Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ 1919 1945, lớp 12 trung học phổ thông ( chương trình chuẩn )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.05 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

---------



----------

NGUYỄN TIẾN TRÌNH

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 - 1945, LỚP
12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ

Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................ 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..............................................15


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn........................................ 15
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu................................16
6. Ý nghĩa của đề tài........................................................................................17
7. Giả thuyết khoa học.....................................................................................17
8. Cấu trúc luận văn.........................................................................................17
Chƣơng 1: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG. LÍ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN............................................................................................18
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài............................................................................18
1.1.1. Cơ sở xuất phát......................................................................................18
1.1.2. Quan niệm về rèn luyện kĩ năng thực hành lịch sử...............................28
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh
trong dạy học lịch sử....................................................................................... 33
1.1.4. Các kĩ năng thực hành cần rèn luyện cho học sinh trong dạy học lịch sử
ở trường phổ thông..........................................................................................38
1.2. Cơ sở thực tiễn......................................................................................... 40
1.2.1. Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học
lịch sử hiện nay................................................................................................40
1.2.2. Khái quát thực trạng..............................................................................44

3


Chƣơng 2: CÁC BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1919 - 1945 (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN).................................... 46
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945 (lớp 12 chương trình chuẩn)........................................................................................ 46
2.1.1. Vị trí...................................................................................................... 46
2.1.2. Mục tiêu.................................................................................................47
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945.....48

2.2. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học
phần Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1945............................................................56
2.2.1. Rèn luyện kĩ năng làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo . 56

2.2.2. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt (nói và viết) khi trả lời câu hỏi và làm bài
tập....................................................................................................................65
2.2.3. Rèn luyện kĩ năng lập niên biểu, sử dụng và thực hành làm việc với đồ
dùng trực quan (sơ đồ, biểu đồ, bản đồ)..........................................................72
2.3.3. Rèn luyện các kĩ năng trong hoạt động ngoại khóa lịch sử (tham gia các
công tác công ích xã hội).................................................................................79
2.4. Thực nghiệm sư phạm..............................................................................86
2.4.1. Mục đích thực nghiệm...........................................................................86
2.4.2. Nội dung thực nghiệm...........................................................................87
2.4.3. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm............................................................87
2.4.4. Tiến hành thực nghiệm..........................................................................88
2.4.5. Kết quả thực nghiệm............................................................................. 88
KẾT LUẬN.................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 93
PHỤ LỤC

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DH
DHLS
GV
HS
MTDH
PPDH

QTDH
SGK
THPT

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước trong xu thế hội nhập hiện nay đang đặt ra
những đòi hỏi cho sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm đào tạo con người phát
triển toàn diện, không chỉ có tri thức mà còn phải có năng lực tư duy và khả
năng thực hành. Đây là một yêu cầu quan trọng của việc giáo dục thế hệ trẻ
“Hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với thực tiến, giáo dục nhà
trường kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội” [18, tr.8]. Cùng với các bộ
môn khác ở trường phổ thông, thực hành bộ môn lịch sử có tác dụng rất lớn,
góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Thực hành nói chung và thực hành bộ môn lịch sử nói riêng là một hoạt
động trí tuệ. Đối với giáo viên (GV), hoạt động thực hành có ý nghĩa làm
sáng tỏ việc dạy học lịch sử (DHLS) chính là “bó đuốc soi đường”, đem
những bài học kinh nghiệm của cha ông vận dụng để hiểu biết hiện tại và dự
đoán tương lai. Đối với học sinh (HS), thực hành môn học lịch sử giúp các
em phát triển các kĩ năng tư duy nói chung, tư duy lịch sử nói riêng. Đặc biệt
là tác dụng rèn luyện tính tích cực, chủ động sáng tạo trong suy nghĩ và hành
động của chủ thể nhận thức nhằm đem lại kết quả tốt nhất. Tiến hành các hoạt
động thực hành, các em được chủ động làm việc, quan sát, phân tích, đối
chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, xác lập các mối liên hệ lịch sử, qua
đó tư duy được thường xuyên hoạt động và phát triển. Thực hành trong học
tập lịch sử, HS tự mình trực tiếp tiến hành các thao tác, hành động, được làm

việc để tiếp nhận, củng cố những tri thức, tránh sự thụ động, khắc phục tình
trạng buồn tẻ, mệt mỏi khi giờ học ở trên lớp cứ diễn ra, lặp đi lặp lại theo
một trình tự nhất định. Như vậy, khi tiến hành các hoạt động thực hành, bản

