Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BT HOC KI XA HOI HOC PHAP LUAT 16 09 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.59 KB, 17 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
ĐỀ BÀI: Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội - nhân
khẩu, cho ví dụ cụ thể?

HỌ VÀ TÊN :
MSSV
:
LỚP
:


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………
NỘI DUNG…………………………………………………………………
I.
Khái quát chung…………………………………………………
1. Pháp luật……………………………………………………………..
2. Cơ cấu xã hội………………………………………………………...
II.
Cơ cấu xã hội - nhân khẩu………………………………………
III.
Mối liên hệ giữa pháp luật và cơ cấu xã hội nhân khẩu………
1. Pháp luật và cơ cấu giới tính…………………………………………
2. Pháp luật và cơ cấu lứa tuổi………………………………………….
3. Pháp luật và cơ cấu tình trạng hôn nhân…………………………….
KẾT LUẬN…………………………………………………………………


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………...

1
1
1
2
3
3
4
4
8
12
13
14


Đề bài: Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội - nhân khẩu, cho
ví dụ cụ thể?
BÀI LÀM
Trong những năm qua, hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật về dân số luôn có
sự điều chỉnh nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng và phân bố dân
số hợp lý. “Sinh đẻ có kế hoạch” hay “kế hoạch hóa gia đình” được coi là một
trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của đất nước và là quan điểm xuyên
suốt của Đảng và nhà nước ta trong những năm qua. Nhận thức được vai trò và tầm
quan trọng của pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - nhân khẩu, bằng
kiến thức đã được học cùng với hiểu biết của bản thân, em mạnh dạn chọn đề tài số
1: “Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội - nhân khẩu, cho ví dụ
cụ thể?” để làm bài tập lớn môn Xã Hội học pháp luật.
I.
Khái quát chung

1. Pháp luật

Pháp luật là Hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ
quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Khái niệm pháp luật trong xã hội học pháp luật.
Trong xã hội học pháp luật có hai xu hướng trái ngược nhau trong việc xác định
bản thân khái niệm pháp luật. Một mặt, pháp luật được nhìn nhận với tư cách một
công cụ mà yếu tố chính trị (giai cấp) nằm trong nó mang lại cho pháp luật tính
chất tự giác, có mục đích trong quá trình hình thành cũng như trong khi áp dụng.
Mặt khác, khái niệm pháp luật được xem như một loại chuẩn mực xã hội, là tổng
số các quy tắc hành vi cấu tạo từ các mối liên hệ tự nhiên của con người và xuất
phát từ các nhu cầu, lợi ích của xã hội. Như vậy, trong xã hội học pháp luật từ
trước đến nay luôn tồn tại hai quan điểm (cách tiếp cận) đối với khái niệm pháp
luật. Quan điểm thứ nhất gắn pháp luật với ý chí của nhà nước, do nhà nước xây
dựng, ban hành (pháp luật thực định). Quan điểm thứ hai coi pháp luật như một
loại chuẩn mực xã hội bên cạnh cách chuẩn mực xã hội khác, gắn với lợi ích xã
hội, xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của con người (pháp luật tự nhiên).
3


2. Cơ cấu xã hội

Cơ cấu xã hội (tiếng Anh: social structure) là mối liên hệ vững chắc của các thành
tố trong hệ thống xã hội. Các cộng đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội,...)
là những thành tố cơ bản. Về phần mình, mỗi cộng đồng xã hội lại có cơ cấu phức
tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng. Một số nhà lý
thuyết xã hội còn đưa ra định nghĩa: "Cơ cấu xã hội là mô hình của các mối liên hệ
giữa các thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo
nên bộ khung cho tất cả các xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành

phần và các mối quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác.
Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò, nhóm và
các thiết chế,...".
Cơ cấu xã hội là một khái niệm rộng không chỉ liên quan tới hành vi xã hội mà còn
là mối tương tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống xã hội. Cơ cấu xã hội
cũng bao gồm cả các thiết chế gia đình, dòng họ, tôn giáo, kinh tế, chính trị, văn
hóa, hệ thống chuẩn mực giá trị, cũng như hệ thống các vị trí, vai trò xã hội,
v.v... Xã hội là một tổ chức phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức
xã hội và xã hội. Cơ cấu xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với các quan hệ xã
hội. Cơ cấu xã hội là nội dung có tính chất bản thể luận của các quan hệ xã hội, là
cơ sở của sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội.
Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu xã hội, tuy nhiên, có thể nêu
một cách chung nhất, cơ cấu xã hội là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trong của
một hệ thống xã hội nhất định, đó là sự thống nhất tương đối bền vững của các
nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành hệ thống xã hội.
Những thành tố của cơ cấu xã hội tạo nên xã hội loài người. Trong đó, những
thành tố cơ bản là: nhóm, vị thế, vai trò xã hội, mạng lưới xã hội và thiết chế xã
hội.
Định nghĩa này nêu bật được các đặc trưng cơ bản của cơ cấu xã hội sau:

4


Thứ nhất, cơ cấu xã hội không những được xem là tổng thể, một tập hợp các bộ
phận cấu thành xã hội, mà còn là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trong của một
hệ thống xã hội. Như thế xã hội loài người, rõ ràng cũng giống như mọi khách thể
vật chất khác, là một hệ thống cơ cấu hay một cấu trúc nhất định, bao gồm những
thành tố, các mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò
và chức năng nhất định. Cơ cấu xã hội luôn được xem xét trong sự gắn bó với khái
niệm hệ thống xã hội, tuy nhiên, khái niệm cơ cấu xã hội hẹp hơn nó chỉ phản ánh

bộ khung, dạng thức kết cấu bên trong của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ
bản của hệ
thống xã hội.
Thứ hai, cơ cấu xã hội được xem là sự thống nhất bên trong của các nhân tố, các
mối quan hệ, các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội. Quan niệm này khắc phục
được sự phiến diện khi qui cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội; cũng khắc phục
được sự tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Đúng ra, cơ cấu xã hội
là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ
xã hội. Sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội xuất phát từ sự thống nhất và
đấu tranh giữa
các mặt, các mối liên hệ các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội.
Thứ ba, khi nhìn nhận cơ cấu xã hội “bộ khung” tạo dựng cơ thể xã hội cho ta biết
được một xã hội cụ thể nào đó được cấu thành từ những nhóm xã hội nào. Nhóm
lớn như: một quốc gia, dân tộc, giai cấp, chính đảng, tầng lớp; nhóm nhỏ như: một
tổ chức, cơ quan, xí nghiệp, lớp học... Cũng qua đó ta thấy được vị thế, vai trò và
mạng lưới của từng cá nhân, từng nhóm xã hội, các thiết chế xã hội và các quan hệ
xã hội...
II.
Cơ cấu xã hội - nhân khẩu
Cơ cấu xã hội- nhân khẩu (dân số) là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ
tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng
khác (Khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh dân số năm 2003)

5


Cơ cấu xã hội- nhân khẩu người ta hay gọi là cơ cấu dân số, là nói đến quy mô và
sự phân bố của dân cư cùng với các đặc trưng biểu tượng cho cơ cấu dân số của
một xã hội, một quốc gia hoặc một địa phương.Cơ cấu xã hội cơ bản hiện nay bao
gồm những cơ cấu xã hội cụ thể như sau: Cơ cấu xã hội về dân số(Cơ cấu xã hội

