Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Dạy học đọc hiểu sang thu của hữu thỉnh trên cơ sở sáng tạo về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng của tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.3 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐÀO THỊ HẢI HÀ

DẠY HỌC ĐỌC HIỂU “SANG THU” CỦA HỮU THỈNH
TRÊN CƠ SỞ SÁNG TẠO VỀ NGÔN TỪ, HÌNH TƯỢNG
VÀ BIỂU TƯỢNG CỦA TÁC PHẨM

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐÀO THỊ HẢI HÀ

DẠY HỌC ĐỌC HIỂU “SANG THU” CỦA HỮU
THỈNH TRÊN CƠ SỞ SÁNG TẠO VỀ NGÔN TỪ,
HÌNH TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG CỦA TÁC
PHẨM

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học (bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 01 11

Cán bộ hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng



HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn luận văn của tôi đã
hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, giúp đỡ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến
GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học
Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy tại
trường THCS Ngô Quyền - Lê Chân, Hải Phòng, trường THCS Mỹ Đức - An
Lão, Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình triển khai thực
nghiệm đề tài.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Đào Thị Hải Hà

3



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GV

Giáo viên

HS

Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

SL

Số lượng

THCS

Trung học cơ sở

TPVC


Tác phẩm văn chương

4


MỤC LỤC
Lời cảm ơn.............................................................................................................................................. i
Danh mục chữ viết tắt...................................................................................................................... ii
Mục lục.................................................................................................................................................. iii
Danh mục bảng.................................................................................................................................. vi
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI............................... 8
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài luận văn...................................................................................... 8
1.1.1. Đọc - hiểu, vấn đề thời sự của nghiên cứu và dạy học văn ...........................8
1.1.2. “Sang thu”, một bài thơ hay với nhiều sáng tạo của Hữu Thỉnh.. 11
1.1.3. Tầm quan trọng của kĩ năng đọc hiểu trong tiếp nhận ngôn từ, hình tượng
và biểu tượng và mối quan hệ giữa ngôn từ, hình tượng và biểu tượng của tác
phẩm....................................................................................................................................................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài đề tài luận văn ................................................................ 22
1.2.1. Định hướng dạy học đọc hiểu tác phẩm "Sang thu" – Hữu Thỉnh trong
sách giáo khoa và sách giáo viên lớp 9 .............................................................................. 22
1.2.2. Khảo sát một số sách tham khảo có hướng dẫn đọc – hiểu tác phẩm "Sang
Thu" – Hữu Thỉnh........................................................................................................................... 24
1.2.3. Khảo sát thực trạng dạy học đọc – hiểu tác phẩm "Sang Thu" – Hữu Thỉnh
26
1.2.4. Khảo sát thực trạng họcsinh học đọc – hiểu tác phẩm "Sang Thu" – Hữu
Thỉnh của học sinh.......................................................................................................................... 31
1.2.5. Nhận xét kết quả khảo sát . .......................................................................................... 35
1.2.6. Một số đề nghị của giáo viên và học sinh về định hướng phương pháp dạy

học văn.................................................................................................................................................. 39
Chương 2. NHỮNG BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRÊN CƠ SỞ
TĂNG CƯỜNG SỰ HIỂU BIẾT CỦA HỌC SINH VỀ NGÔN TỪ, HÌNH

5


TƯỢNG, BIỂU TƯỢNG ĐƯỢC SÁNG TẠO TRONG BÀI THƠ “SANG
THU” CỦA HỮU THỈNH.......................................................................................................... 41
2.1. Vận dụng hoạt động đọc - hiểu trong quá trình dạy học bài thơ

“Sang thu”

– Hữu Thỉnh........................................................................................................................................ 41
2.1.1. Hướng dẫn học sinh đọc “Sang thu” – Hữu Thỉnh trong sự đối chiếu với
những bài thơ khác.......................................................................................................................... 41
2.1.2. Định hướng hoạt động đọc bằng những câu hỏi hướng vào tri thức đọc
hiểu bài thơ "Sang thu" để học sinh tự học trước khi đến lớp.................................. 44
2.1.3. Hướng dẫn học sinh "kĩ năng đọc chính xác" để phát hiện và phân tích giá
trị sáng tạo của ngôn từ trong bài thơ “Sang thu” – Hữu Thỉnh............................. 46
2.1.4. Hướng dẫn học sinh "kĩ năng đọc phân tích" để phát hiện và phân tích
những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ “Sang thu” .. ...............49
2.1.5. Hướng dẫn học sinh vận dụng "kĩ năng đọc sáng tạo" để phát hiện và đánh
giá biểu tượng nghệ thuật trong bài thơ “Sang thu”...................................................... 52
2.2. Thu thập một số ý kiến của học sinh về giá trị nội dung và hình thức của bài
thơ “Sang thu” – Hữu Thỉnh...................................................................................................... 55
2.2.1. Lấy ý kiến về cách hiểu cái hay, cái đẹp của bài thơ “Sang thu” – Hữu
Thỉnh....................................................................................................................................................... 55
2.2.2. Lấy ý kiến thắc mắc chưa hiểu rõ về nội dung và hình thức bài thơ “Sang
thu” – Hữu Thỉnh, đặc biệt là về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng


............

