Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Quản lý hoạt thực tế của học viên trường cao đẳng an ninh nhân dân i đáp ứng nhu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.65 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


LÊ HÀ PHƢƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA HỌC VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN I ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

ĐÀO TẠO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI, THÁNG 6 - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


LÊ HÀ PHƢƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA HỌC VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG AN NINH NHÂN DÂN I ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

ĐÀO TẠO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 8 14 01 14

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN: TS NGUYỄN TRỌNG HẬU



HÀ NỘI, THÁNG 8 - 2019


DANH TỪ MỤC VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ
Cao đẳng An ninh nhân dân I

CĐ ANND I

Công an nhân dân

CAND

Cán bộ quản lý

CBQL

Điểm trung bình

ĐTB

Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

Nhà xuất bản


Nxb

Quản lý giáo dục

QLGD

Thứ tự

TT

1


MỞ ĐẦU
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ

CỦA
ỨNG

1.1.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3
1.3.

1.3.1.

1.3.2.

1.3.3.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.
1.4.5.
1.5.
1.5.1.
1.5.2.

Sơ lư
Một s
học v
Khái
Khái
động
Khái
viên T
Nhữn
Trườn
đoạn
Yêu c
phươn
đẳng
Yêu c
Yêu c
Nội d
đẳng
Quản

Quản
Quản
Quản
Kiểm
Các y
viên T
Tác đ
bảo v
Tác đ


yêu cầu nâng cao ch
1.5.3.
Tác động từ cơ chế
1.5.4.
Tác động bởi trình đ
quản lý giáo dục và
1.5.5.
Tác động bởi đầu và
thực tế
1.5.6.
Tác động bởi các đi
đảm cho hoạt động
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HOẠT ĐỘNG
THỰC TẾ CỦA HỌ
NINH NHÂN DÂN
GIAI ĐOẠN HIỆN
2.1.
Khái quát về tổ chứ
2.2.

2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.4.
2.4.1.
2.4.2.
2.4.3.
2.4.4.
2.4.5.

Khái quát về Trườn
Thực trạng hoạt độn
Cao đẳng An ninh n
Nhận thức của cán
phương và học viên
Thực trạng về kế ho
học viên Trường Ca
Thực trạng về phươ
thực tế của học viên
Thực trạng kết quả
Cao đẳng An ninh n
Thực trạng quản lý
Trường Cao đẳng A
Thực trạng quản lý
của học viên Trường
Thực trạng quản lý
hoạt động thực tế củ
Thực trạng quản lý

trong quá trình hoạt
Thực trạng quản lý
Thực trạng kiểm tra


2.5

Đ

Chƣơng 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA

H

D
H

3.1.

3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.2.6.
3.3.

3.3.1.
3.3.2.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


tế
ứn
Đ
Đ
Đ
Đ

Tr
Tổ
ch
X
ch
Đ
độ
N
ch
Ch
củ

th
K
N
K



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Quán triệt, thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm
2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới toàn diện
GD&ĐT, Nghị quyết số 17-NQ/ĐU và Chỉ thị số 13-CT/BCA về “Đổi mới
toàn diện giáo dục đào tạo trong CAND”, Cục Đào tạo - Bộ Công an, các
trường CAND nói chung và Trường CĐ ANND I nói riêng đã chủ động, tích
cực đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức… theo định hướng
phát triển năng lực, nhằm phát triển kỹ năng nghề nghiệp, năng lực thực hành
đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình
mới. Để thực hiện được mục tiêu này, hoạt động thực tế, thực tập của học viên
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực hiện nguyên lý dạy học “lý luận gắn liền với thực tiễn”, chủ
trương đổi mới quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực, Trường
CĐ ANND I đã chủ động nghiên cứu, triển khai, tổ chức thực hiện nhiều cách
làm mới nhằm tăng cường kiến thức thực tế, phát triển kỹ năng nghề nghiệp
và năng lực thực hành cho học viên. Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường CĐ
ANND I đặc biệt quan tâm, chú trọng và tổ chức tốt hoạt động thực tế cho học
viên theo mô hình “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) với nhân dân.
Định hướng và cách làm này đã mang lại những hiệu quả nhất định, góp phần
nâng cao chất lượng GD&ĐT của nhà trường đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
đặt ra đối với lực lượng Công an nhân dân.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động thực tế, Bộ Công an
đã ban hành Quyết định số 1664/X11(X14), ngày 18/3/2009 về việc “tiếp tục
đổi mới công tác thực tập của học viên các trường CAND” và Hướng dẫn số