6


thân HS được thực hiện các thao tác cụ thể, qua đó mà rèn luyện các kĩ năng,
kĩ xảo của các em ngày càng thuần thục hơn.
Tuy nhiên, thực tế DHLS ở trường phổ thông hiện nay, nhận thức và
thực hiện việc rèn kĩ năng thực hành cho HS bên cạnh mặt tích cực vẫn còn
tồn tại một số những quan niệm chưa đúng. Nhiều GV vẫn cho rằng học lịch
sử chỉ là ghi nhớ sự kiện, vì thế học lịch sử không cần có thực hành. Hoặc,
nhiều GV chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của các hoạt động thực hành
trong môn lịch sử, chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức phổ thông mà quên đi
hoặc xem nhẹ các bài tập thực hành. Những quan niệm, nhận thức sai lầm này
đã ảnh hưởng không tốt, góp phần làm cho HS không hứng thú học tập lịch
sử, chất lượng dạy học bộ môn bị giảm sút. Trong cuộc sống, con người luôn
luôn phải lao động sản xuất, đấu tranh với tự nhiên và xã hội để tồn tại và
phát triển. Trong nhà trường, học đi đôi với hành chính là hoạt động để giúp
các em tiếp thu kiến thức mới tốt hơn, đồng thời gắn HS với đời sống hiện
thực để vừa kiểm nghiệm tính chân lí của những kiến thức khoa học, vừa tạo
cơ hội cho các em góp phần nhỏ bé của mình thực hiện lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”…
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 là một thời kì đặc biệt đã
chứng kiến những bước ngoặt vĩ đại trên con đường phát triển của dân tộc.
Cùng với việc trang bị tri thức, tăng cường rèn luyện các kĩ năng thực hành
cho HS có ý nghĩa góp phần giúp các em hiểu biết sâu sắc hơn về một giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, hình thành
ý thức trách nhiệm công dân trong công cuộc xây dựng và bào vệ tổ quốc

hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Rèn
luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919
– 1945, lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) ” để nghiên cứu

7


với mong muốn góp phần khẳng định vị thế và khả năng của bộ môn lịch sử
trong việc giáo dục, rèn luyện và phát triển toàn diện năng lực HS.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong dạy học nói chung, DHLS nói
riêng là vấn đề thu hút sự quan tâ
:
2.1. Ở nước ngoài
T.A. Ilina trong cuốn “Giáo dục học” (tập II, NXB Giáo dục năm
1973) đã đề cập đến nhiều kĩ năng thực hành của HS: kĩ năng làm việc với
SGK; kĩ năng học tập ở phòng thí nghiệm, thực nghiệm; kĩ năng luyện tập, ôn
tập… Trong đó, tác giả đã nêu một cách thật khái quát phương pháp làm việc
với SGK, xem công tác thực hành của HS như một phương pháp dạy học
(PPDH) tích cực giúp các em nắm vững, hiểu sâu hơn bài học và phát huy
được tính độc lập, sáng tạo của mình.
Cuốn “Giáo dục học” của N.V. Savin (NXB Giáo dục năm 1978) đã
nhấn mạnh mục đích của công tác thực hành là để đảm bảo việc củng cố và cụ
thể hóa các tri thức lý luận mà HS đã thu nhận được, thực hiện đầy đủ hơn
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Thông qua việc quan sát, HS thực hành,
ông cũng nhận thấy trong quá trình thực hiện công việc, nhất là những công
việc mang tính tổng hợp dễ làm nảy sinh ở các em những nhu cầu áp dụng
độc lập các tri thức. Nó cũng có thể là những tri thức mà HS đã tiếp nhận để
đưa ra sử dụng trong những tình huống quen thuộc, hoặc cũng có thể là những

sáng tạo mới, nhờ đó mà khả năng sáng tạo tiếp tục phát triển. Cũng theo tác
giả, việc mở rộng khối lượng các công việc thực hành trong học tập đã thúc
đẩy lý luận dạy học tìm kiếm các điều kiện để nâng cao hiệu quả của chính
các biện pháp này. Như vậy, Savin đã khẳng định rõ mục đích, ý nghĩa của
hoạt động thực hành trong dạy học, song ông lại chưa đi sâu vào các vấn
8


đề khác của hoạt động thực hành, phân loại các dạng thực hành hoặc làm thế
nào để rèn luyện các kĩ năng thực hành (phương pháp, biện pháp rèn luyện kĩ
năng thực hành) cho HS.
Tác giả N.G. Đai ri trong cuốn“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào”
(do Đặng Bích Hà và Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục Hà Nội 1973) đã
khẳng định học là để giáo dục, nên không thể dừng lại ở mức độ học thuộc
lòng. Ông quan niệm, trong giờ học lịch sử cần phải kích thích các hoạt động
độc lập của HS bằng cách ra các bài tập nhận thức, yêu cầu các em phải thực
hiện. Đây là một cơ hội tốt để HS vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
Ông cho rằng kiến thức khi học sinh vận dụng thì được củng cố và là công cụ
phát triển, công cụ giáo dục và công cụ thu nhận kiến thức mới, chúng trở
thành phương pháp nhận thức hiện tượng của đời sống xã hội.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh như thế
nào”, I.F.Khar-la-mốp (1979) cho rằng học tập là quá trình nhận thức tích cực
trong đó có bước ôn tập kiến thức đã học, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức.
Việc học tập ở nhà của HS hay việc ôn tập bài cũ có ý nghĩa tích cực không
chỉ với việc phát huy tính tích cực của HS mà còn giúp các em củng cố, nắm
vững kiến thức [26, tr.68]. GV cần lựa chọn nội dung, tổ chức các hoạt động
ôn tập sao cho HS biểu lộ tính sáng tạo, đi tới hiểu và nắm vững kiến thức, ví
dụ như làm bài tập thực hành, trả lời câu hỏi, viết bài mô tả ngắn gọn về sự
kiện lịch sử, dẫn ra các ví dụ hoặc sự kiện để chứng minh một kết luận nào
đó... Ông cũng cho rằng HS phải tự khám phá kiến thức cho bản thân dù chỉ là

