Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về văn phòng luật sư qua thực tiễn trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN THỊ THANH LỊCH

PHÁP LUẬT VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ
QUA THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

NGUYỄN THỊ THANH LỊCH

PHÁP LUẬT VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ
QUA THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Hướng đào tạo: Ứng dụng
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN THÔNG ANH

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Thanh Lịch – là học viên lớp Cao học Khóa 28
chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh,
là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Pháp luật về văn phòng luật sư
qua thực tiễn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 07 năm 2020
Tác giả đề tài

Nguyễn Thị Thanh Lịch


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT
ABSTRACT
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VĂN PHÒNG
LUẬT SƯ TẠI VIỆT NAM ......................................................................................8
1.1 Khái quát chung về văn phòng luật sư .............................................................. 8

1.1.1 Khái niệm về luật sư và nghề luật sư......................................................... 8
1.1.1.1 Khái niệm luật sư ............................................................................... 8
1.1.1.2 Khái niệm nghề luật sư ...................................................................... 9
1.1.1.3 Khái niệm hành nghề luật sư ........................................................... 10
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của văn phòng luật sư.......................................... 14
1.1.3 Cơ cấu tổ chức nội bộ của văn phòng luật sư ........................................... 19
1.1.4 Các quyền và nghĩa vụ của văn phòng luật sư.......................................... 21
1.1.5 Lịch sử hình thành và phát triển của văn phòng luật sư tại Việt Nam ... 25
1.1.5.1 Giai đoạn trước 01/01/2007 (ngày LLS 2006 có hiệu lực thi hành)
1.1.5.2 Giai đoạn từ 01/01/2007 đến nay ..........................................................
1.2 Phân biệt văn phòng luật sư và công ty luật ................................................... 28
1.4 Vai trò của văn phòng luật sư trong sự phát triển kinh tế xã hội ................ 31
1.5 Văn phòng luật sư trong các mối liên hệ với các chủ thể khác ..................... 32
1.5.1 Văn phòng luật sư với khách hàng ........................................................... 32
1.5.2 Văn phòng luật sư và các luật sư làm việc tại văn phòng ........................ 33
1.5.3 Văn phòng luật sư và Tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ............... 34
1.5.4 Văn phòng luật sư và Sở Tư pháp ............................................................ 34
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 36


CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CÁC VĂN
PHÒNG LUẬT SƯ QUA THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .................................. 37
2.1 Tổng quan về tình hình thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư trên
địa bàn TP. Hồ Chí Minh ....................................................................................... 37
2.1.1 Tình hình thành lập và sự phân bố các văn phòng luật sư trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh (tính đến tháng 4/2020).............................................................. 37
2.1.2 Một số hành vi vi phạm quy định pháp luật trong hoạt động của văn
phòng luật sư ............................................................................................................ 40
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập và hoạt động của văn phòng luật

sư trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh .......................................................................... 43
2.2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập văn phòng luật sư trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 43
2.2.1.1 Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện thành lập văn phòng luật
sư... ............................................................................................................... 43
2.2.1.2 Thực tiễn áp dụng quy định về thủ tục đăng ký hoạt động văn phòng
luật sư ........................................................................................................... 47
2.2.2 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hoạt động của văn phòng
luật sư trên địa bàn TP Hồ Chí Minh ..................................................................... 55
2.2.2.1 Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư ........... 55
2.2.2.2 Các lĩnh vực hoạt động khác của văn phòng luật sư ....................... 62
2.2.3 Chuyển đổi hình thức hoạt động của văn phòng luật sư ......................... 63
2.2.4 Tạm ngừng, chấm dứt hoạt động của văn phòng luật sư, chi nhánh, văn
phòng giao dịch của văn phòng luật sư .................................................................. 65
2.3 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thành lập và hoạt động của văn
phòng luật sư............................................................................................................ 68
2.3.1 Kiến nghị liên quan đến thành lập văn phòng luật sư ............................. 68
2.3.2 Kiến nghị liên quan đến hoạt động của văn phòng luật sư ...................... 70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2015