6777/HD-X11, ngày 30/06/2014 về “tổ chức hoạt động thực tế của học viên
các học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp CAND” nhằm chỉ đạo,
triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động thực tế của học viên các
trường CAND. Quán triệt và thực hiện các văn bản này, Trường CĐ ANND I
đã tổ chức cho học viên đi thực tế tại các địa phương, địa bàn với nhiều hình
1


thức phong phú và đa dang, đây là hoạt động chính khóa, bắt buộc đối với các
hệ đào tạo chính quy trong trường. Trong quá trình hoạt động thực tế, học
viên đã vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống thực
tiễn của đời sống xã hội, gắn lý luận với thực tiễn, xây dựng mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Công an với quần chúng nhân dân, tạo được niềm tin của
quần chúng nhân dân với lực lượng Công an, với Đảng và với nhà nước...
Qua đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực chuyên môn, góp
phần hình thành, phát triển nhân cách người Công an cách mệnh.
Tuy nhiên, hoạt động thực tế và quản lý hoạt động thực tế của học viên
Trường CĐ ANND I vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Nội dung, hình
thức, phương pháp, địa bàn hoạt động thực tế còn có điểm chưa phù hợp; việc
quản lý hoạt động thực tế của học viên chưa thực sự khoa học; ở những
phương diện nhất định, còn thiếu tính kế hoạch, tổ chức chưa chặt chẽ, chỉ
đạo chưa sâu sát, kiểm tra chưa kịp thời... Đây là thực trạng và cũng là nguyên
nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động thực tế của học viên chưa cao, chưa xứng
tầm với mục tiêu mà Bộ Công an và các trường CAND đã đặt ra. Vì vậy, việc
tổ chức hoạt động thực tế và quản lý hoạt động thực tế của viên là việc làm
cần thiết và cấp bách hiện nay.
Đặc biệt, trong quá trình quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 18NQ/TW, ngày 25/10/2017 về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”
và Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục
đổi mới, sắp xếp bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”,

đòi hỏi hoạt động đào tạo, quá trình tổ chức hoạt động dạy học phải có sự
chuyển biến mạnh mẽ; hoạt động thực tế của học viên phải được đổi mới, phát
huy hiệu quả, giúp nâng cao trình độ, năng lực thực hành nghề nghiệp cho học
viên, góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT của nhà trường đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trong tình
hình mới.


Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý
hoạt động thực tế của học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I đáp
ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
khoa học giáo dục, chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động thực tế của
học viên Trường CĐ ANND I, đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động
thực tế của học viên Trường CĐ ANND I, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo của nhà trường đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ
ANND I.
*

Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động thực tế của học viên

Trường CĐ ANND I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.
4. Câu hỏi nghiên cứu
-


Quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ An ninh dựa trên

cơ sở lý luận nào?
-

Thực trạng quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ ANND

I hiện nay như thế nào?
-

Quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I như thế

nào để đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng hoạt động thực tế của học viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó quản lý hoạt động thực tế giữ vị trí trung tâm. Thực tiễn công tác
quản lí hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I trong những năm
qua, về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo của nhà trường, tuy nhiên,
vẫn còn một số bất cập, hạn chế so với mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra. Nếu


chủ thể quản lý dựa trên cơ sở lý luận về quản lý hoạt động thực tế của học
viên, thực trạng công tác quản lý hoạt động thực tế của học viên và những tồn
tại hạn chế để đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động thực tế của học viên
Trường CĐ ANND I một cách khoa học, phù hợp, sẽ đáp ứng được yêu cầu
đào tạo của nhà trường giai đoạn hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động thực tế của học viên
Trường CĐ AN NINH đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.

Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động thực tế của học viên
Trường CĐ ANND I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ
ANND I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay.
Khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt
động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về quản lý hoạt động thực tế
của học viên Trường CĐ ANND I.
Về không gian: Tiến hành khảo sát, tọa đàm, trao đổi với cán bộ quản
lý, giảng viên Trường CĐ ANND I; nghiên cứu kế hoạch tổ chức hoạt động
thực tế của học viên; nghiên cứu thông qua các báo cáo tổng kết hoạt động
thực tế của học viên; kết quả học tập, rèn luyện của học viên.
Về thời gian: Các số liệu sử dụng để nghiên cứu từ năm 2015 đến nay.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu
thực tiễn... cụ thể là:
-

Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bao gồm: Phương pháp phân

tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận chuyên ngành, liên
ngành, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật, chính sách


của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực GD&ĐT; các công trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đến đề tài nghiên cứu; các báo cáo, sơ kết, tổng kết của
Trường CĐ ANND I về hoạt động thực tế của học viên.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm:

Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát hoạt động thực tế của học
viên Trường CĐ ANND I.
Điều tra, khảo sát: Sử dụng phiếu hỏi đối với 70 CBQL giáo dục (Cán
bộ Cục Đào tạo - Bộ Công an, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và lãnh đạo
Phòng Quản lý đào tạo, Phòng Quản lý học viên, Phòng Khảo thí và kiểm
định chất lượng giáo dục, các Khoa, Bộ môn của Trường CĐ ANND I), 200
giảng viên, học viên để đánh giá thực trạng hoạt động thực tế và quản lý hoạt
động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I.
Nghiên cứu các sản phẩm: Nghiên cứu các chương trình, kế hoạch, báo
cáo, thống kê kết quả, đánh giá kết quả hoạt động thực tế và quản lý hoạt
động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I.
Chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa học, cán bộ quản lý, giảng
viên có nhiều kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn có liên quan đến nội dung
của đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để tổng hợp, tính toán, xử lý các số liệu điều tra
đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu thực trạng và khảo nghiệm tính
cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
9. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được nghiên cứu thành công sẽ đóng góp và làm phong phú
thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thực tế và quản lý hoạt
động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực tế và quản lý
hoạt động thực tế của học viên Trường CĐ ANND I hiện nay. Luận văn giúp
CBQL Trường CĐ ANND I phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục


những hạn chế trong quá trình tổ chức hoạt động thực tế và quản lý hoạt động
thực tế của học viên Trường CĐ ANND I.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo cho việc đề xuất biện pháp nhằm quản lý tốt hơn hoạt động thực tế của
học viên các trường ANND.
10. Dự kiến cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động thực tế của học viên
Trường Cao đẳng An ninh đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường
Cao đẳng An ninh nhân dân I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường
Cao đẳng An ninh nhân dân I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ
CỦA HỌC VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG AN NINH ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU ĐÀO TẠO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Sơ lƣợc tổng quan nghiên cứu vấn
đề * Trên thế giới
Lịch sử phát triển của giáo dục thế giới đã chỉ ra rằng, hoạt động hoạt
động thực tế có vai trò, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập, rèn luyện của
người học, vì lẽ đó đã có rất nhiều nhà giáo dục, quan tâm, nghiên cứu.
Thời kỳ phục hung, các nhà giáo dục đã lý giải các vấn đề giáo dục
theo một khuynh hướng mới và khoa học, không bị ràng buộc bởi lễ giáo
phong kiến, triết lý nhà thờ, trong khuôn mẫu định kiến, đây là hình thành tiền
đề cho sự ra đời của thời kỳ giáo dục cận đại.
Thời kỳ này, hoạt động giáo dục bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ
giáo dục cận đại. Tác giả Thomas More (1478-1535), đề cao các phương pháp
quan sát, thí nghiệm, thực hành trong dạy học và giáo dục, theo ông lao động
là nghĩa vụ của mọi người, song mỗi ngày chỉ làm việc 6 giờ, thời gian còn lại

để học văn hóa và sinh hoạt xã hội, giáo dục nhằm phát triển về thể chất, đạo
đức, trí tuệ và kỹ năng lao động. Đây là một tư tưởng tiến bộ về giáo dục
trong thời kỳ Phục hưng, khác hoàn toàn với tư tưởng giáo dục hà khắc, cổ hủ
của giáo hội phong kiến.
Nhà văn, nhà sư phạm nổi tiếng của nước Nga Anton Semenovych
Makarenko quan niệm: “Tôi kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, phương
pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề giảng dạy, lại càng không
thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học mà đáng ra là phải
trên mỗi mét vuông đất nước ta… Nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành trong lớp.
Công tác giáo dục chỉ đạo toàn bộ cuộc sống của trẻ”. Trong thực tiễn ông đã
tổ chức các tổ hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ cho học sinh ở trại M.Gorki


và ở công xã F.E Dzerjinki như: Tổ đồng ca, tổ văn học Nga, tổ khiêu vũ, tổ
thử nghiệm khoa học tự nhiên, tổ vật lý, hóa học, thể thao…. Tác giả nhận
định, việc phân phối các em vào tổ ngoại khóa hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện, các em có thể xin ra khỏi tổ bất cứ lúc nào nhưng các tổ phải có kỉ
luật trong quá trình hoạt động.
Trong nền giáo dục hiện đại của Mĩ, John Dewey (1859-1952) xây
dựng tư tưởng, quan điểm học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực
tiển là. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đến triết học thực dụng ở Âu-Mỹ,
ông đề ra khẩu hiệu “giáo dục bằng việc làm”, thay cho việc tiếp thu tri thức
nhân loại một cách hệ thống bằng việc nắm vững những thói quen thực tiễn
với các hình thức đa dạng của cuộc sống và được tiến hành ở mọi nơi như
vườn trường, xưởng trường, dưới nhà bếp, ngoài công xưởng và được trạng bị
bằng những công cụ lao động với những phương tiện hiện đại. [34].


