Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Một số điểm mới về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.74 KB, 4 trang )

Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ĐƯỢC
QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
(SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017)
NGUYỄN NGỌC MINH THÔNG*
TÓM TẮT NỘI DUNG
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam là một trong những tội phạm xâm phạm sở hữu. Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung tình tiết mới đáng chú ý vào tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng
cố tình không trả”; đáp ứng yêu cầu xử lý các trường hợp có điều kiện trả nợ nhưng vẫn
cố tình chây ỳ không trả để chiếm đoạt tài sản của người khác. Để làm rõ hơn về tội danh
này, nội dung bài viết phân tích những điểm mới về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Từ khóa: Bộ luật Hình sự; điểm mới; lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt tài sản.
SUMMARY
Crime of abuse of trust to appropriate property in Vietnam Criminal Law is one of
offences against rights of property. The Criminal Code 2015 (Amended in 2017) added
to this crime one important detail which said “refuses to repay or return the property
when the repayment or return of property is due despite he/she is capable of doing so”;
this regulation has met the demand to punish crime in some cases that the offender
deliberately refuses to repay or return the property despite he/she is capable of doing so in
order to appropriate property. In this article, the author analysed new points of crime of
abuse of trust to appropriate property in Criminal Code 2015 (Amended in 2017).
Key words: Criminal Code; new points; abuse of trust to appropriate property.

T

heo Từ điển Tiếng Việt thông


dụng của nhóm Việt Ngữ thì
“lạm dụng”1 là sử dụng quá mức
hoặc quá giới hạn đã được quy định, “tín

1
2

Từ điển Tiếng Việt, Nxb từ điển Bách khoa, Tr 25.
Từ điển Tiếng Việt, Nxb sự thật, Tr 35.

128 SỐ 99 [01 - 2018]

nhiệm”2 là tin cậy trong một nhiệm vụ cụ
thể nào đó. Như vậy lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản có thể hiểu là việc đối
tượng nào đó sử dụng quá mức sự được
* Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II


Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
người tin cậy mình để chiếm đoạt tài sản.
Theo giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam của trường Cao đẳng Cảnh sát
nhân dân II, Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là trường hợp chiếm
đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đã
được giao ngay thẳng do có sự tín nhiệm
của chủ tài sản giao cho để thực hiện một
việc nào đó3.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản được quy định trong Bộ luật Hình
sự Việt Nam là một trong những tội
phạm xâm phạm sở hữu. Theo quy định
ở Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), tội phạm này người phạm tội
không dùng bất cứ thủ đoạn nào để lấy
tài sản từ trong tay của chủ sở hữu. Chỉ
sau khi nhận được tài sản một cách ngay
thẳng từ chủ sở hữu thông qua các giao
kết hợp pháp, người phạm tội mới có
hành vi chiếm đoạt. Bằng các biểu hiện
khác nhau, họ thể hiện sự chiếm đoạt của
mình có thể là bỏ trốn, đến hạn trả lại tài
sản mặc dù có khả năng, điều kiện mà cố
tình không trả, dùng thủ đoạn gian dối
hoặc sử dụng tài sản vào mục đích hợp
pháp dẫn đến không có khả năng để trả
lại tài sản. Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định
chi tiết các dấu hiệu pháp lý trong cấu
thành tội phạm này một các cụ thể, đầy
đủ, chính xác hơn.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự thì

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là hành vi của chủ thế có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đã
vay, mượn, thuê tài sản của người khác
hoặc nhận được tài sản của người khác
có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên thông

qua hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản dù có
khả năng, điều kiện trả lại tài sản mà cố
tình không trả hoặc dùng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản hoặc dùng tài
sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) ra đời đánh dấu một
bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội
nhập cũng như phù hợp với tình hình
thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội
và thực sự là một bước tiến trong lịch
sử lập pháp của nước ta. Đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Bộ
luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) có sự sửa đổi bổ sung như sau:
Thứ nhất, để cụ thể hóa điều luật,
tránh hiểu sai, hiểu không thống nhất về
quy định “đã gây hậu quả nghiêm trọng”
“đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản”, Bộ luật Hình sự mới đã bỏ
cụm từ “đã gây hậu quả nghiệm trọng”
và quy định cụ thể rõ ràng đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc

Trường Cao đăng Cảnh sát nhân dân II, Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam của (hệ Cao đăng), Tr 30.


4

3

Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của
Bộ luật hình sự 2015( sửa đổi bổ sung 2017).