56
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM............................................................................ 57
3.1. Mục đích thực nghiệm......................................................................................................... 57
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .............................................................................. 57
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm................................................................................................... 57
3.2.2. Địa bàn thực nghiệm......................................................................................................... 58
3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm ............................................................................ 58

6


3.3.1. Tiến trình thực nghiệm.................................................................................................... 58
3.3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm....................................................................................... 60
3.4. Kết quả thực nghiệm............................................................................................................. 78
3.5. Đề xuất sau thực nghiệm.................................................................................................... 80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ......................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................... 82
PHỤ LỤC............................................................................................................................................ 84

7


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Kết quả khảo sát giáo viên (Khảo sát 15 GV)........................................... 29
Bảng 1.2. Kết quả khảo sát học sinh (Khảo sát 90 HS).............................................. 33
Bảng 3.1. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng............................................................ 58
Bảng 3.2. Bảng kết quả kiểm tra lớp 9A1, 9A2, trường THCS Ngô Quyền...79

Bảng 3.3. Bảng kết quả kiểm tra lớp 9A5, 9A6, trường THCS Mỹ Đức..........79

8


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang bước sang thế kỉ XXI, thế kỉ của nền kinh tế tri thức, của
công nghệ thông tin và truyền thông, của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó,
mỗi quốc gia muốn phát triển đòi hỏi phải tự khẳng định, thông qua tham gia
cạnh tranh lành mạnh, nhờ có nguồn nhân lực với trình độ cao. Do vậy, đổi mới
nền giáo dục quốc dân là một trong những giải pháp quan trọng, có tính chất
quyết định. Phải xây dựng một nền giáo dục mới, hướng theo giáo dục suốt đời,
hướng vào người học. Với mong muốn người học có thể sẵn sàng tham gia vào
đời sống xã hội, tiếp tục học ở trình độ cao hơn. Như thế, những kiến thức, kĩ
năng và năng lực mà người học có được trong nhà trường phải trợ giúp cho họ
trong việc đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Người dạy học vừa chú ý
mục tiêu giáo dục theo yêu cầu của xã hội; vừa quan tâm đến nhu cầu, sở thích
của cá nhân người học .
Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn trong những năm học tiếp theo là:
Hình thành và phát triển các năng lực cốt lõi và năng lực đặc thù của môn
học; đặc biệt là năng lực giao tiếp (kiến thức tiếng mẹ đẻ cùng với 4 kỹ năng cơ
bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng một cách phù hợp, linh hoạt và
sáng tạo các kiến thức và kỹ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau
trong cuộc sống) và năng lực cảm thụ, thưởng thức văn học.
+

Năng lực tiếp nhận văn bản bao gồm 2 kỹ năng: Đọc và nghe (có thể

thêm quan sát – viewing).

+

Năng lực tạo lập văn bản bao gồm 2 kỹ năng: Nói và viết (có thể thêm

trình bày – Presenting).
Cung cấp các kiến thức môn Ngữ văn cho người học bao gồm tri thức về
tiếng Việt, văn học (văn bản), tập làm văn.
+ Kiến thức tiếng Việt bao gồm: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản.

9


+

Kiến thức văn học gồm: Văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, lý luận

và lịch sử văn học (cơ bản và sơ giản).
+

Kiến thức tập làm văn: Các kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị

luận, thuyết minh, hành chính – công vụ.
Bồi dưỡng và nâng cao vốn văn hóa cho người học thông qua những hiểu
biết về ngôn ngữ và văn học. Từ đó mà giáo dục, hình thành và phát triển cho
học sinh những tư tưởng, tình cảm nhân văn trong sáng, cao đẹp.
Để đáp ứng được những yêu cầu của giáo dục các nhà nghiên cứu cũng như
bản thân người dạy học luôn mong muốn tìm ra những cách thức, phương pháp
dạy học mới phù hợp và hiệu quả. Tìm hiểu TPVC, chúng ta luôn nhận thấy ngôn
từ, hình tượng và biểu tượng có một vai trò đặc biệt trong việc thể hiện nội dung
tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật mới mẻ, độc đáo của tác phẩm.

Sự ra đời của lí thuyết đọc hiểu đã ảnh hưởng nhiều đến phương hướng
nghiên cứu, giảng dạy TPVC ở nước ta. GS. TS Nguyễn Thanh Hùng cho rằng :
“Đọc – hiểu là một địa hạt mới, gợi ra nhiều vấn đề khoa học để phương pháp
dạy học phát triển thêm về mặt lí luận và vận dụng thực tế. Đọc – hiểu cần tách
ra khỏi vòng kiểm soát chật hẹp của phương pháp để trở thành nội dung tri thức
chúng gắn liền với lí thuyết tiếp nhận, lí thuyết giao tiếp, thi pháp học, lí luận
dạy học Ngữ văn”. Qua nghiên cứu, chúng ta nhận thấy rằng vấn đề đọc – hiểu
đã được xem là một trong những vấn đề quan trọng của khoa học cơ bản. Nó gợi
ra nhiều vấn đề đáng suy ngẫm với các nhà giáo dục, nhất là trên con đường đổi
mới phương pháp dạy học đối với môn Ngữ văn. Đọc hiểu đang trở thành xu thế
tiếp cận và giải mã văn bản mà cả giáo viên và học sinh đều quan tâm. Người
giáo viên cần dạy học sinh cách đọc để các em tự đọc lấy, tự phát hiện ra những
nội dung và hình thức tiêu biểu của TPVC.
Đề tài trong văn học mà TPVC phản ánh rất đa dạng, phong phú. Một
trong những đề tài được nhiều tác giả quan tâm đó là đề tài về mùa thu. Mùa thu

