dẫn đế công tác duy trì sĩ số không đảm bảo là nổi lo của nhà trường,  
của các bậc phụ  huynh và  ảnh hưởng đến chất lượng phổ  cập chung của toàn ngành.  
Nguyên nhân của tình hình trên xuất phát từ  nhiều phía đó là gia đình – nhà trường – xã  
hội – bạn bè. Tuy nhiên với chức năng là cơ  quan quản lí giáo dục, nhà trường vẫn luôn  
giữ vai trò chủ  đạo trong việc giúp các em học tập tốt, duy trì tốt sĩ số  hàng ngày, hàng  
năm, cũng như vận động, thuyết phục đối tượng học sinh bỏ  học trở  lại trường thì mới  
đảm bảo được công tác duy trì sĩ số.
II.2. Thực trạng
a. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi: Trường TH Nguyễn Viết Xuân tôi đang công tác đã được công nhận  
chuẩn từ tháng 4 năm 2008. Cơ sở vật chất đảm bảo đủ cho công tác dạy học. Đa số học  
sinh của trường là người kinh, không có học sinh là người dân tộc tại chỗ. Đời sống của 
một số bộ  phận gia đình học sinh có điều kiện quan tâm đến con cái. Đội ngũ giáo viên 
trẻ, có tinh thần trách nhiệm với công việc được giao. 
* Khó khăn
Mặt dù trường mới đạt chuẩn nhưng cơ sở vất chất cũ kĩ đã xuống cấp trầm trọng 
chưa được các cấp đầu tư  sửa chữa. Địa bàn dân cư  rộng nhất xã (gồm 3 thôn Quỳnh 
Ngọc). Đời sống của nhân dân khó khăn, hàng năm tỉ  lệ hộ  nghèo giảm không đáng kể.  
Đối tượng thanh niên trong thôn xây dựng gia đình xong đi nơi khác mua đất làm ăn sinh  
sống ngày càng nhiều. Còn lại trong thôn chủ yếu là người lớn tuối, những người có hoàn 
cảnh khó khăn. Chính vì vậy nên việc gửi con cho ông bà và người thân trông nom, chăm 
sóc rất nhiều, bố mẹ không gần gũi con cái, được sao hay vậy. Bên cạnh đó còn có một  
số em học sinh  ở bên kia sông ( khu vực Buôn Choăch, Krông Nô) vì điều kiện ở đó quá  
xa trường, nên sang bên này xin học tại trường, điều kiện học sinh hàng ngày phải đi qua 
3



Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

đò, mang theo cơm trưa ăn  ở lại tại trường rất vất vả. Đó là những vấn đề  nan giải mà 
nhà trường phải đối mặt.
b. Thành công – Hạn chế
Trong những năm học vừa qua với kinh nghiệm của bản thân, sự chỉ đạo thực hiện 
tốt công tác chủ nhiệm lớp, công tác PCGDTH về việc điều tra nắm số liệu trên địa bàn  
và thực hiện tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, cùng với việc vận động quyên góp giúp  
đỡ  bạn nghèo và có hoàn cảnh khó khăn trong trường để  động viên kịp thời các trường 
hợp học sinh có nguy cơ bỏ học, tạo mọi điều kiện để các em đến trường. Chính vì vậy, 
với các việc làm thiết thực từ công tác chỉ đạo đến khâu thực hiện công tác duy trì sĩ số 
của nhà trường trong những năm qua đã đem lại thành công tốt đẹp, 5 năm liền không có  
học sinh bỏ học, sĩ số hàng năm duy trì đầy đủ theo đúng chỉ tiêu đề ra.
Việc thực hiện công tác vận động học sinh để  đảm bảo duy trì sĩ số  không phải 
một sớm một chiều mà mất rất nhiều thời gian, công sức. Mặt khác, trình độ dân trí thấp,  
không phải ai cũng hiểu rõ về mục tiêu giáo dục, khi gặp gỡ để tư vấn, hợp tác họ thờ ơ, 
không cần thiết, nên đôi khi còn gặp trở ngại.
c. Mặt mạnh – Mặt yếu
Làm tốt công tác duy trì sĩ số  học sinh là hoàn thành mục tiêu giáo dục, trong đó  
hoàn thành công tác PCGDTH và PCGDTH đúng độ  tuổi, nâng cao chất lượng giáo dục 
toàn diện cho học sinh. Đưa công tác này vào thi đua khen thưởng nên toàn thể  cán bộ 
giáo viên đều nêu cao ý thức trách nhiệm với việc tuyên truyền, vận động, động viên đã 
làm tốt công tác duy trì sĩ số, có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình – xã hội.  
Kịp thời phản ánh đến tất cả phụ huynh có con em với các biểu hiện bất thường xảy ra ở 
trường, ở lớp. Có hệ thống thông tin liên lạc bằng điện thoại nhanh, tiện lợi nên kịp thời  
phát hiện trao đổi để kết hợp ngăn chặn và giáo dục học sinh đúng cách. Mặt khác, được 
sự  quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, các đoàn thể  chính trị  xã hội trên địa  
bàn để  kịp thời giúp đỡ  học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Một số  gia đình phụ  huynh đã 
quan tâm đến việc học hành, dạy dỗ  con cái, hàng ngày đưa đón con em đến nơi đến  