Mĩ vào đầu thế kỹ XIX, hoạt động thực tế đã bổ sung cho các phần


còn thiếu của chương trình giảng dạy chính khóa, sinh viên có thể làm việc ở
các phòng thí nghiệm hay tham gia thực tập nghề nghiệp. Đến đầu thế kỷ
XXI, các hoạt động của các hội văn chương giảm dần, các nhà giáo dục cảm
thấy ngày càng ít có hoạt động để lôi cuốn sinh viên tham gia. Sau đó, học
sinh bắt đầu khởi xướng và tổ chức các chương trình thể thao tại các trường
đại học Mĩ và các hoạt động thể thao liên trường đã nhanh chóng trở thành
phần nổi bật hơn các hoạt động khác ở hầu hết các trường trung học và đại
học ở Mĩ.
Trong tác phẩm Tư bản của Mác, tư tưởng học tập gắn liền với lao động
sản xuất lại được đề cập đến và được nêu rõ: “Học tập kết hợp với lao động
sản xuất là phương pháp tổng quát của sản xuất xã hội và là phương pháp duy
nhất để hoàn thành con người toàn diện. Lao động tạo ra nhân cách con
người. Nhà trường phải giáo dục, đào tạo ra những con người lao động chân
chính và có nhân cách tốt. Mục tiêu tổng quát của giáo dục là phải phát triển
con người toàn diện; đối với xã hội, phát triển 8 con người toàn diện để


phát triển kinh tế xã hội, đối với từng người để có năng lực nghề nghiệp, để
sống và đóng góp cho gia đình, cho cộng đồng…” [41].
* Ở Việt Nam
Ngày 19/1/1955, khi phát biểu tại buổi lể khai giảng Trường Đại học
Nhân dân Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trường đại học,
gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh
niên. Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác, cũng cần có vui chơi.
Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên… Trong
vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, tập thể và
quần chúng. Trường học, gia đình, đoàn thể thanh niên cần chú ý giáo dục tư
tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên, để kịp thời
uốn nắn sửa chữa.” [27].

Quan điểm có ý nghĩa xuyên suốt, chỉ đạo trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh về giáo dục đó là phương châm “học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền
với xã hội”, công tác giáo dục cần chú ý đến việc giáo dục toàn diện cho học
sinh. Vì vậy, trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9/1946,
Người viết: “Các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia các hội cứu
quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài
việc nhẹ nhàng trong công cuộc phòng thủ đất nước…” ; trong thư gửi hội
nghị các cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc, Người viết “Trong lúc học,
cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở nhà, ở
trường học, ở xã hội, chúng đều vui, đều học…”; trong bài nói tại đại hội sinh
viên lần thứ II, ngày 7/5/1958, Hồ Chí Minh đã nói: “Lao động trí óc mà
không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là
trí thức có một nữa. Vì vậy, các cháu trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp
với thực hành và tất cả các ngành khác đều phải: lý luận kết hợp với thực
hành, học tập kết hợp với lao động”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục
trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia
đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn”. [28].


Nội dung Nghị quyết liên tịch số 12/2008/NQLT-BGDĐT-TWĐTN,
ngày 28/3/2008, về “Tăng cường công tác giáo dục toàn diện cho học sinh,
sinh viên và 9 xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường giai đoạn
2008-2012”, khẳng định cần tăng cường công tác giáo dục toàn diện cho học
sinh, sinh viên; chỉ đạo phong trào học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện
tay nghề, nghiệp vụ trong học sinh, sinh viên; tổ chức các hoạt động đồng
hành hỗ trợ học sinh, sinh viên; đẩy mạnh các hoạt động xã hội, nhân đạo,
phong trào tình nguyện trong học sinh, sinh viên; tăng cường xây dựng, củng
cố tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường. Đây là quan điểm chỉ đạo và
khẳng định vai trò của hoạt động thực tế, hoạt động xã hội đối với công tác
giáo dục thanh niên Việt Nam.