10


hiện lên với rất nhiều tín hiệu và các cung bậc cảm xúc khác nhau. Mỗi nhà thơ
đều thề hiện những cảm nhận tinh tế khác nhau về mùa thu. Nếu Nguyễn
Khuyến cảm nhận thu sang vào thời điểm giữa mùa, Xuân Diệu là cuối thu thì
Hữu Thỉnh lại thể hiện được những rung động, cảm xúc của mình lúc giao mùa,
chuyển tiết hạ chuyển sang thu qua bài thơ Sang thu. Đây là một bài thơ mới
được đưa vào chương trình Ngữ văn THCS. Đồng thời là một bài thơ hay nhưng
cũng là một bài thơ khó dạy trong chương trình Ngữ văn 9 ( khó với lứa tuổi học
sinh THCS).
Bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh có những sáng tạo độc đáo, thể
hiện phong cách sáng tác giàu sức gợi cảm, một hồn thơ dung dị, mộc mạc mà
luôn ẩn chứa nhiều lắng sâu và trải nghiệm của chính tác giả.

Xuất phát từ thực tế trên và điều kiện nghiên cứu của bản thân, chúng tôi
chọn đề tài: “ Dạy học đọc hiểu “Sang thu” của Hữu Thỉnh trên cơ sở sáng tạo
về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng của tác phẩm” làm luận văn thạc sỹ.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc rèn luyện kĩ năng tri giác ngôn ngữ,
tái hiện hình tượng và khái quát biểu tượng cho HS trong quá trình tiếp nhận
TPVC.
Trong cuốn Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên Trung
học phổ thông về đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo năm 2005 có chuyên đề: Phương pháp đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn ở trường phổ thông của PGS.TS Nguyễn Viết Chữ. Chuyên đề phân
tích rõ bản chất của quá trình dạy học văn trong nhà trường là quá trình bồi
dưỡng kĩ năng đọc, kĩ năng nghe mà biểu hiện ra là kĩ năng nói, kĩ năng viết và
quá trình phát triển năng lực tiếp nhận văn học. Theo tác giả “phát triển năng lực
tiếp nhận của học sinh là hạt nhân của quá trình dạy học văn hiện đại” [3,tr.5].

11


Đó là năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng và khái quát biểu tượng,
cảm thụ cụ thể kết hợp khái quát các chi tiết nghệ thuật của TPVC.
Trong cuốn Hiểu văn, dạy văn Nxb Giáo dục 2001, GS.TS Nguyễn Thanh
Hùng cho rằng muốn cắt nghĩa văn bản “... phải nghiên cứu và xác định mối
quan hệ bên trong mỗi tác phẩm trữ tình thông qua tác động và chức năng của
hình tượng âm thanh, cấu trúc thơ, của khổ thơ, của hình ảnh” [11, tr.98]. “Phân
tích tác phẩm trữ tình cần phải quan tâm đến bình diện diễn đạt ngôn ngữ nghệ
thuật” [11, tr 103]. Như vậy, để cắt nghĩa TPVC đòi hỏi người dạy và người học
phải nhận diện được hình thức nghệ thuật.
Ngay khi được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9, tác phẩm Sang thu đã

gây được sự chú ý và quan tâm đặc biệt của người đọc. Tác phẩm được phân
tích, cảm nhận và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khía cạnh khác nhau.
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong
nhà trường Nxb Giáo dục 2008 có bài viết Sang thu – những cảm biễn tâm hồn
và sự lập trình ngôn ngữ . Tác giả khẳng định Sang thu là “ cảm giác trực diện
của cái tôi trữ tình như “bỗng nhận ra” và “hình như thu đã về” với tín hiệu
chớm thu đồng thời là cảm hứng trước sự quyến rũ của vẻ đẹp mùa thu thôn dã”
[14. tr222], “...là cảm giác chuyển đổi, gián tiếp qua tạo vật: “Sông ... dềnh
dàng”, “chim vội vã”, “sấm cũng bớt bất ngờ” [5. tr223]. Những cảm giác trực
diện và cảm giác chuyển đổi va chạm với nhau trong toàn bài thơ. Lúc thì song
hành (“hương ổi” song hành với “gió se”) khi thì cặp đôi (“hình như” với “chùng
chình”). Sang thu còn là cảm xúc về thời gian. Cảm xúc về thời gian được thể
hiện qua hình tượng đám mây trong câu thơ “Có đám mây mùa hạ - Vắt nửa
mình sang thu”, câu thơ là điểm nối giữ hai bờ hư thực ( hình như – vội vã).
TS Chu Văn Sơn với bài viết Sang thu – Hữu Thỉnh trên trang
“vietvan.vn” “thơ thiên nhiên không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao
giờ cũng là tình, dù đậm hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong

12


tình. Cho nên, đồng hành với mạch cảnh sắc, là tâm tư của thi sĩ”. Điều đó được
thể hiện qua mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một là
đến niềm say sưa ở khổ hai và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm. Tương ứng với
những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ của mạch nghĩ (khổ đầu : bất giác,
khổ hai : tri giác, khổ ba : suy ngẫm). Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng
song hành và chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan bện
với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp (khổ một đến khổ ba,
thi phẩm là sự đồng hành và hoá thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa rõ nét
vừa sống động). Không chỉ vậy, theo tác giả “một trong những nét đặc sắc của

bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái nhau, song cả
hai đều thuộc về thần thái của mùa thu”.
PGS Nguyễn Văn Long đã khẳng định: Bài thơ Sang thu gồm ba khổ, “tất
cả đều là những hình ảnh thiên nhiên đất trời lúc giao mùa sang thu. Cái tứ thơ
ấy đã quá quen, tưởng như không thể có gì mới nữa. Nhưng đọc kĩ vào từng khổ
sẽ nhận ra cách triển khai và mạch vận động của tứ thơ, bộc lộ sự phát hiện và
sáng tạo riêng của Hữu Thỉnh” – Sang thu của Hữu Thỉnh – sự vận động của một
tứ thơ.
Trong cuốn Bình giảng văn 9, Nxb Giáo dục 2011, tác giả Vũ Dương Quỹ,
Lê Bảo có bài viết Phút bất chợt mong manh. Tác giả khẳng định “Sang thu có
một cốt cách riêng: vừa cổ điển, vừa hiện đại”. Tính cổ điển của bài thơ là ở sự
hàm súc, khơi gợi và ở thể loại. Tính hiện đại được thể hiện khi tác giả mở rộng
đề tài, thi liệu và chất hiện thực được đưa vào bài thơ.
Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành lí luận và phương pháp dạy học
Ngữ văn thuộc trường ĐHGD – ĐHQG Hà Nội có liên quan: Rèn kĩ năng tri
giác ngôn ngữ và liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh lớp 9 trong dạy học bài
thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bùi Văn Kiên...

13


Điểm lại một số công trình nghiên cứu của một số tác giả về tác phẩm
Sang thu – Hữu Thỉnh để thấy những đóng góp nhất định cho việc tìm hiểu,
giảng dạy của giáo viên và việc học của học sinh. Tuy nhiên các tác giả chỉ dừng
lại ở việc khai tác ngôn từ, cấu trúc và mạch cảm xúc mà chưa đi vào tìm hiểu kĩ
về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng, việc vận dụng ngôn từ, hình tượng và biểu
tượng vào dạy học tác phẩm. Việc nghiên cứu thành công đề tài sẽ có đóng góp
nhất định cho việc học tập và giảng dạy có hiệu quả tác phẩm Sang thu – Hữu
Thỉnh rói riêng và thơ hiện đại nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm
Sang thu , từ đó đề xuất những biện pháp dạy học đọc hiểu trên cơ sở sáng tạo
của tác phẩm Sang thu, tổ chức thực nghiệm sư phạm để góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả giờ dạy học tác phẩm văn chương trong trường THCS nói chung
và tác phẩm Sang thu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. Nghiên cứu,
tìm hiểu tác phẩm Sang thu – Hữu Thỉnh dưới góc độ về ngôn từ, hình tượng và
biểu tượng của bài thơ; khảo sát giáo án, thực trạng dạy học tác phẩm Sang thu
tại trường THCS Ngô Quyền – Lê Chân – thành phố Hải Phòng.
Thứ hai: Đề xuất biện pháp dạy đọc hiểu Sang thu – Hữu Thỉnh.
Thứ ba: Tổ chức dạy thực nghiệm.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu là các biện pháp dạy học đọc hiểu Sang thu trên

cơ sở sáng tạo về ngôn từ, hình tượng và biểu tượng nhằm nâng cao hiệu quả
giảng dạy tác phẩm văn chương – Sang thu trong SGK Ngữ văn 9, Tập Hai; Nxb
Giáo dục; Hà Nội 2009.

14


-

Các nghiên cứu khảo sát được tiến hành trên phạm vi trường THCS Ngô


Quyền – Lê Chân – Hải Phòng (học sinh lớp 9 và giáo viên dạy Ngữ văn).
-

Số liệu sử dụng để nghiên cứu đề tài này được thu thập trong khoảng

thời gian từ năm 2011 đến năm 2013, những số liệu khảo sát mới được điều tra
trong năm 2014.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu sau:
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Tổng hợp khái quát hóa cơ sở lí

luận: vấn đề ngôn từ, hình tượng và biểu tượng và các kĩ năng đọc – hiểu.
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra - khảo sát

bằng phiếu hỏi, tổng kết kinh nghiệm, tham vấn chuyên gia, thực nghiệm.
-

Nhóm phương pháp xử lý thông tin: Định lượng, định tính, so sánh,

thống kê và phân tích thống kê, tổng hợp.
6.


Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn dự

kiến được trình bày theo ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Những biện pháp dạy học đọc hiểu trên cơ sở tăng cường sự
hiểu biết của HS về ngôn từ, hình tượng, biểu tượng được sáng tạo trong bài thơ
Sang thu – Hữu Thỉnh
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

15


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài luận văn
1.1.1. Đọc - hiểu, vấn đề thời sự của nghiên cứu và dạy học văn
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng coi đọc - hiểu là vấn đề lý luận của nghiên
cứu, phê bình, giảng dạy văn học có ý nghĩa trong dạy học TPVC, đồng thời còn
xem đọc văn là một hoạt động của quá trình thâm nhập, chiếm lĩnh tác phẩm,
“xuyên thấm mọi tầng nấc cảm thụ và hiểu biết về TPVC trong hệ thống các hoạt
động tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá” (GS.TS Nguyễn Thanh Hùng).
Các tác giả đều nhấn mạnh đến vai trò và hiệu quả của liên tưởng, tưởng tượng
(liên tưởng, tưởng tượng giúp người học tái hiện lại hình tượng và khái quát biểu
tượng thơ) trong quá trình đọc văn : “Đọc sách là liên tưởng, là hồi ức, là tưởng
tượng” (GS Phan Trọng Luận). “Sự phát triển của quá trình đọc được vận động
trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật” (GS.TS
Nguyễn Thanh Hùng). “Sức hoạt động của liên tưởng càng mạnh bao nhiêu thì
sức cảm thụ càng sâu, càng nhạy bén bấy nhiêu” (GS Phan Trọng Luận).

Dạy văn là dạy cho HS năng lực đọc, kỹ năng đọc để các em có thể đọc
hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận ra các giá
trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng
nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy
nhất để bồi dưỡng cho HS năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu
bản chất môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất
của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển
năng lực là chủ thể của người HS. Như vậy, đọc văn là khâu quan trọng nhất, gắn
liền với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, hiểu văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, nhân cách cao đẹp ở mỗi HS.

16


Trong bối cảnh, trình độ văn hóa của mỗi người được đánh giá bằng năng
lực nắm bắt, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. HS
hay mỗi một công dân sẽ là người biết nắm bắt thông tin nhanh nhạy. Mà muốn
thế trước hết họ phải biết đọc, không phải chỉ biết đọc chữ, đọc diễn cảm, mà
trước hết phải biết đọc hiểu, qua một văn bản phải biết đâu là chỗ cung cấp thông
tin, đâu là câu then chốt thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm của tác giả. Quốc
gia nào có nhiều người biết nắm bắt thông tin, biết xử lý thông tin, thì đó sẽ là
một quốc gia mạnh. Muốn cho quốc gia mạnh thì phải biến xã hội của quốc gia
đó thành xã hội học tập, ngay từ trên ghế nhà trường, nhà trường phải đào tạo
mỗi HS thành một người đọc đích thực, đọc chủ động, sáng tạo. Điều này càng
quan trọng hơn nữa, khi ngày nay các phương tiện nghe nhìn đã cạnh tranh quyết
liệt với thời gian đọc, thu hẹp với thời gian đọc của mọi người.
Quan niệm đọc hiểu trong nhà trường là chủ yếu bồi dưỡng năng lực văn
chương cho HS, gắn với năng lực làm văn, cảm thụ văn học cho người học.
Năng lực văn chương được thể hiện qua quá trình bồi dưỡng kĩ năng đọc, nghe,
nói, viết.

Trước đây, đọc văn mà chủ yếu là đọc diễn cảm chỉ được coi như một
phương pháp giảng văn, thì bây giờ đọc văn được xem là một hoạt động có nhiều
hình thức và nội dung (như đọc thầm, đọc to, đọc lướt, đọc chậm, đọc kĩ, đọc
sâu, đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm, đọc phân vai, đọc đối thoại, đọc tái hiện,
đọc trải nghiệm, đọc phân tích, đọc bình giá, đọc tóm tắt, đọc khắc sâu, đọc sáng
tạo,…) yêu cầu đa dạng, phong phú. Nhưng đọc - hiểu văn là con đường duy
nhất để học sinh tự mình cảm nhận cái hay cái đẹp của hình thức tồn tại của một
văn bản nghệ thuật và tiến tới hiểu nội dung tư tưởng khái quát về con người xã
hội trong tác phẩm. Đọc hiểu là mục đích cuối cùng của các giai đoạn đọc và
mức độ đọc cao. Hoạt động đọc hiểu của học sinh trở thành trung tâm khi tiếp
cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá TPVC.

17


Hoạt động nghe hiểu là năng lực mà người dạy và người học rất cần khi
phân tích, cắt nghĩa TPVC.
Hoạt động đọc hiểu và nghe hiểu thường xuyên hỗ trợ cho nhau, thể hiện
năng khiếu nghệ thuật của con người và trong dạy học TPVC đây được coi là
biểu hiện sinh động của năng lực cảm thụ.
Kĩ năng đọc, nghe còn giúp học sinh phát hiện và nêu các hình tượng và
biểu tượng qua việc khai thác các tín hiệu ngôn ngữ. Từ đó nhận thức được sự
sáng tạo của các tác phẩm.
Không chỉ vậy đọc hiểu TPVC còn phát triển năng lực tiếp nhận văn
chương của học sinh. Chính điều này đã giúp cho người học chủ động, tự giác,
tích cực trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Năng lực tiếp nhận của HS được thể
hiện cụ thể qua các năng lực:
-

Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Năng lực


tri giác ngôn ngữ ở đây là cảm nhận được những thông tin nghệ thuật từ tín hiệu
ngôn từ hình tượng. Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật tạo ra những ấn tượng
ban đầu, những cảm xúc, những xúc cảm thẩm mĩ quan trong ở người đọc. Năng
lực tri giác ngôn ngữ mở đầu cho cả hệ thống các năng lực tiếp nhận văn chương
khác.
-

Năng lực tái hiện hình tượng và biểu tượng nghệ thuật. Sức mạnh của

văn chương là ở hình tượng, biểu tượng nghệ thuật. Đây là năng lực quan trong
nhất trong việc tiếp nhận TPVC và là cơ sở của các năng lực khác.
-

Năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học. Liên tưởng theo chiều dọc -

liên tưởng đồng sáng tạo với tác giả, liên tưởng theo chiều ngang – cơ sở của
hoạt động so sánh.
-

Năng lực cảm thụ cụ thể kết hợp với năng lực khái quát hóa các chi tiết

nghệ thuật của tác phẩm trong tính chỉnh thể. Năng lực này cho người học có
một cái nhìn tổng quan toàn diện khi tiếp nhận TPVC.