“khám phá lại”. Sự khám phá này phải thông qua việc sử dụng các bài tập chứ
không phải là học thuộc lòng. Có thể nhận thấy cả N.G. Đai ri và I.F. Khar-lamốp đã đề cập đến vấn đề các biện pháp thực hành đó là làm bài tập lịch sử
của HS. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu vào bản chất, chỉ rõ các biện pháp rèn
luyện kỹ năng thực hành cụ thể mà chỉ dừng

9


lại ở việc khẳng định vị trí quan trọng của bài tập nhận thức đối với việc phát
triển tư duy độc lập của HS.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và hình
vẽ” các tác giả M.B. Kô-rô-cô-va, Stu-đen-nhi-kin đã nhấn mạnh việc ôn tập,
củng cố thông qua hình thức giao những bài tập cho HS. Các tác giả đã đưa ra
các loại bài tập có tính chất thực hành như bảng biểu, sơ đồ hình vẽ trong dạy
học và cho rằng GV khi hướng dẫn, giao bài tập cho HS cần lưu ý tới khả
năng của các em sao cho vẫn đảm bảo nội dung kiến thức, kỹ năng cơ bản
nhưng phải phân hoá được trình độ nhận thức của HS. Để đạt được điều đó,
GV nên giao các nhiệm vụ học tập cần được xây dựng dựa trên các mục tiêu
dạy học rõ ràng, định hướng đến các năng lực đầu ra của HS như năng lực
tái hiện và tái tạo lại các biểu tượng lịch sử; năng lực phân tích, xử lý các
nguồn thông tin; năng lực tư duy logic, tư duy niên đại với các nguồn tư liệu
lịch sử; năng lực sơ đồ hoá; năng lực đánh giá sự kiện, hiện tượng lịch sử ...
Ngoài ra, trong phần V của cuốn sách“Bài học lịch sử và việc chuẩn bị bài
học của giáo viên” có đề cập đến những kiến thức lý luận dạy học bộ môn
qua hệ thống sơ đồ, bảng biểu, hình vẽ. Đây là cách dạy và học tích cực giúp
HS nhớ nhanh, dễ nhớ và nhớ lâu kiến thức.
lịch sử
chung về lý luận thực hành: khẳng định quan niệm, vai trò, ý nghĩa, cách phân
loại các kĩ năng thực hành cho HS… Tuy nhiên, làm thế nào để rèn luyện kĩ
năng thực hành cho HS thì hầu như chưa được đề cập đến. Song, những vấn

đề mà các nhà nghiên cứu đề cập về thực hành trong dạy học chính là những
gợi ý, định hướng giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
2.2. Ở trong nước
Cuốn “Giáo dục học” (tập I, NXB Giáo dục Hà Nội, 1987) các tác giả
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt nhấn mạnh trong dạy học nhất định phải gắn tri
10


thức HS đã được tiếp nhận với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể. Có như
vậy mới đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, một trong
những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học. Qua hoạt động thực tiễn những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo HS nắm được sẽ hòa nhập vào hệ thống tri thức kỹ
năng, kỹ xảo đã có và trở thành những phần hữu cơ trong hệ thống đó. Hệ
thống này phải được củng cố thường xuyên thì chúng mới tồn tại một cách
vững chắc.
Tác giả Phạm Viết Vượng trong cuốn “Giáo dục học” (2000) đã chỉ ra 5
khâu để tiến hành một quá trình dạy học (QTDH) đối với một bài học cụ thể:
GV đề xuất nhiệm vụ học tập; tổ chức cho HS nhận thức tài liệu mới; hệ
thống hóa tài liệu đã học; vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập thực
hành; kiểm tra lại các kết quả học tập. Các khâu này được sắp xếp theo trình
tự và được vận dụng một cách linh hoạt. Trong đó, khâu vận dụng kiến thức
vào giải quyết các bài tập thực hành có mối quan hệ chặt chẽ với các khâu
khác, tạo nên một QTDH thống nhất [24, tr.68].
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói
riêng thì cải tiến PPDH là một nhân tố quan trọng. Vấn đề đổi mới PPDH lấy
HS làm trung tâm đang được đề cập đến ở hầu hết các sách, các tài liệu giáo
dục. Nói đến việc phát huy tính tích cực của HS trong học tập lịch sử, các tác
giả đã bàn đến công tác thực hành ở nhiều mức độ khác nhau, từ giải bài tập
đến làm các đồ dùng trực quan.
Trong cuốn “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tháng 1/1995 của các tác giả Nguyễn Thị