chốn, luôn nắm bắt tình hình của con em mình để kịp thời nhắc nhở.
4


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Bên cạnh mặt mạnh, còn thể  hiện mặt yếu là một số  gia đình phụ  huynh không 
quan tâm, dạy dỗ con cái không đến nơi đến chốn, có khi quá cưng chiều con hoặc chiều  
con không đúng cách, có người con cái học hành ra sao, đi đâu, làm gì cũng không hay 
biết, khi sự việc xảy ra thì mới vỡ  lẽ. Nếu không làm tốt công tác duy trì sĩ số  thì công  
tác PCGDTH và PCGDTH đúng độ tuổi sẽ không đạt, kéo theo không đạt các tiêu chí của 
trường đạt mức chất lượng tối thiểu, tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục và trường  
đạt chuẩn quốc gia. Không đảm bảo duy trì sĩ số  sẽ  kéo theo hệ  quả  của các tệ  nạn xã  
hội, chơi game, chất lượng giáo dục không đạt chỉ tiêu…
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Học sinh bỏ học thường do nhiều nguyên nhân khác nhau như: cha mẹ bỏ nhau, gia  
đình không hạnh phúc, gia đình bố mẹ đi làm ăn xa gửi con cho ông bà và người thân nuôi  
dưỡng, bố rượu chè cờ bạc; học lực yếu không theo kịp bạn bè, nghiện chơi game…Việc 
tìm hiểu học sinh nghỉ học phải dựa trên nhiều nguồn thông tin, không chủ quan nóng vội 
tin ngay thông tin đầu tiên từ  phía gia đình, mà cần phải tìm hiểu từ  phía học sinh, giáo  
viên trong trường, cộng đồng xóm làng. Đặc biệt từ đối tượng học sinh về biểu hiện, cử 
chỉ, lời nói, thái độ của các em, để từ đó sàng lọc nắm bắt nguyên nhân chính. Khi đã xác 
định đúng nguyên nhân rồi ta mới có biện pháp tháo gỡ, giúp đỡ phù hợp, kịp thời đem lại  
hiệu quả. Một số học sinh  ở trường tôi trong những năm qua có những yếu tố  tác động  
ảnh hưởng đến công tác vận động để duy trì sĩ số, cụ thể năm học 2010­2011 có em Lưu  
Thị Linh (1B), Lưu Thị Ánh (2C) là hai chị em ruột; năm học 2011­2012 có em Bùi Công  
Quý (3B), em Trần Đức Lương (2A); năm học 2012­2013 có em Nguyễn Văn Lam (5A); 
năm học 2013­2014 có em Nguyễn Văn Tình (3A), Nguyễn Văn Quốc (1A) là hai anh em 
ruột; học kì I năm học 2014­2015 có em Nguyễn Đình Quyết (3B), em Nguyễn Đắc Tình 
(4A). Các yếu tố tác động là gia đình không quan tâm, bị bạn bè và các đối tượng xấu rủ 

rê, lôi kéo, đua đòi ăn chơi, nghiện chơi game và cuộc sống xung quanh tác động đến sự 
nhận thức non nớt của các em…
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra

5


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Như phần thuận lợi tôi đã trình bày ở trên, trường Nguyễn Viết Xuân đóng trên địa 
bàn dân cư là người kinh, một số bộ phận nhân dân kinh tế ổn định có điều kiện quan tâm 
đến đời sống và việc học hành của con cái. Cụ  thể  số  lượng học sinh của trường theo  
từng năm học tôi đã thống kê (ở  mục phạm vi nghiên cứu), cho thấy số  lượng học sinh  
thuộc diện hộ nghèo hàng năm như sau: Năm học 2010­2011 là 63 em, chiếm 20,7%; Năm  
2011­2012 là 58 em, chiếm 19,1%; Năm 2012­2013 là 55 em, chiếm 18,3%; Năm 2013­
2014 là 40 em, chiếm 14,8%; Học kì I năm học 2014­2015 là 38 em, chiếm 13,2%. Như 
vậy tỉ lệ thoát nghèo trên địa bàn có giảm nhưng không đáng kể, có một số gia đình thoát 
nghèo vừa xong lại tái nghèo, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn nên ảnh hưởng 
không nhỏ đến việc học hành của con cái là điều rất rõ. 
Phân tích về thực trạng cho thấy vấn đề một số gia đình đi làm ăn xa, gửi con cho 
người thân: Tôi cũng đã trao đổi trực tiếp với một số phụ huynh khi đến xin cho con nhập  
học, họ  đã rơi nước mắt vì hoàn cảnh mưu sinh bắt buột phải gửi con, họ cũng không  
yên tâm và đoán trước được phần nào con cái xa bố  mẹ, sẽ có ngày xảy ra một số  việc  
mà không lường trước được, tất cả đều nhờ thầy cô. Có người còn nói rằng, nếu để con  
ở với bố mẹ thì bố mẹ  không làm được việc gì, phải có một người luôn đưa đón con đi 
học vì nhà xa trường, đường sá đi lại khó khăn, thôi thì cứ nhắm mắt gửi cho ông bà, chú 
bác nhà ở gần trường nó tự đi về được. Từ nguyên nhân đó mà họ quyết định gửi con cho 
người thân, rồi dẫn đến hậu quả  là không ai kèm cặp, tự  do đi lại, thích làm gì thì làm  
không ai biết. Phân tích về gia đình nghèo, khó khăn nhiều mặt, bố mẹ bỏ nhau: gia đình 
nghèo không phải là họ  không quan tâm đến con cái, thực tế  cho thấy có người đi làm  

thuê kiếm tiền sinh nhai, nhưng họ đóng góp cho con cái học hành đầy đủ, không để con 
thua kém bạn bè. Nhưng cũng có người nghèo đông con đi làm thuê từ  sáng đến chiều 
mới về, nên không biết con mình ngày hôm đó làm gì, tối về  bận việc cơm nước, giặt  
giũ, khi xong việc là con đã đi ngũ rồi (có phụ huynh đã tâm sự như thế). Đúng vậy, nên  
con họ  có đi học đều, hay thường nghỉ  học họ  cũng không biết được. Việc gia đình bố 
mẹ không hạnh phúc, hay cãi nhau hàng ngày cũng ảnh hưởng nhiều đến con cái, các em  
học hành sa sút, chán nãn thích tụ tập bạn bè đi chơi, không đến lớp, có em học sinh lớp 5 
6


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

nói rằng: “Bố mẹ cháu ngày nào cũng cãi nhau, cũng tiền bạc, cháu nghe chán lắm”. Đấy 
là những việc của người lớn “đầu độc” trẻ con mà họ không hay biết.
Với những vấn đề  nêu trên không phải thành công dễ  dàng mà cần có một quá  
trình kiên trì, chịu khó, nhiều khi đấu tranh với tư tưởng của bản thân, tác động tích cực 
đến đội ngũ tập thể, với các tổ  chức đoàn thể   ở  thôn để  cùng đồng sức, đồng lòng thì 
mới giải quyết được các vấn đề của học sinh. Vậy để khắc phục tình trạng học sinh hay  
nghỉ học, đảm bảo nhà trường duy trì sĩ số  tốt trong nhiều năm qua, tôi đã tiến hành các 
biện pháp như sau:
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Nhằm giúp học sinh có đủ điều kiện đến 
trường, tạo sự tự tin để các em không mặc cảm với bạn bè xung quanh, không lang thang 
bỏ  học, để  gia đình học sinh thấy được sự  quan tâm của nhà trường đối với con em họ,  
giúp họ lúc gặp khó khăn thể hiện tính nhân văn cao quý. Duy trì tốt sĩ số  học sinh là đã 
làm tốt công tác PCGDTH. 
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
­ Biện pháp duy trì sĩ số từ việc khắc phục tình trạng học sinh có nguy cơ  bỏ học  
do hoàn cảnh gia đình bố mẹ đi làm ăn xa:
Đa số thanh niên trong thôn xây dựng gia đình đều đi làm ăn xa, gửi lại con cái cho  