18


-


Năng lực nhận biết loại thể để định hướng hoạt động tiếp nhận. Năng lực

này có vị trí đặc biệt trong nhà trường Việt Nam vì đây là cách người đọc định
hướng nhanh cách thức, con đường tiếp nhận văn học.
-

Năng lực cảm xúc thẩm mĩ là hệ quả của nhiều năng. Không chỉ vậy

năng lực cảm xúc thẩm mĩ giúp phát triển năng lực sáng tạo văn học sau này của
HS.
-

Năng lực nhận thức – nhận thức thế giới mà tác phẩm đã xây dựng lên.

-

Năng lực đánh giá là năng lực khái quát, so sánh, đối chiếu, đặt tác phẩm

vào vị trí trong dòng chảy văn học để khẳng định giá trị của tác phẩm.
Đặc biệt, quá trình dạy học đọc hiểu trong nhà trường còn hình thành năng
lực sáng tạo văn học ở người học. Điều đó được biểu hiện qua lòng say mê văn
học, cảm xúc thẩm mĩ và tính nhân văn được phát triển mạnh mẽ, việc sử dụng
một cách sáng tạo ngôn từ và việc khái quát hóa bằng hình tượng.
Như vậy, việc dạy học đọc hiểu TPVC có vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình học và phát triển các kỹ năng, năng lực khác, giúp phát triển một cách
toàn diện.
1.1.2. Ngôn từ, hình tượng, biểu tượng và mối quan hệ giữa ngôn từ, hình tượng,
biểu tượng của tác phẩm
Ngôn từ là chất liệu, là hiện tượng của đời sống mang ý nghĩa phổ biến và
ý


nghĩa sáng tạo của cá nhân, tạo nên nét khác biệt rõ nét về phong cách tác giả.

Khởi thủy của tác phẩm NT, trong đó có văn học bao giờ cũng là tiếng nói giữa
con người mang sắc thái tình cảm. Ngôn ngữ không chỉ là chất liệu, không phải
chỉ là phương tiện mà còn là “kí hiệu của tình cảm”. Nghệ thuật chính là kết quả
của việc sử dụng , khai thác hình thức cấu trúc ngôn ngữ. Đó là sự nắm bắt quy
luật hình thức đời sống tự nhiên nào đấy ví dụ quy luật nhịp điệu trong sự sinh
tồn bao gồm sự lặp lại, trùng điệp, đối xứng, phi đối xứng, nhanh chậm, gấp gáp,
…để biểu hiện các cung bậc khác nhau của tình cảm.

19


Nhà văn nhà thơ phải sử dụng ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ
ngôn từ văn chương giàu có, sang trọng, đẹp đẽ. Ngôn từ nghệ thuật có những
đặc điểm sau:
-

Tính hệ thống

-

Tính chính xác

-

Tính truyền cảm

-


Tính hình tượng

-

Tính hàm súc, đa nghĩa

-

Tính cá thể hoá

Trong đó, tính chính xác, tính truyền cảm, tính hình tượng là cực kỳ quan
trọng. Nói rằng “Văn hoa dã chất chi đối”, “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm
thêu” là như vậy.
Đọc văn, ta phải tưởng tượng, liên tưởng, suy luận, cảm xúc với tất cả mọi
giác quan và tâm hồn, mới hình dung được cảnh vật, sự việc. Điều đó nói lên
rằng, ngôn từ mang tính chất “phi vật thể”. Con chữ đấy, câu thơ đấy nhưng
không phải ai cũng hiểu và cảm như nhau.
Ngôn từ có sức mạnh vạn năng, có thể diễn tả sự việc theo dòng chảy lịch
sử qua hàng trăm năm, hàng vạn năm trên một không gian hữu hạn hoặc rộng lớn
vô hạn.
Ngôn từ mang tính hình tượng tự trong bản chất của nó. Bởi vì, ngôn ngữ
là hiện thực trực tiếp của tư duy và ý thức không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ
được. Các từ câu của lời nói là hình ảnh của hiện thực. Ngôn ngữ thực hiện chức
năng giao tế trên ba phương diện: định danh (lời nói gọi tên các sự vật - chức
năng định danh), biểu ý (lời nói trao đổi ý kiến với nhau) biểu cảm (lời nói biểu
hiện và truyền đạt tình cảm). Như vậy lời nói gợi lên các sự vật, đưa con người
thâm nhập vào thế giới của ấn tượng, cảm xúc.