Côi, Trịnh Đình Tùng, Lại Đức Thụ, Trần Đức Minh trên cơ sở nghiên cứu
nghiêm túc với những quan điểm nhận thức khoa học mới, đúng đắn, kết hợp
những kinh nghiệm đã tích lũy lâu năm, các tác giả đã nhận thức và khẳng
định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành đối với việc
DHLS. Nó thực sự có ý nghĩa về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
11


Cuốn sách cũng nêu ra các nội dung cơ bản của việc rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm môn lịch sử, bao gồm cả các kỹ năng thực hành, ví như kỹ năng chế tạo
và sử dụng các loại đồ dùng trực quan; kỹ năng ghi chép các loại hồ sơ, tài
liệu; kỹ năng tập hợp, tổ chức các hoạt động ngoại khóa và công tác công ích
xã hội…Tuy nhiên, đây là một cuốn sách rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ sư
phạm cho các đối tượng là sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học
Sư phạm thuộc chuyên ngành lịch sử, chứ không phải là đối tượng HS phổ
thông. Cho nên, các tác giả chưa đưa ra các biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ
năng, nâng cao năng lực thực hành nhằm phát triển năng lực nhận thức toàn
diện cho HS.
Tiếp thu chân lý khoa học nảy sinh từ thực tiễn và trở về phục vụ thực
tiễn, GS.TS Phan Ngọc Liên (chủ biên); PGS.TS Nguyễn Thị Côi, PGS.TS
Trịnh Đình Tùng, trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB Đại học
Sư phạm năm 2002, tái bản năm 2009, 2010) cho rằng: nhất định phải gắn
học với hành để phát huy vai trò chủ thể của HS trong nhận thức, khắc phục
cách học giáo điều, nhồi sọ. Theo các tác giả thì thực hành sẽ giúp HS có cơ
sở, định hướng để suy nghĩ, hiểu sâu những kiến thức đã học, khám phá kiến
thức mới, vận dụng những hiểu biết vào cuộc sống. Sau khi đưa ra những
nguyên tắc phương pháp luận và yêu cầu của giáo dục là phải thực hiện
nguyên lý “Học đi đôi với hành” các tác giả cũng nêu lên một cách khái quát
những nội dung chủ yếu của “hành” trong môn lịch sử. Tại chương VII, các
tác giả dừng lại ở việc nêu tên các loại thực hành như làm các loại đồ dùng

trực quan, tập viết, tập trình bày, miêu tả về một sự kiện lịch sử; vận dụng
kiến thức cũ để tiếp thu kiến thức mới; tham gia các công việc công ích xã
hội. Một số khía cạnh của thực hành lịch sử còn được nhắc tới ở các chương
XIII - Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử; chương IV và chương XV
nói về các hoạt động ngoại khóa. Cũng như cuốn Rèn luyện kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm môn lịch sử, giáo trình Phương pháp dạy học lịch sử tập trung vào
1
2


hướng dẫn giáo viên, sinh viên sư phạm cách tổ chức các hoạt động nhận thức
cho HS, chưa đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề chủ yếu của việc rèn luyện
các kỹ năng thực hành như: khái niệm, nội dung, phương thức thực hiện và
tác dụng của nó trong việc phát triển nhận thức của HS.
Cùng với các tài liệu giáo dục học và giáo dục lịch sử, vấn đề thực hành
còn được đề cập trong nhiều bài viết trên các tạp chí. Trên tạp chí nghiên cứu
giáo dục số 6/1994 các tác giả Trịnh Đình Tùng - Kiều Thế Hưng trong bài
viết với tiêu đề: “Xây dựng và sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông”. Trên cơ sở vận dụng những lý luận về xây dựng và sử dụng bản
đồ lịch sử, bài viết đã hướng dẫn một cách cụ thể các bước tiến hành và xây
dựng một bản đồ SGK treo tường nhằm phát huy khả năng của thầy - trò để
bổ sung và làm phong phú hệ thống đồ dùng trực quan ở trường phổ thông.
Tác giả Nguyễn Thị Côi - Phạm Thị Kim Anh với bài viết: “Hướng dẫn
học sinh làm bài tập lịch sử”, đăng trên nghiên cứu giáo dục số 6/1994 và tác
giả Trần Quốc Tuấn với bài viết: “Bài tập lịch sử trong việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh”, nghiên cứu giáo dục số 2/1998. Trong hai bài
viết trên các tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về bài tập cũng như vai trò
của nó với việc học tập của HS và đi vào tìm hiểu một số loại bài tập cơ bản
hay được sử dụng trong nhà trường phổ thông.
Tác giả Trần Đức Minh - Đặng Công Lộng với bài viết “Thực hành

trong môn lịch sử”, tạp chí nghiên cứu giáo dục số 6/1994, trình bày một cách
vắn tắt sự cần thiết phải thực hành trong môn lịch sử, nêu lên những công việc
cụ thể khi làm thực hành lịch sử và đi đến nhận định: giải quyết tốt việc thực
hành trong môn lịch sử là tuân thủ nghiêm túc phương pháp luận về mối quan
hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong bài viết “Về tổ chức dạ hội tham quan và dự lễ hội truyền thống
trong dạy học lịch sử”, nghiên cứu giáo dục số 6/1994, tác giả Nguyễn Quang
Lê - Trần Viết Thụ nhận định: kiến thức trong hoạt động nội khóa rất phong
1
3