ông bà, chú bác trông nom (vì nơi đến định cư  xa trường, không có người đưa đón). Cụ 
thể có em Bùi Công Quý (lớp 3B), bố mẹ đi làm ăn ở Đak Song, gửi em cho bác ruột trông  
nom để đi học tại trường cho gần. Thời gian đầu em học rất tốt, đi học đều, dần về sau  
giáo viên chủ nhiệm báo cáo học lực em giảm sút, trạng thái chán học, thỉnh thoảng hay  
nghỉ  học. Giáo viên chủ  nhiệm đến nhà bác em là ông Bùi Công Khánh  ở  thôn Quỳnh  
Ngọc 2 để  trao đổi, nắm tình hình thì được biết là ngày nào em cũng đi học thường  
xuyên, để gia đình sẽ nhắc nhở. Chỉ được một thời gian, sau đó hàng ngày em không đến  
lớp, giáo viên chủ nhiệm báo cáo tình hình em nghỉ học. Tôi chỉ đạo cô Hòa Thị Thúy giáo 
viên TPT Đội điều tra hỏi hai em học sinh  ở gần nhà bạn Quý, thì mới biết được là em  
Quý theo các bạn học sinh lớp 6 đã bỏ  học đi chơi game  ở  thôn Tân Tiến. Biết rõ lí do 
7


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

như trên tôi cho mời gia đình đưa em đến văn phòng trao đổi, hỏi rõ sự việc, em khóc và  
nói là nhớ bố mẹ, không thích đi học nữa. Tôi và GVCN phân tích, động viên tác động vào  
tình cảm thương bố mẹ thì phải cố gắng học hành, ngoan để  bố  mẹ  vui, vơi đi nổi nhớ 
con, em hứa sẽ không vi phạm nữa, bác của em cũng nhận lỗi và hứa sẽ  quan tâm theo 
dõi sát việc học hành, đi lại của cháu. Để  chắc chắn hơn tôi yêu cầu GVCN phân công 
hai em học sinh ở gần nhà bạn Quý hàng ngày rủ bạn đi học và về cùng bạn, giúp đỡ bạn 
cùng học, việc làm này có kết quả  em Quý đã đi học đều, chăm chỉ  hơn, hòa đồng cùng 
các bạn. Trường hợp thứ  hai là em Nguyễn Văn Lam (lớp 5A) cũng như  thế,  ở  với bà,  
nghiện chơi game, bạn bè rủ rê mà bỏ học. Trường hợp em Lam lại khác em Quý ở  chỗ 
bố mẹ bỏ nhau, em ở với bà, nhà nghèo, cũng hay nghỉ học, sau đó bỏ học không đến lớp. 
Nhiều lần giáo viên chủ nhiệm đến gặp bà em, bà cũng không biết em đi đâu. Bà nói “Tôi  
cứ  nghỉ  là nó đi học”, “Có hôm nó không về  nhà”; tôi già không quản được nó, nhờ  các 
thầy cô, nhờ  nhà trường. Lại một việc nan giải nữa; Tôi phân công thầy Nguyễn Trí  
Nghĩa  ở  gần nhà và có con thầy Nghĩa lại học cùng lớp với em Lam, điều tra tìm hiểu  
những người xung quanh xóm, phụ nữ thôn và qua các em học sinh ở gần thì mới biết em  