Trong chiến lược phát triển giáo dục Việt nam 2011-2020, Đảng ta
khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước
trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên
một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có
tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ
năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa
hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về
giáo dục từ nội dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi
trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích
cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào
cuộc sống. Thông qua các hoạt động giáo dục, các giá trị văn hóa tốt đẹp cần
được phát triển ở người học, giúp người học hoàn thiện tố chất cá nhân, phát
triển hài hòa các mặt trí, đức, thể, mỹ. Nội dung, phương pháp và môi trường
giáo dục phải góp phần duy trì, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam.”
[7].
Khoản 1, Điều 13 và Khoản 1, Khoản 2 Điều 14 của Luật Thanh niên
qui định thanh niên được tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui


chơi, giải trí lành mạnh; được bảo vệ, chăm sóc, hướng dẫn nâng cao sức
khoẻ, kỹ năng sống lành mạnh, phòng ngừa bệnh tật; được chăm lo phát triển
thể chất; tích cực tham gia các hoạt động thể dục, thể thao, rèn luyện thân thể.
Trong lực lượng Công an, đào tạo cán bộ là nhiệm vụ quan trọng để xây
dựng lực lượng Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại,
đáp ứng thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay. Vì vậy, đã có nhiều tác giả, công trình nghiên cứu về vấn đề này,
song chủ yếu là nghiên cứu, đánh giá về hoạt động thực tập của học viên các
trường Công an nhân dân; nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu khoa học của

học viên; nghiên cứu hoạt động ngoại khóa của học viên và nghiên cứu về
thực tiễn hoạt động của cán bộ trinh sát. Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng
yêu cầu, mục tiêu đào tạo, hoạt động thực tế của học viên được đưa vào
chương trình đào tạo chính khóa, bắt buộc và là vấn đề còn rất mới và chưa có
tác giả nào nghiên cứu về vấn đề hoạt động thực tế cũng như quản lý hoạt
động thực tế của học viên.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của công tác xã hội, hoạt động thực
tế đối với giáo dục học sinh, sinh viên và thanh niên, cho nên đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, các đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp; nghiên cứu về thực trạng
hoạt động thực tế của học sinh, sinh viên; nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn công tác quản lý hoạt động thực tế tại trường phổ thông, hoạt động
thực tập của học viên các trường CAND… đến nay vẫn chưa có đề tài nghiên
cứu về công tác quản lý hoạt động thực tế của học viên cao đẳng. Do vậy, tác
giả chọn đề tài “Quản lý hoạt động thực tế của học viên Trường Cao đẳng An
ninh nhân dân I đáp ứng yêu cầu đào tạo giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu,
nhằm bổ sung cho công tác nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác
quản lý hoạt động thực tế của học viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục của ngành công an.


1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động thực tế của học
viên Trƣờng Cao đẳng An ninh
1.2.1. Khái niệm hoạt động thực tế
Trong công tác giáo dục, hoạt động thực tế chính là con đường để
người học vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, góp phần giáo
dục và bồi dưỡng kĩ năng sống, kiến thức chuyên môn cho sinh viên ngoài các
hoạt động chính khóa trên lớp học. Theo T.A Ilina, công tác giáo dục học sinh
ngoài giờ học thường được gọi là công tác giáo dục ngoại khóa. Công tác này
bổ sung và làm phát huy công tác giáo dục nội khóa, trước tiên là phương tiện

để phát hiện đầy đủ tài năng và năng lực của trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và
thiên hướng của học sinh đối với một hoạt động nào đó; đó là một hình thức
tổ chức giải trí của học sinh và là cơ sở để tổ chức việc thực tập về hành vi
đạo đức, để xây dựng kinh nghiệm của hành vi này.
Tác giả Đặng Vũ Hoạt quan niệm: “Việc tổ chức giáo dục thông qua
hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học - kỹ thuật, lao động công ích,
hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn nghệ, thẩm mỉ, thể dục thể
thao… để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách ”. [17].
Tác giả Hồ Văn Liên cho rằng, giữa hoạt động thực tế và hoạt động
giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau, hoạt động thực tế tạo điều kiện gắn lý
thuyết với thực hành, thống nhất nhận thức với hành động, góp phần quan
trọng vào sự hình thành và phát triển các kỹ năng, tình cảm, niềm tin, tạo cơ
sở cho sự phát triển nhân cách toàn diện học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động thực tế là những hoạt động nhằm phát triển các kỹ năng
sống, phẩm chất nhân cách của người học theo định hướng của Đảng và nhà
nước nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong tình hình mới. Đây là
một nội dung không thể thiếu trong đời sống học tập, sinh hoạt của học sinh,
sinh viên. Nếu quá trình giáo dục sinh viên chỉ diễn ra trong giờ học chính
khóa trên giảng đường thì kết quả giáo dục sẽ rất hạn chế, không thể đảm bảo
được yêu cầu giáo dục toàn diện hiện nay.