phú nhưng cũng cần được bổ sung bằng những hoạt động ngoại khóa để HS
có những hiểu biết một cách thực tế hơn, nhất là các vấn đề về lịch sử địa
phương. Bài viết còn đưa ra đề nghị cho HS tham gia vào các hoạt động lế
hội, dạ hội, làm quen với các công việc sưu tầm tài liệu và tập dượt nghiên
cứu…góp một phần nhỏ bé vào công việc công ích xã hội.
Ngoài ra, vấn đề thực hành lịch sử còn được đề cập rải rác trong một số
bài viết dưới các khía cạnh khác, tuy nhiên không được trình bày một cách rõ
ràng cụ thể như một bài viết về chuyên đề thực hành. Hoạt động thực hành rất
phong phú, sinh động có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ theo đúng yêu cầu, mục
tiêu đào tạo, gắn cuộc sống với thực tại, biến kiến thức trong sách thành các
giá trị thực tế về tri thức văn hóa, bồi dưỡng lòng tự tôn, tự hào dân tộc, biết
ơn tổ tiên và những truyền thống vẻ vang của dân tộc. Cho nên, rèn luyện các
kĩ năng thực hành cho HS cũng là một cách để giáo dục các em biết bảo vệ và
phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa cần được quan tâm và thực hiện thường
xuyên.
Như vậy, đề cập đến vấn đề rèn luyện kĩ năng thực hành, các tài liệu
giáo dục học, giáo dục lịch sử, các sách chuyên khảo, các bài viết ở trong
nước cũng đã giải quyết nhiều vấn đề, từ khẳng định quan niệm, vai trò, ý

nghĩa đến xác định các kĩ năng thực hành. Đây là những định hướng cho
chúng tôi trong nghiên cứu đề tài. Song các tài liệu, bài viết chủ yếu đi vào lý
luận chung về thực hành đối với sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng mà
chưa đề cập vấn đề này dưới góc độ của HS phổ thông, đòi hỏi trong đề tài
chúng tôi cần giải quyết:
-

Thống nhất khái niệm, vai trò, ý nghĩa, phân loại, yêu cầu rèn luyện kỹ

năng thực hành phù hợp với đối tượng HS phổ thông.
-

Xác định rõ các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong

dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

1
4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
:
-

Khẳng định quan niệm đúng đắn và vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện

kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thông nói chung, DHLS
Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 19
.

- Đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong quá
trình DHLS ở trường phổ thông.
3.2. Nhiêm vụ nghiên cứu
hành trong dạy học
-

lịch sử

.

Khảo sát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong

DHLS lớp 12, qua đó khái quát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành
cho HS trong DHLS ở trường phổ thông hiện nay.
Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa (SGK) lịch sử lớp 12
phần lịch

sử

thực hành cần rèn luyện cho HS.

-

-

Xác định, đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS

trong DHLS ở trường phổ thông nói chung, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn
từ 1919 - 1945 lớp 12, trường Trung học phổ thông (THPT) nói riêng.
4.


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu: của đề tài là v
ệt Nam giai đoạn từ 1919 – 1945 (chương
trình chuẩn).


1
5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

các kĩ năng thực

hành cho HS trong DHLS ở trường
.
-

Do thời gian có hạn nên trong đề tài chúng tôi chỉ tập trung nghiên

cứu đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DH khóa
trình lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12 trường THPT (chương
trình chuẩn).
-

Do điều kiện thời gian, đề tài chủ yếu tiến hành điều tra khảo sát và


thực nghiệm sư phạm ở một số trường THPT ở các tỉnh phía Bắc, như:
Trường THPT Tây Hồ - Hà Nội và Trường THPT Thái Hòa - Lập Thạch Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề lí luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành
trong giáo dục và đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
lịch sử

- Nghiên cứu lí luận:
vấn đề rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS;

lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12 (chương trình chuẩn).
- Nghiên cứu

:
...

- Thực nghiệm sư phạm nhằm
xuất trong luận văn

, nâng cao chất

lượng DHLS ở trường phổ thông.
-

.

1
6



6. Ý nghĩa của đề tài
:
-

n:
.

-

:
, si
.

7. Giả thuyết khoa học
t
.
8.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong
dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945, lớp 12 trung học phổ thông
(Chương trình chuẩn).