Lam theo bạn đi chơi game. Nhờ  thầy Nghĩa khéo léo gọi em đến nhà thầy, tôi đã  ở  đó 
trước, khi em đến thấy tôi mặt em biến sắc, tôi nhẹ nhàng gọi em vào hỏi han sự việc, từ 
xa đến gần, lúc đầu em chối, sau một lúc tôi đưa ra các chứng cứ em đi chơi với ai, chơi  
ở quán net nào, thì em im lặng. Tôi và thầy Nghĩa phân tích một lúc, dần sau đó em nhận 
lỗi. Tôi hỏi em có nguyện vọng gì thì nói với cô, cô sẽ giúp đỡ, em bảo là xin áo trắng và 
đôi dép để đi học, tôi chấp nhận và nói hôm sau cô sẽ mua, nhưng em hứa với cô là không  
được nghỉ  học, không được đến quán net nữa, phải thương bà, không được làm cho bà 
buồn, nói đến đây em rưng rưng nước mắt. Hôm sau tôi mua 1 chiếc áo trắng giá 60.000đ  
và một đôi dép quay hậu giá 55.000đ, tôi gọi em vào phòng đưa cho em,  nhìn nét mặt em  
rất vui và em cảm ơn tôi. Tôi nói với em, từ nay cô phân công bạn Dũng (con thầy Nghĩa)  
giúp đỡ em học đấy nhé, gắng chăm học nghe không, em cười bẻn lẽn và chào tôi. Từ đó  
em đi học đều nhờ sự kèm cặp và đã tiến bộ hẵn vào cuối năm học.

8


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Với những thuận lợi – Khó khăn; Thành công – Hạn chế;  Mặt mạnh – Mặt yếu  
tôi đã nêu, tất cả các nguyên nhân xảy ra xuất phát từ  hoàn cảnh gia đình, nhà trường là 
nơi trực tiếp giải quyết sự việc xảy ra với tất cả tình thương yêu học sinh, không thể để 
các em bỏ học giữa chừng, không phải vì thành tích. Chính là vì lương tâm nghề nghiệp, 
coi học sinh như con em mình, vì thế phải làm hết sức và bằng nhiều cách để  huy động 
đưa các em trở lại trường học. Việc làm đó đã hoàn thành công tác duy trì sĩ số, PCGDTH 
mà các cấp các ngành quan tâm. Chính vì vậy trong nhiều năm qua tỉ lệ đạt phổ cập giáo  
dục tiểu học và phổ  cập giáo dục tiểu học đúng độ  tuổi của trường TH Nguyễn Viết  
Xuân luôn vượt chỉ  tiêu quy định theo Thông tư  36/2009/TT­BGDĐT và luôn dẫn đầu 
công tác phổ cập trong xã.
­ Biện pháp duy trì sĩ số từ việc khắc phục tình trạng học sinh có nguy cơ  bỏ học  
do hoàn cảnh gia đình nghèo, kinh tế khó khăn:

Trong những năm qua, nhà trường có tiếng là  ở  vùng thuận lợi, học sinh người  
kinh, nhưng thực tế đi sâu vào trong dân với thấy nhiều nổi khổ. Trường hợp này có em 
Lưu Thị Ánh, Lưu Thị  Linh nhà quá nghèo, gia đình có ba mẹ  con, không có bố. Mẹ  em  
luôn đi làm thuê để nuôi cả gia đình, nhà không có ở, phải ở nhờ chòi rẫy của người ta, xa  
trường, nên việc đi học của hai em không đều, có lúc tưởng như  hai em đã bỏ  học. Tôi  
trực tiếp chỉ đạo GVCN, Đội thiếu niên phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh của 
lớp, của trường đến nơi em  ở. Thật tội nghiệp, cái lán vừa đủ  chỗ  chui ra, chui vào, cái 
bếp củi, chiếc chiếu, vài cái nồi, chén, ngoài ra không còn có gì. Sau đó tôi phát động kêu  
goi tùy lòng hảo tâm của cán bộ giáo viên và học sinh, phụ huynh quyên góp mua gạo, mì 
tôm, quần áo giúp đỡ gia đình em,  trích từ quỹ tiết kiệm heo đất, bán phế liệu mua tặng  
hai chị em 1 chiếc xe đạp trị giá 1.200.000 đồng để hai chị em có phương tiện chở nhau đi  
học. Từ ngày có chiếc xe đạp hai chị em đi học chuyên cần, không hay nghỉ học nữa, mẹ 
em rất mừng, cảm động và cảm  ơn tất cả  các thầy cô, mọi người xung quanh đã quan  
tâm, giúp đỡ. Giữa học kì I năm học 2014 – 2015 có em Nguyễn Đình Quyết học sinh lớp 
3B, gia đình em có hai mẹ  con, gia đình thuộc diện hộ  nghèo, em rất ngoan, học giỏi, 
nguyện vọng của em nói với mẹ  là cố  gắng học giỏi để  được tiền thưởng mua một  
9