nhân khẩu), cơ cấu xã hội về lứa tuổi, cơ cấu xã hội về lãnh thổ, cơ cấu xã hội về
học vấn, cơ cấu xã hội về nghề nghiệp, cơ cấu xã hội về giai cấp.
Cơ cấu xã hội nhân khẩu nghiên cứu cơ cấu xã hội dân số, xã hội học chủ yếu tập
trung phân tích các biến số cơ bản như mức sinh, mức tử, mức di dân, tỷ lệ giới
tính… thông qua đó để dự báo được quy mô biến đổi và những đặc trưng xu hướng
xã hội, sự tác động của cơ cấu xã hội dân số đến số lượng và chất lượng cuộc sống
con người
Sự vận động và phát triển của cơ cấu xã hội-nhân khẩu tác động lớn đến sự vận
động và phát triển của xã hội. Sự thay đổi về quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân
bố dân cư có ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ như lương thực,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở, tiết kiệm đầu tư, sử dụng nguồn nhân lực,
nguồn lực về vốn, đất đai, công nghệ.
III.
Mối liên hệ giữa pháp luật và cơ cấu xã hội - nhân khẩu
Việc nghiên cứu xu hướng thay đổi của cơ cấu dân số là yếu tố trọng tâm trong
nghiên cứu xã hội học pháp luật nhằm phát hiện những mối liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội nhân khẩu với những thay đổi về kinh
tế- xã hội, qua đó có thể đánh giá về hiệu quả của các chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và nhà nước đến việc ổn định quy mô dân số và nâng cao chất lượng
dân số.
1. Pháp luật và cơ cấu giới tính
Giới tính(sex) chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ (Khoản 1 Điều 5 Luật bình
đẳng giới năm 2006). Đặc điểm của giới tính bị quy định bởi gen qua di truyền từ
cha mẹ sang con. Nó là sản phẩm của quá trình tiến hóa sinh học ở trình độ cao,
biến đổi theo quy luật sinh học không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cá nhân.
Giới (Gender) chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan
hệ xã hội (Khoản 1 Điều 5 Luật bình đẳng giới 2006), phản ảnh sự khác biệt giữa
6



nam và nữ về khía cạnh xã hội. Sự khác biệt này là do quá trình xã hội hóa, mang
tính đa dạng và có thể thay đổi theo không gian, thời gian, từ nên văn hóa này sang
nền văn hóa khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội,
lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định mô hình hành vi đặc thù của nam và nữ trong
xã hội.
Các nhà xã hội học cho rằng, giữa nam và nữ chỉ khác nhau về mặt cấu tạo cơ thể
và những chức năng sinh học gắn liền với sự khác biệt về mặt sinh học ấy. Ví dụ,
phụ nữ có cấu tạo cơ thể để thực hiện chức năng sinh con và cho con bú, trong khi
nam giới không được trang bị về mặt sinh học để làm nhiệm vụ đó. Những sự khác
biệt giữa nam giới và nữ giới về bản chất phần lớn do xã hội tạo ra. Do đó nam tính
hay nữ tính không phải do bẩm sinh mà do quá trình xã hội hóa, tức là do ảnh
hưởng của hoàn cảnh sống, gia đình và giáo dục.Sự khác biệt về vai trò của nam và
nữ chỉ là tương đối, không có bằng chứng nào cho thất sự thống trị thuộc về người
đàn ông, còn đàn bà phải phục tùng. Vì vậy, bình đẳng giới mới được coi là tự
nhiên.
Theo Liên hợp quốc, bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và đàn ông được hưởng
những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người và có cơ hội đóng
góp, thụ hưởng những thành quả phát triển của xã hội nói chung. Ở Việt Nam,
hàng ngàn năm chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo “trọng nam khinh nữ”, cả
cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam chỉ được coi như là “cái
bóng” của người đàn ông với những quan niệm như “xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”. Hơn 60 năm kể từ khi quyền của người phụ nữ Việt Nam lần đầu tiên
được khẳng định “nam nữ bình quyền” trong bản Hiến pháp 1946, bức tranh bình
đẳng giới ở Việt Nam đã có thêm nhiều gam sáng màu.Bình đẳng giới, không có sự
phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực được nhà nước ghi nhận trong
các văn bản pháp luật và trong các công ước quốc tế màViệt Nam tham gia như :
Hiến chương Liên hợp quốc,Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới, Công ước về các
quyền chính trị của phụ nữ, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ…