17


CHƢƠNG 1
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Cơ sở xuất phát
* Mục tiêu giáo dục
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện nay đã tạo
ra những bước đột phá quan trọng trong đời sống xã hội. Loài người bước
vào thời đại thông tin điện tử bằng những công cụ và phương tiện lao động
hiện đại nhất. Bên cạnh những thành tựu có tính chất làm thay đổi cuộc sống
của nhân loại thì loài người cũng đang phải đối mặt với rất nhiều những khó
khăn thử thách như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân
số… Những vấn đề bức thiết này đòi hỏi phải có những biện pháp thích hợp
để giải quyết. Một đặc điểm hoàn toàn mới của thế kỷ XXI là sự xuất hiện
của nền kinh tế tri thức - sản phẩm kỳ diệu của thời đại thông tin “nói đến
nền kinh tế tri thức là nói đến học, nên có người còn gọi là nền kinh tế học
tập” [5, tr.17]. Nền kinh tế tri thức đã tác động sâu sắc đến cuộc sống nhân
loại, không ngoại trừ cả giáo dục và đào tạo, nên hướng tổng quát nhất của
nền giáo dục hiện đại là đi vào phục vụ nền kinh tế tri thức.
Xuất phát từ thực tiễn trên Ủy ban giáo dục của UNESCO đã đưa ra
bốn nguyên lý giáo dục trong thời đại mới là: Học để biết (biết tiếp nhận các
thông tin; biết tạo lập và sử dụng thông tin tri thức như là các công cụ tâm lý
bao gồm cả các kỹ năng hành nghề, tư duy sáng tạo, óc phê phán…); Học để
làm (hàm ý muốn nhấn mạnh gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn,
thích nghi với điều kiện mới); Học để chung sống (học để phát hiện, để biết
người khác, để cùng làm việc vì mục đích chung, mục đích hòa bình); Học để

khẳng định mình (nói tới sự phát triển toàn diện của con người) [5].
18


Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tiếp tục đường lối đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người mọi nhà no ấm.
Để thực hiện mục tiêu trên và cũng là để hòa nhập vào xu thế quốc tế, tháng
12/1996 Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam khóa VIII đã đề ra nghị quyết về định hướng phát triển giáo dục, đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: “Nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ
tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; gìn giữ và phát huy các giá
trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng
và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức và khoa học công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”
như lời căn dặn của Bác Hồ” [27, tr.27- 28].
Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là những nhân tố quyết định tới sự phát triển của xã hội và tăng trưởng kinh
tế. Đảng ta đã dành cho giáo dục đào tạo một sự quan tâm đặc biệt, coi giáo
dục là “sự nghiệp của toàn dân”, là “quốc sách hàng đầu” có những tác
động tích cực để kích thích sự phát triển của giáo dục như: chính sách đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các đồ dùng dạy học, quan tâm giáo dục ở
vùng sâu vùng xa, đổi mới quản lý giáo dục… Những chính sách này đã tạo
nên động lực bên ngoài tác động vào hệ thống giáo dục, tạo cơ sở cho các
động lực bên trong “được tạo nên do sự tác động qua lại giữa thầy và trò,
giữa dạy và học” có cơ hội phát triển. Với nhận thức như vậy, Đảng ta đã đặt

con người vào vị trí trung tâm - nhân tố cơ bản tạo nên mọi sự phát triển của
19


kinh tế - xã hội, xem con người “là sản phẩm tổng hợp do toàn xã hội tạo ra,
trong đó giáo dục - đào tạo có vai trò trách nhiệm cực kỳ quan trọng nhằm
không ngừng nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân
tài” [28].
Chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa trong bộ luật giáo dục nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 23, chương II nêu rõ mục tiêu của
giáo dục phổ thông là “…nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động”. Đồng thời cũng khẳng định, tính chất nguyên lý của nền giáo dục
nước ta là:
“1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, có tính
nhân dân, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng.
2.

Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi

với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”
(Điều 3, chương I).
Mục đích, tính chất, nguyên lý giáo dục đã mở ra phương hướng cho
các hoạt động giáo dục. Phát triển năng lực thực hành cho HS không chỉ đáp
ứng được xu thế phát triển tất yếu của lịch sử mà nó còn góp phần thực hiện
các mục tiêu, nguyên lý, tính chất giáo dục, đảm bảo nguyên tắc thống nhất

giữa lý luận với thực tiễn “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông” [8, tr. 496]. Đặc biệt đối với cấp THPT - cấp học cuối cùng có
nhiệm vụ phải hoàn thành việc trang bị nguồn kiến thức cơ bản, các kĩ năng,
20


kĩ xảo cần thiết, trong đó có kĩ năng thực hành đủ để HS có thể học tiếp, hoặc
tham gia vào đời sống sản xuất.
Phát triển năng lực thực hành cho HS cũng là thực hiện phương châm
đổi mới của giáo dục ngày nay. Cùng với việc định ra đường lối chiến lược
cho giáo dục đến năm 2020, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII
còn rút kinh nghiệm thực tế giáo dục nước nhà trong những năm trước đó.
Điều hạn chế nổi bật mà Đảng quan tâm đến là “chất lượng và hiệu quả giáo
dục - đào tạo còn thấp, trình độ kỹ thuật, kỹ năng thực hành, phương pháp tư
duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. Ở
nhiều trường học sinh ra trường, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế và
đời sống còn hạn chế” [27, tr. 23]. Và một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên là do “phương pháp giáo dục - đào tạo còn chậm đổi mới, chưa
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Giáo dục - đào tạo
chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn liền với
gia đình và xã hội” [27, tr. 26].
Khắc phục tình trạng trên, nghị quyết khẳng định phải “Đổi mới
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp dạy học vào quá trình dạy học, đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp
trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Định hướng trên được pháp chế hóa
trong Luật giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính

tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện kỹ năng
vận dụng vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm tin, hứng thú học
tập cho học sinh” [27].
Nội dung cơ bản của đổi mới giáo dục là phát huy tính tích cực của HS
hay còn gọi là đổi mới PPDH lấy học sinh làm trung tâm. Trong thực tế,
21