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

chiếc xe đạp. Nhưng không may tháng 11/2014 mẹ  em đi mua phế  liệu bị  tai nạn giao 
thông rất nặng, phải nằm viện điều trị gần hai tháng. Em một mình bơ vơ không ai chăm  
sóc, phải gửi cho người dì để ở nhờ (nhà dì cũng nghèo). Từ ngày đó em thường hay nghỉ 
học, GVCN hỏi han em bảo là nhớ  mẹ, khi nào mẹ  về  mới đi học. Nắm được nguyên 
nhân tôi đã triển khai trong cuộc họp chi bộ, họp hội đồng kêu gọi cán bộ viên chức, học  
sinh tùy tâm ủng hộ để giúp đỡ  em và mẹ em vượt qua khó khăn hoạn nạn, bên cạnh đó  
cũng kêu gọi đến người thân của cán bộ giáo viên phát tâm ủng hộ giúp đỡ, tổng số tiền 
quyên góp được gần bốn triệu đồng; nói chuyện với mẹ em trên giường bệnh là sẽ  mua  
cho em 1 chiếc xe đạp, số  tiền còn lại phụ  tiền thuốc men. Mẹ em cảm động khóc rất  

nhiều, từ ngày có chiếc xe đạp em phấn khởi đi học đều. Như vậy, năm học nào cũng có  
một vài trường hợp học sinh có nguy cơ bỏ học.
­ Biện pháp duy trì sĩ số từ việc khắc phục tình trạng học sinh có nguy cơ  bỏ học  
do hoàn cảnh gia đình bố mẹ không hạnh phúc, li hôn: 
Bên cạnh những gia đình học sinh có hoàn cảnh kinh tế  khó khăn như  đã nêu  ở 
trên, nhà trường còn có những em học sinh có hoàn cảnh phức tạp như  bố  mẹ  bỏ  nhau  
hoặc bố  có người phụ nữ  khác…nhà trường gặp một số  trường hợp mà phải tốn nhiều  
công sức để  vận động, giúp đỡ  các em. Sau đây là trường hợp của hai em Nguyễn Văn 
Tình và Nguyễn Văn Quốc (hai anh em ruột); gia đình bố mẹ em bỏ nhau, bố đi biệt tích,  
mẹ  em lại hai lần nữa đi lấy chồng khác. Hai anh em Quốc và Tình phải về   ở  với bà 
ngoại ở thôn Quỳnh Ngọc I. Bà ngoại em lại làm rẫy cà phê ở Buôn Kốp, có ngày sáng đi  
làm, tối lại về. Khi đến mùa tưới, mùa thu hoạch thì ba hoặc bốn ngày mới về một lần,  
bà chuẩn bị thức ăn cho hai anh em tự nấu ăn trong mấy ngày, khi hết lại tự ăn mì tôm. Đi  
học quần áo nhem nhuốt, ham chơi rủ nhau đi bắt cá, mò ốc…dần dần thường vắng học, 
giáo viên đến nhà thì không gặp bà (nghe hàng xóm nói bà đi làm mấy ngày mới về một 
lần). Tình hình này không  ổn, phải có biện pháp ngăn chặn. Tôi đã chỉ  đạo cô Vũ Thị 
Chín nhà ở Buôn Kốp chịu trách nhiệm điều tra, hỏi thăm dò chỗ làm rẫy của bà Đỗ Thị 
Dựng (bà ngoại của hai em), trực tiếp gặp bà và trao đổi tình hình hai cháu của bà có nguy 
cơ bỏ học, thì bà mới vỡ lẽ “Thôi chết rồi”, thỉnh thoảng tôi về nghe người ta nói, tôi có 
10


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

hỏi chúng nó, nhưng chúng nó chối là không có, nay cô nói thì tôi mới biết, để tôi về rồi  
lên gặp nhà trường. Mấy hôm sau, bà đến trường dẫn theo hai em lên gặp tôi và cô Chín, 
tôi gọi hai GVCN của hai em lên, giáo viên trình bày tình hình hai em trong thời gian qua.  
Bà bảo hai em kể ra các việc làm của mình đã bỏ học đi chơi lang thang; hai em tự nhận  
lỗi, bà nhận lỗi. Tôi đã tha thứ  và động viên hai em cố  gắng đi học đều, chỉ  đạo Đội  
thiếu  niên  quyên  góp  mua   hai   bộ   quần  áo  trắng  tặng  cho  hai  em.   Phân  công  cho  cô 