7


Chính sách bình đẳng nam nữ cũng được thể hiện xuyên suốt tại các bản Hiến
Pháp của Việt Nam.Hiến pháp năm 1946 đã có quy định: “Đàn bà ngang quyền
với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Điều 26 Hiến Pháp 2013 nhấn mạnh:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội bình đẳng giới.2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để
phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.3. Nghiêm cấm
phân biệt đối xử về giới.”. Luật bình đẳng giới 2006 cũng chỉ rõ: “Mục tiêu bình
đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng
giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa
nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.”.Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng có nhiều nội dung quy định về lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trong xã hội. Điển hình là
tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhiều người vẫn quan niệm rằng nam giới đi làm
nuôi gia đình, còn nữ giới ở nhà chăm lo con cái, nhà cửa và phải phụ thuộc vào
người chồng và còn rất nhiều cặp vợ chồng thích sinh con trai dẫn đến mất cân
bằng giới tính. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ số giới tính khi sinh - SRB (Chỉ số SRB
phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này
thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống) của Việt Nam có xu
hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng
chứng về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019
giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái;
năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái). Nếu xu hướng này không có sự cải thiện thì
khoảng hai thập niên tiếp theo sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nam giới so với phụ
nữ cùng tuổi.


8


Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh những vấn đề về
dân số như Pháp lệnh dân số năm 2003, Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày
16/09/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
pháp lệnh dân số, Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em (Được thay thế bới nghị
định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế), quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/03/2016
của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh
giao đoạn 2016-2025.

Bạo lực đối với phụ nữ cũng là một biểu hiện của bất bình đẳng giới. Bạo lực đối
với phụ nữ, còn được gọi là bạo lực trên cơ sở giới và bạo lực giới tính là các hành
vi bạo lực chủ yếu hoặc dành riêng cho phụ nữ hoặc trẻ em gái. Tuyên bố về xóa
bỏ bạo lực đối với phụ nữ của Liên Hợp Quốc ghi rõ, "bạo lực đối với phụ nữ là
biểu hiện của mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng trong lịch sử giữa nam và nữ"
và "bạo lực đối với phụ nữ là một trong những cơ chế xã hội quan trọng mà phụ nữ
bị ép buộc vào vị trí cấp dưới so với đàn ông". Phụ nữ đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, phụ nữ chiếm 48.4% lực lượng lao động, tuy
nhiên phụ nữ thường tham gia vào các công việc không chính đáng và dễ bị tổn
thương. Nhiều người phụ nữ phải tự tạo việc làm hoặc làm việc trong gia đình mà
không được trả công,phụ nữ vừa chăm con vừa nội trợ, vừa tạo thu nhập là nguyên
nhân cản trở người phụ nữ tham gia vào công việc được trả công, đặc biệt là khu
vực chính thức. Trong lĩnh vực chính trị, nam giới thường có vị thế xã hội cao hơn,
nẵm giữ vai trò lãnh đạo, tỉ lệ phụ nữ tham gia vào quốc hội khóa 14 (nhiệm kì
2016-2021) chỉ chiếm tỉ lệ 26.8%.


Quan điểm về giới cho rằng, không chỉ có hai giới nam và nữ mà nhiều hơn hai
giới tồn tại đó là nhóm xã hội bao gồm những người đồng tính luyến ái nữ
9


(Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và người
chuyển giới (Transgender)(LBGT). Mặc dù hiếm có ghi nhận, đồng tính luyến
ái trong thời kỳ cận đại của lịch sử Việt Nam từng được nhắc tới trong một số tài
liệu. Hiện nay, không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính. Năm 2012, Bộ Tư
pháp cho rằng "xét về đảm bảo quyền tự do cá nhân thì việc kết hôn của những
người cùng giới tính cần được công nhận",nhưng cũng nói thêm "Xét về văn hóa
tập quán của gia đình Việt Nam, tính nhạy cảm xã hội của vấn đề, hậu quả xã hội
của quy định pháp luật chưa được dự báo hết; thì ở thời điểm này việc thừa nhận
người cùng giới tính có quyền kết hôn với nhau ở Việt Nam là còn quá sớm".

Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trong
đó có quy định về chuyển đổi giới tính và các quyền, nghĩa vụ liên quan. Luật có
hiệu lực thi hành từ đầu 2017. Điều 37, Bộ luật này quy định: "Việc chuyển đổi
giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có
quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có
các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của
Bộ luật này và luật khác có liên quan". Như vậy, Việt Nam chính thức cho phép
việc chuyển đổi giới tính. Cộng đồng LGBT cũng có quyền bình đẳng giới với các
giới khác về mặt pháp luật như: quyền được công nhận về hôn nhân, quyền được
chuyển đổi giới tính, quyền được sinh con, nhận con nuôi…

2. Pháp luật và cơ cấu lứa tuổi

Cơ cấu lứa tuổi là sự phân chia cơ cấu xã hội theo nhóm tuổi trên cơ sở đặc điểm
tâm sinh lí lữa tuổi hoặc theo khả năng lao động của từng nhóm tuổi khác

nhau.Căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi , cơ cấu lứa tuổi phân chia thành
nhóm bao gổm: trẻ em, thanh niên, trung niên, người cao tuổi.
10


Trẻ em là người dưới 16 tuổi (Điều 1 Luật trẻ em năm 2016), là nhóm xã hội đang
trong quá trình học hỏi các giá trị, chuẩn mực để thích nghi với xã hội, đặc biệt là
chuẩn mực pháp luật. Trẻ em chiếm một tỉ lệ lớn trong có cấu dân số, chính vì vậy,
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát
triển đất nước.Các bộ luật của Việt Nam cũng đều hướng tới bảo vệ và giáo dục trẻ
em như : Luật trẻ em 2016, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Luật
Lao Động, Luật Hình Sự, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình…..

Bộ luật Lao động năm 2012 dành riêng một số quy định về lao động chưa thành
niên như: cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công
việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định… (Điều 120); cấm sử
dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội và Bộ Y tế ban hành (Điều 121). Các quy định này đã góp phần phòng
ngừa các trường hợp bóc lột sức lao động trẻ em, buộc người sử dụng lao động sử
dụng phải tôn trọng và đảm bảo các quyền lợi của trẻ em. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nhằm
hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; bảo
vệ tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và
trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (Chương V - Quan hệ giữa cha, mẹ và
con).Trong Hiến pháp, trẻ em là một công dân đặc biệt, Hiến pháp 2013 quy định:
“ Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được
tham gia vào các vấn đề trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ
mặc. lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”
(Khoản 1 Điều 37). Ngoài ra còn có Qũy nhi đồng Liên Hợp Quốc Việt Nam

(UNICEF Việt Nam). UNICEF là tổ chức Liên Hợp Quốc hoạt động trên toàn cầu
luôn đi đầu trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em ở 190 quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Việt Nam và UNICEF có lịch sử hợp tác lâu dài và rất đáng tin cậy từ
11


năm 1975. Sứ mệnh của UNICEF tại Việt Nam là đảm bảo rằng mọi trẻ em tại
quốc gia này đều khỏe mạnh, được học tập và an toàn không bị tổn hại để các em
có khởi đầu tốt đẹp trong cuộc sống và có cơ hội phát triển tối đa tiềm năng của
mình cũng như hưởng lợi từ sự thịnh vượng của đất nước.