PPDH truyền thống lấy GV làm trung tâm còn khá phổ biến, hình thức học
nội khóa gần như là duy nhất. Các hình thức khác nếu có cũng chỉ mang tính
hình thức và chỉ tập trung vào một số biện pháp chủ yếu như trả lời các câu
hỏi trong SGK hoặc sưu tầm, đọc một số tài liệu liên quan đến bài nội khóa.
Mọi hoạt động, kể cả từ khâu soạn giáo án đến khâu lên lớp đều hướng vào
người thầy, người thầy trở thành người giảng giải, thuyết trình độc tôn trên
lớp. HS nghe và ghi chép theo thầy. Cách dạy và học trên đã kéo theo PPDH
nhồi nhét sự kiện cho HS càng nhiều càng tốt. Việc kiểm tra, đánh giá tập
trung chủ yếu vào khả năng ghi nhớ kiến thức. Cách học này làm cho HS mệt
mỏi, giờ học diễn ra nhàm chán và ưu thế của bộ môn bị suy giảm.
Yêu cầu HS thực hành là thực hiện tích cực hóa, hoạt động hóa, đa
dạng hóa các hoạt động của HS, rèn luyện óc độc lập suy nghĩ, tinh thần tự
chủ, sự sáng tạo, tính năng động, phương pháp hoạt động tích cực có hiệu quả
cho HS ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. “Trong việc đổi mới, cải
tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa
quan trọng. Bởi vì, xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên
cơ sở tự nhận thức hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành
động và bằng hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn)” [14, tr. 6]. Cho
nên, bồi dưỡng và phát triển năng lực học tập, nhất là bồi dưỡng phương pháp
tự học trong đó có phương pháp thực hành là nhiệm vụ không thể thiếu được
trong suốt QTDH. Thực hiện nhiệm vụ này chính là đã góp phần từng bước

thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo đã được Đảng ta quán triệt, chỉ đạo.
* Nhiệm vụ của bộ môn
Từ mục tiêu môn học đã đặt ra nhiệm vụ, yêu cầu của việc học tập bộ
môn lịch sử là phải giúp HS biết, hiểu những gì xảy ra trong quá khứ để rút ra
những bài học mang tính quy luật, trên cơ sở đó giải thích được hiện tại, vận
dụng vào thực tiễn và dự đoán cho tương lai. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, trong

2
2


DHLS cần chú ý đến việc bồi dưỡng năng lực nhận thức và năng lực hành
động cho HS.
Kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học cho thấy việc nắm vững tri
thức gắn bó chặt chẽ với việc vận dụng tri thức đó vào thực tiễn. Khi học sinh
tác động tích cực vào tài liệu học tập bằng những hoạt động thực tiễn sẽ làm
cho các nét bản chất mới của đối tượng nghiên cứu bộc lộ ra, làm cho giữa
tri thức lý luận với tri thức thực tiễn có mối liên hệ bên trong sâu sắc. Cũng
chính trong quá trình vận dụng tri thức đó, những thao tác tư duy càng được
trau dồi, củng cố, một số kỹ năng, kỹ xảo trí tuệ và thực hành có ích được
hình thành. Khi bắt tay vào giải quyết các bài tập thực hành, HS phải vận
dụng sự hiểu biết của mình và lựa chọn cách giải quyết một cách phù hợp
nhất để hoàn tất nhiệm vụ. Trong quá trình này kiến thức đã thu nhận được tái
hiện một lần nữa trong trí nhớ HS và được vận dụng vào thực tiễn học tập.
Việc lặp đi lặp lại như thế không chỉ giúp HS củng cố kiến thức mà còn giúp
các em loại bỏ các thao tác tư duy, hành động không cần thiết, kỹ năng học
tập bộ môn thành thục hơn, kỹ xảo được hình thành và củng cố.
Nhận thức lịch sử có những đặc trưng riêng, chi phối quá trình nhận
thức của HS phức tạp hơn và mang tính đặc thù. Việc tái hiện lại quá khứ
khách quan không thể tiến hành được trong phòng thí nghiệm. Trong khi đứng