Nguyễn Thị  Luyến nhà  ở  gần đó cùng với GVCN chịu trách nhiệm theo dõi, giúp đỡ,  
nhắc nhở và báo cáo về nhà trường tình hình hai em. Từ đó hai em đã ngoan, có tiến bộ đi  
học đều, nhưng việc tiếp thu bài còn chậm. 
­ Biện pháp duy trì sĩ số khắc phục tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ học với các 
hoạt động ngoài giờ lên lớp
Tổ  chức các hội thi như  văn nghệ, thi làm lồng đèn, nhiều trò chơi dân gian, kéo 
co, nhảy bao bố,…. tất cả  các hội thi, các trò chơi thắng đều có thưởng nên đã thu hút 
học sinh nhiều nhất, các em vui vẻ, hào hứng tham gia với sự  cổ  vũ nhiệt tình, sôi nổi 
của các bạn và thầy cô. Điều quan trọng mà chúng tôi thấy được ở tất cả các hoạt động 
này, những em mà nhà trường đã vận động đi học lại qua các lần nghỉ  học lại tham gia  
tích cực và hăng say nhất, đó là tín hiệu mừng mà nhà trường đang mong đợi.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Cần phải có thời gian, nắm rõ sự  việc cụ  thể; có sự  phối hợp giữa gia đình, nhà 
trường và sự hỗ  trợ  của cộng đồng. Cần vận động quyên góp có kinh phí để  thực hiện  
biện pháp nêu trên.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp
Cần phải có mối quan hệ  thống nhất, chắt chẽ. Tình huống xảy ra và việc làm 
phải hợp tình, hợp lí. Giải quyết các biện pháp nêu trên phải phù hợp với không gian, thời  
gian, hoàn cảnh thực tế đạt được hiệu quả như mong muốn.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Trong 5 năm kết quả  khảo nghiệm thực tế  cho thấy (ở  phần nguyên nhân tôi đã  
nêu) cụ thể:
11


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Vận   động   học  Vận   động   học   sinh  Vận động học sinh có nguy 
sinh   có   nguy   cơ  có nguy cơ bỏ học vì  cơ bỏ học vì hoàn cảnh gia 
Năm học


bỏ   học   vì   hoàn  hoàn cảnh kinh tế gia  đình   không   hạnh   phúc,   li 

Ghi chú

cảnh gia đình đi  đình   khó   khăn,   hoạn  hôn 
làm ăn xa

nạn 

2010­2011
02
2011­2012
01
01
2012­2013
01
01
2013­2014
01
02
2014­2015 (kì I)
01
Trên đây là những biện pháp giúp đỡ, khắc phục tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ 
học của nhà trường trong nhiều năm qua, nhằm đảm bảo công tác duy trì sĩ số  học sinh 
cuối mỗi năm học. Ngoài những nguyên nhân học sinh có nguy cơ bỏ học được nêu, trong 
thực tế  còn nhiều nguyên nhân khác mà nhiệm vụ  đề  tài không thể  nói hết. Nhưng tôi 
thiết nghĩ, dù là nguyên nhân nào thì vẫn đòi hỏi sự quản lí chặt chẽ của nhà trường, gia  
đình đối với học sinh, sự tận tình có tinh thần trách nhiệm của cả đội ngũ, sự  phối hợp  
tốt giữa ba môi trường giáo dục thì mới đạt hiệu quả cao.

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vẩn đề nghiên 
cứu
Quá trình thực hiện các biện pháp quản lí chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh trong  
nhà trường nhiều năm liền, với sự tâm huyết của cả  tập thể từ  lãnh đạo đến giáo viên, 
nhân viên “Tất cả  vì học sinh thân yêu” đã khắc phục được tình trạng học sinh có nguy 
cơ bỏ học, các em đi học đầy đủ, có tiến bộ rõ rệt (phần biện pháp đã nêu). Nhà trường  
đã tạo môi trường giáo dục thân thiện, gần gũi, lành mạnh thu hút học sinh, tạo niềm tin  
đối với phụ huynh. Điều quan trọng chính là giúp học sinh hình thành những kĩ năng sống 
cần thiết, các em có nhận thức về bổn phận, biết chia sẻ, đoàn kết, tinh thần tương thân,  
tương ái giúp đỡ  bạn vượt qua khó khăn, ham thích đến trường với lòng hăng say, tích 
cực học tập và tham gia các hoạt động giáo dục khác. Chấm dứt không có học sinh bỏ 
học giữa chừng; hàng năm trường duy trì sĩ số luôn đạt 100%.