TẠP CHÍ KHGD CSND 129


Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản hoặc một số tội danh
cụ thể4. Các tội danh được liệt kê cụ thể
tránh hiểu chung chung không rõ ràng
như Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định bổ
sung trường hợp “tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài
sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại”. Đây cũng là quy định
cần thiết, phù hợp, thể hiện rõ việc bảo
vệ người bị hại. Nếu lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại hoặc tài sản
có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại thì đủ yếu tố cấu thành

tội phạm mà không cần phải xem xét đến
yếu tố định lượng tài sản trị giá bao nhiêu
hay trước đó đã bị kết án về tội phạm nào
hay chưa.
Thứ ba, thay đổi về các dấu hiệu định
khung hình phạt. Điểm e khoản 2, điểm b
khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 140 Bộ luật
Hình sự năm 1999 sử dụng các tình tiết
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả
rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng” làm tình tiết định khung
hình phạt của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Nhưng cũng như ở các
tội khác, Điều 175 Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không
quy định các tình tiết này làm tình tiết
định khung hình phạt, đây cũng chính là
130 SỐ 99 [01 - 2018]

một điểm mới mang tính tiến bộ của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), bởi lẽ: Đây là những “hậu quả
gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà
việc định tội, định khung hình phạt đối
với người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội cần phải căn cứ vào hậu quả
trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã
hội, chứ không phải là hậu quả gián tiếp
(hậu quả mang tính chất suy diễn và nằm
ngoài khả năng dự đoán của người phạm

tội). Hơn nữa, những “hậu quả nghiêm
trọng” hay “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt
nghiêm trọng” như trên mang tính không
cụ thể, nếu quy định vào trong luật như
Bộ luật Hình sự năm 1999, thì sẽ dẫn đến
việc phải có văn bản hướng dẫn dưới luật
thì mới thi hành được luật, mà luật hình
sự thì phải cụ thể và rõ ràng, dễ hiểu để
mọi người đều có thể hiểu và thi hành,
tránh phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn
dưới luật; như vậy, quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015 cụ thể hơn và mang
tính tiên liệu thực tiễn cao hơn Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Bên cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều
175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) quy định thêm
tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp” làm tình tiết định khung hình
phạt, quy định này là hợp lý và cần thiết
để răn đe, trừng trị đối với những người
mà tính “bất tín” đã trở thành bản tính.
Hiện nay tình trạng vay nợ nhưng đến
hạn không chịu trả diễn ra tràn lan trên


Tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
khắp cả nước, nhiều đối tượng sử dụng
thủ đoạn này liên tục nhiều lần, thực
hiện trong thời gian dài và coi đây như

công cụ kiếm sống của mình. Trong
các tội danh thuộc chương các tội xâm
phạm sở hữu cũng quy định đây là tình
tiết định khung hình phạt. Do vậy để
phù hợp với tình hình thực tế cũng như
cân đối phù hợp với các tội danh khác,
các nhà làm luật đã đưa tình tiết “phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình
tiết định khung hình phạt.
Thứ tư, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) đã thể hiện cao tính
nhân đạo khi quy định giảm nhẹ hơn
các khung hình phạt trong từng điều
khoản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Cụ thể khoản 3 Điều 175
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định khung hình phạt chỉ
còn từ 5 năm đến 12 năm trong khi đó
Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009) quy định khung hình phạt từ
7 năm đến 15 năm. Tương tự khoản 4
Điều 174 mức hình phạt cũng nhẹ hơn,
bỏ hình phạt chung thân.
Khoản 5 Điều 140 của Bộ luật Hình
sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy
định hình phạt bổ sung khi phạm tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là

phạt tiền, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định và bị tịch thu một phần

hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai
hình phạt trên. Đến Bộ luật Hình sự 2015
thì hình phạt bổ sung quy định chỉ áp
dụng 1 trong hai hình phạt bổ sung theo
quy định chứ không được áp dụng cả hai
hình phạt bổ sung trong một số trường
hợp như Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009 quy định.
N.N.M.T

Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội
(2013), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân.
2. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam - Phần chung, Nxb Hồng Đức.
3. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình
luận khoa học phần các tội phạm Bộ luật
Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017, Nxb Thế giới.
4. Trường Cao đăng Cảnh sát nhân
dân II, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
5. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự.
6. Quốc hội (2017), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự
năm 2015.

(Nhận bài: 06/01/2018; hoàn thành biên tập: 15/01/2018; duyệt đăng: 25/01/2018)


TẠP CHÍ KHGD CSND 131



×