20



Nắm vững cấu trúc ngôn từ của tác phẩm là nắm vững hình thức tái hiện
cuộc sống. Đi qua nó ta đến với cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
Hình tượng của tác phẩm là tầng biểu hiện tình cảm thẩm mĩ của nhà văn
và tác phẩm. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm giúp người đọc
nhìn ra được một hiện thực mới mẻ, hiện thực được sáng tạo bằng sự tổ chức lại
quan hệ xã hội giữa con người trong một thế giới được xây dựng bởi không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật thông qua ngôn ngữ nghệ
thuật. Người đọc đối diện với một hiện thực khác thường, mới mẻ cần được
khám phá và bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng . Do đó phân tích cấu trúc hình
tượng nghệ thuật phải chú ý đến kết cấu nội tại tức là mối quan hệ qua lại giữa
nhân vật trữ tình và điểm sáng thẩm mĩ; giữa cảnh và tình; giữa bộ phận và toàn
thể; giữa hiển ngôn và hàm ngôn; giữa chân thực và hư cấu; giữa cái dường như
và cái có thể; giữa cái hợp lí và cái phi lí…để nhìn ra dấu ấn của ý thức và vô
thức lặn sâu trong đời sống và nằm sau thế giới hình tượng.
Cấu trúc này là kết quả của sự liên hệ mật thiết và hoàn thiện dần kinh
nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mĩ. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật thường
được tổ chức thành mối quan hệ vô cùng phức tạp giữa ý thức và vô thức, chúng
thường không mạch lạc tuyến tính thẳng băng, không thể đối chiếu với logic hiện
thực cuộc sống và hợp với suy nghĩ kiểu lí trí đời thường mà tự nó là sự tổng hợp
khái quát và huyền ảo hóa đời sống mà ta gọi là tư duy hình tượng. Từ hiện thực
đời sống xã hội vô tình, vô lí nhờ cấu trúc hình tượng nghệ thuật, cuộc sống
trong tác phẩm vận động để giải tỏa ước mơ và giải phóng tư tưởng của nhà thơ.
Cuộc sống trong tác phẩm sẽ trở nên hữu tình, hữu lí hơn cho một lí tưởng thẩm
mĩ nhất định. Có thể nói, từ cấu trúc ngôn ngữ đến cấu trúc hình tượng nghệ
thuật là quá trình chuyển biến, hóa sinh từ nội dung hiện thực đến hình thức
nghệ thuật, từ vốn có đến tạo ra một đời sống khác để con người sống cuộc đời
mới phong phú và tốt đẹp hơn.


21


Tính độc đáo của chất liệu xây dựng nên hình tượng văn chương là ngôn
từ đã khiến cho hình tượng văn chương mang tính phi vật thể.
Ðược xây dựng từ chất liệu ngôn từ, hình tượng văn chương không tác
động trực tiếp vào các giác quan của chúng ta, dù là thị giác hay thính giác. Các
hình tượng văn chương hiện lên trong óc người thưởng thức bằng trí tưởng
tượng. Người đọc phá vỡ ý nghĩa các từ, câu để liên tưởng với các biểu tượng về
đối tượng được miêu tả, nhờ vào trí tưởng tượng mà người đọc dường như tái tạo
đối tượng miêu tả màvăn bản chỉ ra. Như thế chúng ta không sờ thấy, nghe thấy,
nhìn thấy trực tiếp tượng văn chương. Các hình tượng văn chương thiếu tính trực
quan, chúng phi vật thể.
Người đọc dường như phải vận dụng mọi cơ quan cảm giác để tiếp nhận
hình tượng văn chương. Những câu thơ sau người đọc dùng thị giác, thính giác
để tiếp nhận màu sắc, hình khối của hiện thực:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
Hình tượng nghệ thuật văn chương là phi vật thể nó lại lấy việc khắc họa tâm
trạng, thể hiện các môn quan hệ, các phản ứng của ý thức con người- là những cái
vô hình - làm chủ yếu, chứ không lấy sự liệt kê các chi tiết có thể thụ cảm bằng thị
giác làm cứu cánh. Ðo đó, trong các liên tưởng ở người đọc do hình tượng ngôn từ
gợi nên có tính chủ quan cá biệt, thậm chí tùy tiện. Nhưng đây lại là đặc trưng bản
chất của văn chương. Không nói những yếu tố vô hình mà ngay những yếu tố hữu
hình - ví dụ như ngoại hình nhân vật, phong cảnh thiên nhiên