ở hiện tại, HS phải đi ngược lại thời gian để nhận thức quá khứ. Vì thế, các
em rất dễ bị rơi vào tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Bức tranh quá khứ cũng
không thể và không cần khôi phục lại một cách đầy đủ như nó vốn có. Song,
yêu cầu đặt ra là phải nắm được những nét bản chất của nó để hình thành khái
niệm, rút quy luật, bài học lịch sử đã gây ra không ít những cản trở cho quá
trình nhận thức. Việc thực hành trong học tập lịch sử, nhất là các nội dung
thực hành như vẽ sơ đồ, bản đồ, biểu đồ, đồ thị…giúp HS dễ dàng hơn khi tái
hiện lại những biểu tượng của quá khứ, đồng thời có tác dụng định

2
3


hướng nhận thức và hành động học tập vào những nội dung, yêu cầu cơ bản
của bài học.
Các nhà tâm lý học cho rằng, quá trình thực hiện các kỹ năng thực hành
không chỉ yêu cầu một chức năng tâm lý riêng lẻ nào đó tham gia mà nó là
hành động thống nhất của toàn bộ nhân cách con người. Do đó, quá trình này
có ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực trí tuệ và toàn bộ những thuộc tính
tâm lý khác của cá nhân như tính kiên trì, nhẫn nại, tinh thần tự giác trong lao
động, thói quen dám nghĩ, dám làm và phong cách làm việc khoa học cũng
như rèn luyện khả năng tư duy độc lập, sáng tạo cho HS khi tham gia vào các
hoạt động thực hành. Qua các hoạt động thực hành, tính chân lý của những
kiến thức đã lĩnh hội được khẳng định tạo cơ sở cho một niềm tin vững chắc,
góp phần hình thành thế giới quan khoa học đúng đắn cho HS.


trường phổ thông, bộ môn lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục

nhân cách HS thông qua những tấm gương người thật, việc làm thật. Yêu cầu

HS làm thực hành là biện pháp tốt nhất để góp phần hoàn thiện nhân cách HS.
Lý luận dạy học hiện đại cũng chỉ rõ việc rèn luyện các kỹ năng thực hành
cho HS là khâu không thể thiếu được trong dạy học nói chung, DHLS nói
riêng. Có rất nhiều dạng thực hành lịch sử mà HS có thể tiến hành trên lớp
cũng như ngoài lớp học nhằm nâng cao khả năng nhận biết, khả năng nhận
thức lịch sử của HS.
Việc rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS trong DHLS là một hình thức
đa dạng hóa các hoạt động nhận thức ở các điều kiện sư phạm khác nhau, gợi
lên hứng thú hăng say học tập bộ môn. Các bài tập thực hành có tác dụng làm
nổi bật, mở rộng, đào sâu kiến thức cơ bản đã học trong giờ nội khóa, nâng
tầng hiểu biết của HS lên mức độ cao hơn. Ngoài ra, nó còn khắc phục tình
trạng lạc hậu về kiến thức trong SGK nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc
tuân thủ SGK - tài liệu có tính pháp lệnh được dùng chủ yếu trong nhà trường
phổ thông.
2
4


Việc hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng thực hành lịch sử cho HS còn thể
hiện mối quan hệ mật thiết, biện chứng giữa thầy và trò, là hai nhân tố chủ
yếu của QTDH. Trong đó GV là chủ thể tổ chức, định hướng còn HS vừa là
đối tượng, vừa là chủ thể nhận thức tích cực tham gia giải quyết yêu cầu của
bài tập. Xét trên quan điểm giáo dục, HS vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
một QTDH. Điều đó thực sự khách quan, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to
lớn.
Mục tiêu của môn học đã được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ cơ
bản cho việc dạy học trường phổ thông. Đối với cấp THPT, nhiệm vụ đặt ra
cho HS phải đạt được là:
-


Về kiến thức: trên cơ sở củng cố, phát triển nội dung kiến thức lịch sử

đã học ở cấp Trung học cơ sở (THCS), HS biết và hiểu được những kiến thức
cơ bản về các sự kiện lịch sử tiêu biểu, hợp thành một hệ thống kiến thức về
sự phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và lịch sử dân tộc từ
thời nguyên thủy đến nay. Nói một cách khác, nhiệm vụ giáo dưỡng trong
mục tiêu của môn lịch sử ở trường THPT là cung cấp cho HS những kiến thức
cơ bản, bao gồm sự kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu biểu, thời gian, không
gian, các khái niệm, thuật ngữ những hiểu biết về quan điểm lí luận đơn giản,
những vấn đề về phương pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và
trình độ HS.
-

Về kĩ năng: tiếp tục hoàn thiện những kĩ năng cần thiết cho học tập

lịch sử đã được rèn luyện từ cấp Tiểu học, THCS, bổ sung những kĩ năng phù
hợp với trình độ nhận thức của HS THPT như: thể hiện quan điểm lịch sử khi
xem xét sự kiện và nhân vật, làm việc với SGK và các nguồn sử liệu, biết
phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát... có năng lực tự học, phát hiện, đề
xuất, giải quyết vấn đề, nâng cao hơn năng lực tư duy và thực hành.
-

Về thái độ, tư tưởng, tình cảm: qua từng bài học, từng phần, từng

chương, từng khóa trình và cả chương trình của cấp học, trên cơ sở nội dung
2
5



×