Như vậy, hoạt động thực tế là một bộ phận không thể tách rời của hoạt
động dạy học, là quá trình tổ chức cho người học tham gia trực tiếp vào các
hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội, nhằm phát triển nhân cách người học
theo mục tiêu, yêu cầu xã hội trong thời kì mới.
1.2.2. Khái niệm học viên trường Cao đẳng An ninh và hoạt động
thực tế của học viên Trường Cao đẳng An ninh
* Học viên Trường Cao đẳng ANND
Theo từ điển Tiếng Việt của nhóm tác giả Viện ngôn ngữ học thuộc ủy

ban KHXH Việt Nam: “Học viên là người lớn tuổi học ở những trường lớp
không thuộc hệ thống giáo dục phổ thông hay đại học”. [31]
Trong trường đại học, sinh viên hoặc học viên là danh từ chung chỉ
những người tiếp thu sự giáo dục của giảng viên, không phân biệt người này
với người khác, sinh viên có nghĩa vụ tham gia vào hoạt động học tập, rèn
luyện mà nhà trường tổ chức.
Tại Khoản 2, Điều 1, Thông tư số 50/2009/TT-BCA(X11) ngày
01/9/2009 của Bộ Trưởng Bộ Công an “Quy định về công tác quản lý, giáo
dục học viên các Học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp CAND”,
Học viên được định nghĩa như sau: “Người đang học tập theo hình thức tập
trung, không tập trung, vừa làm, vừa học, các lớp bồi dưỡng tại các trường
CAND (được gọi chung là học viên) gồm: người học để được cấp bằng Tiến
sỹ (Nghiên cứu sinh), cấp bằng Thạc sỹ (học viên Cao học), cấp bằng Đại
học, Cao đẳng (sinh viên), cấp bằng trung cấp (học sinh) và các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn (học viên)”. Như vậy, theo quy định trên của Bộ Công an học viên là
tên gọi chung cho người học ở các hệ đào tạo, các trường thuộc ngành CAND,
đây là tên gọi chung được dùng trong các văn bản có liên quan đến công tác
đào tạo, quản lý của ngành. Đề tài này nghiên cứu, khảo sát trên đối tượng là
học viên hệ chính tập trung quy được đào tạo để cấp bằng cao đẳng và trung
cấp.
Như vậy, học viên Trường Cao đẳng An ninh bao gồm những người
đang theo học các hệ, bậc do Trường Cao đẳng An ninh tổ chức. Học viên


Trường Cao đẳng An ninh hiện nay bao gồm: Học viên đào tạo trình độ cao
đẳng chính quy, học viên đào tạo trình độ trung cấp chính quy, học viên đào
tạo trình độ trung cấp trưởng Công an xã và học viên học các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ - pháp luật (3 tháng). Tuy nhiên, theo quy định của Bộ Công an,
hoạt động thực tế chỉ được tổ chức với học viên thuộc chương trình đào tạo
trình độ cao đẳng và trung cấp chính quy.

Bên cạnh những đặc điểm giống với sinh viên các trường trung cấp, cao
đẳng chuyên nghiệp và sinh viên các trường đại học, học viện ngành ngoài, học
viên Trường Cao đẳng An ninh có những đặc điểm khác biệt, xuất phát từ các
quy định của Bộ Công an, từ mục tiêu đào tạo, từ đối tượng học viên…

Theo quy định của Bộ Công an, học viên học tập tại các trường CAND
nói chung và Trường Cao đẳng An ninh nói riêng phải thực hiện chế độ sinh
hoạt, học tập, rèn luyện tập trung theo quy định của Điều lệnh CAND, quy
chế quản lý giáo dục học viên và các quy định của nhà trường; học viên thực
hiện theo chế độ quản lý tập trung, từ thời gian học tập trên lớp, thời gian tự
học, hoạt động ngoại khóa, hoạt động thể chất, hoạt động đoàn, đến mọi sinh
hoạt cá nhân cũng phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của ngành. Vì vậy,
đòi hỏi học viên phải có ý thức kỉ luật, ý thức tự giác, tình thần tập thể và sự
đoàn kết rất cao.
Học viên Trường Cao đẳng An ninh đa phần có tuổi đời từ 18 đến 30
tuổi, bao gồm học sinh phổ thông, học sinh thuộc các Trường Văn hóa của Bộ
Công an và một bộ phận đã phục vụ trong ngành Công an ít nhất 2 năm trở
lên. Như vậy, ngoài học sinh phổ thông, học viên Trường Cao đẳng An ninh
còn là những học sinh của các Trường Văn hóa của Bộ Công an, là học sinh
người dân tộc thiểu số, được tuyển sinh, tuyển dụng vào ngành để đào tạo trở
thành cán bộ an ninh, thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn vùng dân tộc thiểu số;
học viên còn là cán bộ công an đã phục vụ trong ngành, đã qua huấn luyện,
đào tạo, bồi dưỡng và thực tế công tác tại công an các đơn vị địa phương. Đây
là những điểm thuận lợi, nhưng cũng là những khó khăn trong quá trình quản