Trẻ em đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, thể chất và trí lực
nên bản thân chúng không thể tự thực hiện các quyền cơ bản của mình được ghi
nhận trong pháp luật vì chúng chưa đủ kĩ năng. Do vậy, trong nhiều trường hợp
trách nhiệm thực hiện quyển trẻ em lại thuộc về cha mẹ, người nuôi dưỡng, người
giám hộ, nhà trường…Độ tuổi trẻ em phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của
mình cũng thay đổi theo thời gian, và theo từng lĩnh vực quan hệ xã hội. Ví dụ như
trong lĩnh vực hình sự trẻ em phải chịu trách nhiệm hình sự với một số loại tội
phạm khi đủ 14 tuổi trở nên. Như vậy, trẻ em luôn luôn là đối tượng cần phải được
quan tâm và ưu tiên bảo vệ nhất trong xã hội. Đem đến một môi trường an toàn là
cách tốt nhất để bảo vệ các em. Để có một môi trường an toàn thì hệ thống pháp
luật là điều kiện tiên quyết, bên cạnh đó là sự chung tay của các cơ quan hành
pháp, tư pháp, của hệ thống hỗ trợ - bảo vệ trẻ em cũng như những người làm việc
trong đó. Đồng thời, không thể thiếu vai trò của gia đình, nhà trường, cộng đồng.

Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi (Điều 1
Luật thanh Niên năm 2005). Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng
hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Nhà nước đã ban hành các chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho thanh niên
học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền

thống dân tộc, ý thức công dân, tạo điều kiện cho thanh niên có ý chí phấn đấu
vươn lên. Thanh niên có các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp đều được tôn trọng và bình đẳng về quyền
12


và nghĩa vụ.Pháp Luật cũng quy định trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội
đối với thanh niên tại Luật Thanh niên 2005 như sau:
“Điều 4. Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên
1. Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm
năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội.
2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí,
phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công
dân, ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
3. Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích cực vào việc
chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên.”
Thanh niên nước ta hiện nay chiếm lực lượng lớn của lao động xã hội, có trình độ,
tính năng động xã hội cao. Đặc trưng của thanh niên là có yêu cầu cao đối với cuộc
sống nhưng lại chưa đủ hiểu biết về hoàn cảnh thực tế, do đó thường dẫn đến mẫu
thuẫn giữa những điều mong đợi và hiện thực. Điều đó đôi khi dẫn đến hậu quả
tiêu cực. Họ không thỏa mãn với lao động thậm chí có những hành vi chống đối xã
hội. Tất cả những vấn đề này đều phải được tính đến trong các nghiên cứu xã hội
học pháp luật.
Người cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên ( Điều 2 Luật người cao
tuổi năm 2009).Theo thống kê của Tổng cục Thống kê trong cuộc tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2019 thì: “Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi,
trong đó tuổi thọ của nam giới là 71,0 tuổi và của nữ giới là 76,3 tuổi. Từ năm

1989 đến nay, tuổi thọ trung bình của Việt Nam liên tục tăng, từ 65,2 tuổi năm
1989 lên 73,6 tuổi năm 2019. Chênh lệch về tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ
qua hai cuộc Tổng điều tra gần nhất hầu như không thay đổi, duy trì ở mức khoảng
5,4 năm.” Xu hướng và tốc độ biến động dân số theo hướng già hóa đang đặt ra
những thách thức cho Việt Nam , nhà nước cũng đưa ra những chính sách để chăm
sóc, bảo vệ quyền lợi, sức khỏe cho người cao tuổi như Luật bảo vệ sức khở nhân
13