12


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Sau đây là kết quả cụ thể thu được qua khảo nghiệm trong 5 năm học về công tác  
duy trì sĩ số của nhà trường:
TSHS đầu 
Năm học

năm

TSHS cuối  Kết quả vận  Kết quả duy trì 
năm

động để duy 


sĩ số

Ghi chú

trì sĩ số
2010­2011
304
304
02
100%
2011­2012
303
303
02
100%
2012­2013
300
300
02
100%
2013­2014
284
284
03
100%
2014­2015(kì I)
287
01
100%
 Kinh nghiệm này đã được thực hiện thành công ở trường TH Nguyễn Viết Xuân,  

với những biện pháp đã làm tôi mong các trường bạn chia sẻ và vận dụng vào tình hình 
thực tế của đơn vị mình.
III. Phần kết luận, kiến nghị
III.1. Kết luận: Để thực hiện tốt Chỉ thị, nhiệm vụ của từng năm học, người cán 
bộ quản lí lãnh đạo tập thể thực hiện tốt nhiều mặt, nhiều phong trào. Trong đó việc làm 
tốt công tác duy trì sĩ số, không có học sinh bỏ  học là một trong những nhiệm vụ  cấp  
thiết. Muốn làm tốt công tác này người quản lí cần phải quản lí chặt chẽ  học sinh, chỉ 
đạo giáo viên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, kịp thời liên hệ với gia đình khi học sinh nghỉ 
học không có lí do, tìm hiểu nguyên nhân học sinh nghỉ học…Mỗi cán bộ giáo viên là một  
cộng tác viên “dân vận khéo”.
Kết hợp với ba môi trường giáo dục để kịp thời chấn chỉnh tình trạng học sinh có  
nguy cơ bỏ học.
Tổ chức tốt, có hiệu quả các hoạt động vui chơi để các em có cơ hội tham gia.
Mỗi giáo viên phải thực sự  gần gũi, chia sẻ, thương yêu học sinh như  con em  
mình.
Tuyên truyền, vân động tập thể  giáo viên, học sinh, cộng đồng tham gia hỗ  trợ, 
giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho các em có hoàn cảnh khó khăn, thua thiệt bạn bè để các 
em có điều kiện đến trường.

13


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

Giải quyết sự việc phải bình tĩnh, hợp tình hợp lí, làm đến nơi đến chốn, không 
nãn chí.
Là nhà quản lí giáo dục, người Hiệu trưởng phải luôn tâm huyết, trăn trở, luôn sẵn  
sàng hi sinh thời gian, công sức trong công tác tuyên truyền vận động, thuyết phục học 
sinh thì kết quả sẽ đạt được như mong đợi.
III.2. Kiến Nghị:    Không

Trên đây là một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số mà bản thân tôi đã thực  
hiện trong quá trình chỉ đạo công tác duy trì sĩ số học sinh trong nhà trường. Tuy nhiên đây 
là đề tài không mới, có những kinh nghiệm đã đi vào lối mòn thời gian, nhưng nó vẫn cứ 
lặp đi lặp lại mà người cán bộ  quản lí, người giáo viên khi vận động thuyết phục học 
sinh có nguy cơ bỏ học cũng phải sử dụng lối mòn này để  đi thì mới đến được đích của  
phổ cập GDTH.
Với kinh nghiệm tích lũy  cuả  bản thân và vấn đề  là người thật, việc thật trong  
nhiều năm học ở tại trường, tôi đã viết đề tài này. Rất mong được sự góp ý của các đồng  
nghiệp để đề tài được hoàn hảo hơn./.
                                                                           Eana, ngày 04 tháng 02 năm 2015
                                                                                             Ng ười vi ết

                                                                                                                Hu ỳnh Th ị Biên 

14


Đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số ­ Người thực hiện Huỳnh Thị Biên

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………
                                                                                     CH Ủ T ỊCH H ỘI ĐỒNG 
                                                                                             (Kí tên, đóng dấu)

'  


15



×