22


của hình tượng văn chương, biểu tượng của chúng xuất hiện rất khác nhau ở
người đọc, khác với biểu tượng xuất hiện của người xem tranh, xem kịch hay
xem chiếu bóng. Trong các người đọc khác nhau sẽ xuất hiện những biểu tượng
khác nhau về cùng một nhân vật văn chương.
Chính đo đặc điểm này của hình tượng văn chương mà người ta xem bạn
đọc là một khâu trong quá trình sáng tạo.
Sáng tạo là bản chất của hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật bao
hàm cả sự phóng đại, cường điệu, cả sự tỉa xén, nhào nặn. Hình tượng nghệ thuật
là kết quả của trí tưởng tượng và tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Phản ánh và
sáng tạo là hai mặt của quá trình sản sinh ra hình tượng nghệ thuật. Hình tượng
nghệ thuật một mặt là hình ảnh của thế giới khách quan, mặt khác là sự sáng tạo
lại thế giới khách quan ; một mặt là ý thức tư tưởng mặt khác là hoạt động thực
tiễn vật chất của nhà văn; một mặt là khách thể tinh thần mặt khác là thế giới
hiện thực.
Trong hình tượng nghệ thuật cái cụ thể và cái khái quát xuyên thấu vào
nhau, xoắn xuýt lẫn nhau; cái khái quát chuyển ra dưới dạng cái cụ thể, cái cụ
thể lại chuyển vào cái khái quát, cái này chuyển thành cái kia; cả hai hòa với
nhau làm một.
Sự đánh giá trong hình tượng nghệ thuật không phải là những lời bình
luận đưa từ ngoài vào. Sự đánh giá về nghệ thuật nằm ngay trong bản chất của
hình tượng. Một hình tượng nghệ thuật vừa bao hàm sự phản ánh về hiện thực
vừa bao hàm sự đánh giá về hiện thực đó. Nghĩa là, bằng hình tượng nghệ thuật
nhà văn phản ánh để đánh giá và đánh giá qua việc phản ánh hiện thực. Cái
khách quan và chủ quan ở đây xuyên thấu vào nhau.
Hình tượng nghệ thuật mang tính cá biệt, cụ thể cảm tính. Tình cảm con
người nảy sinh do chỗ tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng cụ thể sinh động,
riêng lẻ của thế giới bên ngoài. Nhà văn muốn truyền đạt tới bạn đọc tư tưởng và


23


tình cảm của mình thì không thể không làm cho tư tưởng tình cảm đó có hình hài
xương thịt của đời sống, không thể không làm cho tư tưởng hình tượng của mình
có một dạng thái của đời sống - một "tự nhiên thứ 2" trong một chất liệu nhất
định của đời sống. Tính sinh động của hình tượng là yêu cầu đối với nghệ sĩ, là
bản chất của hình tượng
Thông qua tạo hình mà hình tượng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất, cái
vô hình. Mọi chi tiết tạo hình chỉ có ý nghĩa khi nó là sự nén chặt năng lượng.
Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện làm cho hình tượng mang
tính đa nghĩa, vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian, vừa gợi tình huống, tính
cách và thái độ của tác giả, và cũng vì vậy, trong hình tượng nghệ thuật mọi chi
tiết có ý nghĩa và chức năng của chúng.
Hình tượng là cấu trúc hấp dẫn và khó khăn nhất để nắm bắt sự chuyển
hóa, khái quát và tưởng tượng của nhà văn từ đời sống tự nhiên, phiến diện đến
thế giới nghệ thuật sinh động, đa dạng, giàu ý nghĩa. Vì vậy, đối với loại cấu trúc
này người đọc chỉ có một cách đọc thông qua bản thân, tự chiêm nghiệm mà tích
lũy kinh nghiệm nghệ thuật, mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của cấu trúc
này.
Biểu tượng là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó
nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Biểu tượng nghệ
thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, bao gồm cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Nó chính là sự mã hoá cảm xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng trở
thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự
tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự
chối từ cách viết trực tiếp giãi bày tâm tư, tình cảm (nhất là đối với thơ ca). Có
thể nói, biểu tượng là những hình ảnh sự, vật cảm tính chứa đầy ý nghĩa và nó
càng trở nên sinh động hơn trong đời sống văn hoá, trong cảm nhận của con

người.

24


Biểu tượng bao giờ cũng có:
-

Tính chất biểu hiện một cái gì bằng sự vật có hình ảnh.

-

Đại diện cho một cái gì đó, nhằm gợi lên một cái gì theo liên tưởng.

-

Tính ước lệ.

-

Mã (ký hiệu)

-

Biểu hiện những “giá trị” mang tính nhân văn.

Biểu tượng nghệ thuật là kết quả của sáng tạo nghệ thuật đầy dụng ý của
nhà văn. Để có những biểu tượng trong tác phẩm, trước hểt nhà văn phải tạo ra
được những hình ảnh cụ thể cảm tính có đường nét, màu sắc, hình hài mà người
đọc có cảm giác có thể nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy. Tiếp đến, nhà văn chú ý đến

việc sắp xếp, bố cục sao cho hình ảnh cụ thể cảm tính đó trở nên nổi bật, gây ấn
tượng sâu sắc về mặt ý nghĩa. Cho nên, để cho hình ảnh, sự vật trở thành biểu
tượng, nhà văn thường sắp xếp nó trong nhiều mối quan hệ, biến nó trở thành
trung tâm của những quan hệ đó.
Ngôn ngữ, hình tượng, biểu tượng không tách rời nhau trong TPVC. Tổng
hợp các yếu tố ngôn từ, hình tượng, biểu tượng tạo thành tác phẩm.
1.1.3. Tầm quan trọng của kĩ năng đọc hiểu trong tiếp nhận ngôn từ, hình tượng
và biểu tượng
Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa của văn bản. Ý nghĩa ấy
hình thành và sáng tỏ dần nhờ sự soi chiếu tổng hợp, khái quát hóa từ ý nghĩa tồn
tại trong hình thức hóa nghệ thuật của tác phẩm, từ ý đồ sáng tạo, quan niệm
nghệ thuật của tác giả và ý nghĩa phái sinh thông qua khả năng tiếp nhận của
người đọc. Đọc hiểu tuân theo logic khoa học, đã làm giảm đi tính chất “mơ hồ,
đa nghĩa” của TPVC để sự giao tiếp nghệ thuật đi tới chiều hướng thỏa thuận nào
đó.

25


×