dân năm 1989 quy định : “ Người cao tuổi được ưu tirn trong khám bệnh, chữa
bệnh, được tạo điều kiện để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khỏe của
mình”.Luật người cao tuổi năm 2009 cũng quy định rõ các hành vi bị cấm đối với
người cao tuổi như :
“Điều 9. Các hành vi bị cấm
1. Lăng mạ, ngược đãi, xúc phạm, hành hạ, phân biệt đối xử đối với người cao
tuổi.
2. Xâm phạm, cản trở người cao tuổi thực hiện quyền về hôn nhân, quyền về sở
hữu tài sản và các quyền hợp pháp khác.
3. Không thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng người cao tuổi.
4. Lợi dụng việc chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi để vụ lợi.
5. Ép buộc người cao tuổi lao động hoặc làm những việc trái với quy định của
pháp luật.
6. Ép buộc, kích động, xúi giục, giúp người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật đối với người cao tuổi.
7. Trả thù, đe doạ người giúp đỡ người cao tuổi, người phát hiện, báo tin ngăn
chặn hành vi vi phạm pháp luật đối với người cao tuổi.”
Luật hôn nhân và gia đình quy định con có nghĩa vụ kính trọng, phụng dưỡng cha
mẹ; cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà không có con.Bộ luật Hình
sự cũng quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình và có quy định hình thức giảm nhẹ

trong trường hợp người cao tuổi phạm tội và tăng nặng hình phạt hành vi phạm tội
đối với người cao tuổi.Tuy nhiên, dù đã được điều chỉnh nhưng pháp luật vẫn chưa
đáp ứng và thích ứng với thực trạng đời sống người cao tuổi cũng như hệ quả từ
biến đổi cơ cấu tuổi dân số theo hướng già hóa.
Căn cứ vào khả năng lao động, cơ cấu lứa tuổi được chia thành ba nhóm: chưa đến
tuổi lao động, trong độ tuổi lao động, nghỉ hưu. Sự phát triển của cơ cấu dân số ảnh
hưởng lớn đến sự biến động của quá trình phát triển xã hội nói chung.Sự thay đổi
số lượng của các nhóm lứa tuổi chưa đến tuổi lao động, đến tuổi lao động, người

14


hưu trí có ảnh hưởng lớn đến cường độ và tính chất của sự di động xã hội, cơ cấu
nghề nghiệp, tính tích cực của xã hội và đặc biệt là năng suất lao động.
3. Pháp luật và cơ cấu tình trạng hôn nhân

Cơ cấu tình trạng hôn nhân là sự phân chia cơ cấu dân số theo các nhóm tuổi bao
gồm: chưa bao giờ kết hôn, đang trong hôn nhân, li thân, li hôn, góa và liên minh
tự do. Tình trạng hôn nhân có thể ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ gia tăng dân số, tác
động trực tiếp đến sức khỏe, mức sinh, tỉ lệ tử vong của các nhóm. Hôn nhân là
yếu tố có liên quan mật thiết với mức sinh, nhất là ở những nơi mà việc sinh con
ngoài hôn nhân còn rất hạn chế như ở Việt Nam. Phụ nữ kết hôn sớm hơn sẽ tăng
xác suất làm mẹ và làm giảm khoảng cách giữa các thế hệ và do đó sẽ dẫn đến mức
sinh tăng. Vì vậy, những nghiên cứu phân tích về tình trạng hôn nhân có thể giúp
nhìn nhận rõ hơn về động thái mức sinh của dân số đó.
Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số năm 2019 cho thấy, tỷ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên đã từng kết hôn là77,5%. Trong đó, dân số đang có vợ/chồng chiếm
69,2%, dân số đã ly hôn hoặc ly thân chiếm2,1%; xấp xỉ 70% nam giới từ 15 tuổi
trở lên hiện đang có vợ và 68,5% phụ nữ từ 15 tuổi trở lênhiện đang có chồng. Như
vậy, dân số đang có vợ/chồng là tình trạng phổ biến ở Việt Nam. Sự khác biệt về

trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phân bố dân cư, cơ cấu nhóm tuổi, văn hóa,
phong tục tập quán dẫn đến chênh lệch về tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa có
vợ/chồng giữa các vùng. Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển nhất cả nước, tập
trung lực lượng lao động di cư thanh niên lớn và cũng là nơi có tỷ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên chưa có vợ/chồng caonhất (30,2%), cao hơn 1,8 lần so với vùng Trung
du và miền núi phía Bắc (17,0%), vùng có nhiềudân tộc thiểu số sinh sống với
những tập tục văn hóa liên quan đến kết hôn sớm.
Có sự khác nhau về tình trạng hôn nhân giữa nam và nữ: Nữ giới có xu hướng kết
hôn sớmhơn và phổ biến hơn nam. Tỷ lệ dân số nam từ 15 tuổi trở lên đã từng kết
hôn thấp hơn so với nữ, tương ứng là 73,4% và 81,5%. Trong đó, đối với nhóm 1519 tuổi, chỉ khoảng 2% nam giới kết hôn, thấp hơn 6,3 điểm phần trăm so với nữ
15


giới; đối với nhóm 20-24 tuổi, có 20,1% nam giới đã từng kết hôn, thấp hơn 25,5
điểm phần trăm so với nữ giới cùng nhóm tuổi.Tỷ lệ dân số chưa từng kết hôn
giảm dần theo độ tuổi đối với cả nam giới và nữ giới, tỷ lệ này của hai giới gần
như bằng nhau tại nhóm 40-44 tuổi. Ở nhóm tuổi cuối cùng của thời kỳ sinh đẻ
(45-49 tuổi), vẫn còn khoảng 5% nữ giới chưa từng kết hôn. Kết quả Tổng điều tra
năm 2019 cho thấy, tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 25,2 tuổi, tăng 0,7 tuổi so với
năm 2009. Trong đó, tuổi kết hôn trung bình của nam giới cao hơn nữ giới 4,1 tuổi
(tương ứng là 27,2 tuổi và 23,1 tuổi). Tuổi kết hôn lần đầu ở thành thị cao hơn
nông thôn đối với cả nam giới và nữ giới.
Liên minh tự do là tình trạng các cặp đôi sống chung như vợ chồng nhưng không
đăng kí kết hôn, hiện tượng này xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội hiện đại,
đặc biệt ở khu vực đô thị nơi mà các giá trị truyền thống ít có sự chi phối, rằng
buộc các cá nhân. Họ có thể tự do lựa chọn, quyết định những vấn đề riêng tư của
mình mà không vi phạm các quy định cấm của pháp luật. Lí do mà các cá nhân lựa
chọn sống liên minh tự do là vì họ không muốn bị rằng buộc bởi thiết chế hôn nhân
với nhiều vai trò và trách nhiệm.Theo quy định của pháp luật, nam, nữ đủ điều
kiện kế hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng không đăng kí kết

hôn mà chỉ sống chung như vợ chồng thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa
vợ và chồng. Quyền và nghĩa vụ đối với con của nam, nữ sống chung như vợ
chồng được giải quyết theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ và con.
KẾT LUẬN
Qua phân tích thực trạng cơ cấu xã hội – nhân khẩu ta có thể dự báo được xu
hướng vận động và phát triển của dân số của một xã hội ở những giai đoạn lịch sử
nhất định; cũng như mức độ ảnh hưởng, sự tác động của biến đổi cơ cấu xã hội dân số đến sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội, an ninh, văn hóa, tài
nguyên, môi trường… Cao hơn nữa đó là sự tác động đến tổng thể chất lượng cuộc
sống của con người. Như vậy, pháp luật và cơ cấu xã hội nhân khẩu có mối liên hệ
16


mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, góp phần mang lại sự ổn định quy mô dân
số và nâng cao chất lượng dân số, thúc đẩy phát triền kinh tế- xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Xã hội học pháp luật – Đại Học Luật Hà Nội
2. Báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số 2019- Tổng cục thống kê
3. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật theo quan điểm xã hội học – Luật Dương

Gia
4. Bộ Luật Lao Động 2012, Bộ luật Dân sự 2015, Luật bình đẳng giới 2006,

Luật Thanh niên 2005.Luật người cao tuổi năm 2009
5. />
nghien-cuu-bien-doi-co-cau-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-9522.html
6. />
nguoi-viet-nam-tang-them-84-tuoi-trong-30-nam-a6ee630a.aspx
7. />
17




×