lý giáo dục học viên, trong tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, trong dạy
học và tổ chức hoạt động thực tế.
Trường Cao đẳng An ninh là trường trọng điểm của ngành, đóng vai trò
nòng cốt trong hệ thống các trường Công an nhân dân, thực hiện nhiệm vụ đào

tạo cán bộ an ninh có trình độ cao đẳng và trình độ trung cấp chuyên nghiệp,
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ngày càng đặt ra
nhiều thách thức, đặc biệt trước yêu cầu chuyển đổi và cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao; tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; âm mưu, chiến
lược diễn biến hòa bình, tự diễn biến, tự chuyển hóa, tội phạm công nghệ cao, tội
phạm tham mô, tham nhũng... là một thách thức lớn đối với lực lượng CAND. Vì
vậy, mục tiêu đào tạo của các trường CAND và Trường Cao đẳng An ninh là đào
tạo ra những cán bộ CAND vững vàng về chính trị, có hiểu biết sâu sắc về pháp
luật và tinh thông nghiệp vụ. Vì vậy, chương trình đào tạo, nội dung kiến thức,
phương pháp, hình thức đào tạo... có tính chất đặc thù cao.

Cán bộ an ninh không chỉ vững vàng về chính trị, giỏi về pháp luật,
tinh thông về nghiệp vụ mà cần phải có đạo đức nghề nghiệp trong sang, đối
với chính phủ phải tuyệt đối trung thành, với nhân dân phải kính trọng lễ
phép, được dân tin, dân quý… những phẩm chất, năng lực đó phải được bồi
dưỡng hình thành ngay trong nhà trường và hoạt động thực tế của học viên là
nơi, là môi trường và là yếu tố quan trọng tôi luyện tốt nhất.
1.

2. 3. Khái niệm quản lý và quản lý hoạt động thực tế của học viên

Trường Cao đẳng An ninh
* Quản lý
Trong quá trình phát triển của lý luận quản lý, có nhiều cách định nghĩa
khác nhau về khái niệm này dựa trên các cách tiếp cận khác nhau, cụ thể như:.
Đại từ điển Tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), khái
niệm quản lý được hiểu là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị,



một cơ quan, là trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì. Hai quá trình này phải
được gắn bó chặt chẽ với nhau thì toàn hệ thống mới đạt được thế cân bằng,
tồn tại và phát triển phù hợp trong mối tương tác với các yếu tố bên trong và
bên ngoài”.
Từ điển Giáo dục học (2001) khái niệm quản lý được hiểu: “Quản lý là
hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [40].
Tác giả F.W. Taylor (1856-1915) quan niệm: Quản lý là nghệ thuật biết
rõ ràng, chính xác, cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt
nhất và rẻ nhất.
Theo H.Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực các nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức).
Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất” [20].
Theo quan điểm của các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức thì quản
lý được hiểu là một quá trình định hướng, có mục tiêu, quản lý có hệ thống; là
quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của của hệ thống mà người
quản lý mong muốn [17].
Tác giả Đặng Quốc Bảo xác định: “Quản lý là một nghệ thuật đạt được
mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn chỉ huy
hoạt động của người khác” [1].
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc có quan niệm:
“Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm
làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10].



Từ các khái niệm trên có thể thấy rằng quản lý là một hoạt động có mục
đích, mọi hoạt động của nhà quản lý đều hướng tới mục tiêu của tổ chức; hoạt
động của nhà quản lý là khai thác các nguồn lực một cách tối đa; hoạt động
luôn tuân theo một quy trình hợp lý. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát
Quản lý là quá trình ra quyết định, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra công việc của
các bộ phận, các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các
nguồn lực một cách phù hợp để đạt được mục đích đã định.
* Quản lý hoạt động thực tế
Quản lý hoạt động dạy học nói chung và hoạt động thực tế nói rêng là
nội dung quan trọng trong quản lý giáo dục và quản lý nhà trường, vì vậy có
nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau:
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật với chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành …, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
chất” [33].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “quản lý giáo dục được hiểu theo nhiều
cấp độ khác nhau: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng với
việc quản lý một đối tượng có quy mô lớn nhất, bao quát toàn bộ hệ thống.
Nhưng, trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, tương ứng với hệ thống
con này có hoạt động quản lý vi mô. Sự thực, việc phân chia quản lý vĩ mô và
quản lý vi mô chỉ là tương đối. Điều quan trọng là khi xem xét vấn đề quản lý
phải xác định chủ thể quản lý đang ở cấp độ nào. Từ đó, thấy được mối tương
quan trên dưới, vĩ mô và vi mô” [20].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phân phối các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ, theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ
mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn
ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ



trẻ. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo
dục Quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục Quốc dân”.
Tác giả Hoàng Tâm Sơn cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý giáo dục đến khách thể quản lý
giáo dục nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến. Quản lý giáo dục (nói
riêng là quản lý trường học) là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính
họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) của quá
trình dạy học-giáo dục nhằm đào tạo ra sản phẩm là nhân cách người lao động
mới”.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Trọng Hậu,
Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Quản lý giáo dục là quá trình tác động có kế
hoạch, có tổ chức của các cơ quan quản lý giáo dục các cấp tới các thành tố
của quá trình dạy học - giáo dục nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành có
hiệu quả và đạt tới mục tiêu giáo dục nhà nước đề ra”. [24]. Theo quan điểm
này, quản lý giáo dục bao gồm các yếu tố cơ bản: Chủ thể quản lý giáo dục,
khách thể quản lý giáo dục, mục tiêu quản lý giáo dục, phương pháp quản lý
giáo dục, công cụ quản lý giáo dục…
Từ các quan điểm trên có thể hiểu: Quản lý giáo dục là việc chủ thể
quản lý tác động lên khách thể quản lý một cách có tổ chức, có kế hoạch cụ
thể nhằm sử dụng có hiệu quả những nguồn lực, những cơ hội của tổ chức để
đạt được mục tiêu đề ra trong các điều kiện ổn định tương đối của môi
trường, làm cho tổ chức vận hành có hiệu quả, nhằm đạt được các mục tiêu
giáo dục cụ thể.
Từ định nghĩa về hoạt động thực tế, quản lý, quản lý giáo dục có thể
hiểu quản lý hoạt động thực tế như sau: Quản lý hoạt động thực tế là quá
trình hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra hoạt động thực tế nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục đề ra.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy một số vấn đề cơ bản về quản lý hoạt

động thực tế của học viên các trường CAND như sau:


Mục tiêu quản lý hoạt động thực tế: Là đảm bảo cho toàn bộ hoạt động
thực tế của học viên được thực hiện theo kế hoạch, đạt chất lượng, hiệu quả
tốt nhất, đảm mục tiêu GD&ĐT của ngành, của Bộ Công an theo Hướng dẫn
6777/HD-X1 của Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND.
Chủ thể quản lý hoạt động thực tế: Chủ thể lãnh đạo (Đảng ủy, Ban
Giám hiệu; Lãnh đạo các Phòng ban chức năng; Lãnh đạo Công an các đơn vị
địa phương; Lãnh đạo các Khoa, Bộ môn, trực tiếp là Lãnh đạo Bộ môn Khoa
học xã hội và nhân văn, Lãnh đạo Phòng Quản lý học viên và chính bản thân
đội ngũ giáo viên tham gia quản lý, chỉ đạo hoạt động thực tế của học viên.
Đối tượng quản lý hoạt động thực tế: Là toàn bộ giáo viên và học viên
tham gia vào hoạt động thực tế; họ chịu sự tác động, điều khiển của chủ thể
quản lý. Như vậy giáo viên vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong hệ thống
quản lý toàn bộ hoạt động thực tế của học viên; học viên vừa là khách thể
quản lý trong hoạt động thực tế, vừa là chủ thể tự quản lý, tự tổ chức thực
hiện hoạt động thực tế theo mục tiêu đã đề ra.
Nội dung quản lý hoạt hoạt động thực tế: Là quản lý việc thực hiện tốt
các thành tố, các nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động
thực tế của học viên. Đó là việc cụ thể hóa mục tiêu của hoạt động thực tế
thông qua: Quản lý thực hiện tốt chương trình, nội dung kế hoạch thực tế của
Nhà trường, giáo viên và học viên; quản lý việc tổ chức các hoạt động thực tế
tại các đơn vị, địa phương theo quy định của Bộ Công an; quản lý tốt hoạt
động kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động hoạt động thực tế; quản lý cơ sở vật
chất, điều kiện đảm bảo phục vụ cho hoạt động thực tế... đạt được mục đích
quản lý của nhà trường.
Phương pháp quản lý hoạt hoạt động thực tế: Bao gồm toàn bộ những
cách thức, biện pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý, đến đối tượng
quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu nhà quản

lý đã đã xác định đối với hoạt động thực tế của học viên.


×