Bộ luật dân sự 2015

DNTN


Doanh nghiệp tư nhân

LDN 2014

Luật doanh nghiệp 2014

LLS 2012

Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung một số điều năm 2012

TCXHNN

Tổ chức xã hội nghề nghiệp

TCHNLS

Tổ chức hành nghề luật sư

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TP. Hà Nội

Thành phố Hà Nội

TP. Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh


VPLS

Văn phòng luật sư


PHÁP LUẬT VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUA THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA
BÀN TP. HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT
Văn phòng luật sư là một trong các hình thức tổ chức hành nghề của luật sư
mang nhiều đặc trưng riêng, được khá nhiều luật sư lựa chọn, phát triển mạnh về số
lượng trong những năm gần đây. Do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài này để
nghiên cứu về những ưu điểm và bất cập của quy định pháp luật về hình thành và
hoạt động của văn phòng luật sư qua thực tiễn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Trong nội dung của Luận văn, tác giả dành toàn bộ chương 1 để khái quát, hệ
thống và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về luật sư, hành nghề luật
sư, tổ chức hành nghề luật sư, văn phòng luật sư. Trong chương 2, tác giả sử dụng
phương pháp phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thống kê số liệu, đánh
giá vụ việc thực tế trong việc thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư trên địa
bàn TP. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh việc ghi nhận những kết quả tích cực trong quá trình áp dụng pháp
luật, tác giả còn xác định được một số điểm bất cập, vướng mắc pháp luật trong quá
trình thực hiện, từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp
luật về thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư như quy định về điều kiện đối
với chủ thể thành lập VPLS, yêu cầu giấy tờ chứng minh trụ sở khi thành lập VPLS,
chi nhánh, văn phòng giao dịch của VPLS; vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho khách hàng của VPLS; trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho các luật sư của VPLS.
Tác giả mong rằng luận văn có thể là cơ sở để các nhà lập pháp nghiên cứu
hoàn thiện pháp luật, đồng thời là công trình khoa học có giá trị tham khảo trong
các cơ sở đào tạo pháp luật như các trường đại học, học viện.

Từ khóa: văn phòng luật sư; tổ chức hành nghề luật sư; dịch vụ pháp lý; thành
lập; hoạt động; TP. Hồ Chí Minh.


LEGISLATION ON THE LAWYER'S OFFICES THROUGH PRACTICE IN
HO CHI MINH CITY
ABSTRACT
Lawyer's office is one of the forms of law-practicing organizations of lawyers
with many specific characteristics, selected by many lawyers, developing strongly
in number in recent years. Therefore, the author decides to choose this topic to
study the advantages and inadequacies of the law on the establishment and
operation of lawyer's offices through practice in Ho Chi Minh city.
In the content of this thesis, the author generalizes, systemizes and analyzes
the provisions of Vietnamese law on lawyers, law practice, law-practicing
organizations of lawyers, lawyers' offices in the whole chapter 1. In chapter 2, the
author uses the method of analyzing current regulations and data statistical,
assessing the actual cases on the establishment and operation of the lawyer's office
in Ho Chi Minh city.
Besides legitimated the positive results in the process of applying the law, the
author also identified a number of inadequacies and legal problems during the
implementation, then the author proposes a number of recommendations to improve
the law on the establishment and operation of a lawyer's office, such as the
conditions for subject to establish a lawyer's office; request for papers evidencing
the headquarters of the lawyer's office, its branches, its transaction offices; issues on
compensation for damage caused by its lawyers to its clients; responsibility for
purchasing professional liability insurance for its lawyers.
The author hopes that the thesis can be the basis for lawmakers to improve the
law, and is also a valuable scientific work for referring of legal training schools like
universities and institutes.
Keywords: lawyer's offices; law-practicing organizations of lawyers; legal

services; establishment; operation; Ho Chi Minh City.


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật sư là một ngành nghề đặc thù trong xã hội, liên quan đến lĩnh vực pháp
luật. Thông qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý, hoạt động nghề nghiệp của luật sư
góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Với đặc tính công việc liên quan đến pháp luật cùng với vai trò là
một chức danh bổ trợ tư pháp, một người muốn hành nghề luật sư phải trải qua quá
trình học tập, đào tạo, được cấp chứng chỉ hành nghề và phải đáp ứng các tiêu
chuẩn khác theo quy định của pháp luật.
Luật sư được quyền lựa chọn hình thức hành nghề với tư cách cá nhân hoặc
hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp
của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề
nghiệp của mình. Tuy nhiên, để hỗ trợ, giúp đỡ nhau, đồng thời đáp ứng nhu cầu
của khách hàng, nâng cao uy tín trước khách hàng, các luật sư có thể hợp tác với
nhau trong các tổ chức hành nghề nhất định1, nên hiện nay, số lượng luật sư lựa
chọn hình thức hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư nhiều hơn là hình thức
hành nghề với tư cách cá nhân.
Theo quy định của pháp luật luật sư hiện hành, tổ chức hành nghề luật sư bao
gồm văn phòng luật sư và công ty luật; trong đó văn phòng luật sư do một luật sư
thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; công ty
luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn2. Các quy
định của luật luật sư về hình thức hành nghề đã giúp hoạt động nghề nghiệp của luật
sư đi vào khuôn khổ, tạo hành lang pháp lý cho cả người hành nghề luật sư và
người sử dụng dịch vụ pháp lý, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cơ
quan, tổ chức, cá nhân về hoạt động nghề luật sư.

Kể từ khi Luật luật sư ra đời năm 2006 và sửa đổi bổ sung năm 2012, các tổ
chức hành nghề luật sư không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Theo
Đậu Huy Giang, 2014. Pháp luật về công ty Luật ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ luật học. Đại học Luật Hà
Nội, tr. 1.
2
Điều 32, 33, 34 LLS 2012.
1


2

báo cáo kết quả 10 năm hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, so với năm
2009 từ số lượng 6.250 luật sư và 2.928 tổ chức hành nghề luật sư, đến 16/9/2019,
cả nước có 13.563 luật sư, hơn 4.000 tổ chức hành nghề luật sư. Với sự gia tăng
vượt bậc về số lượng luật sư cũng như tổ chức hành nghề luật sư, cho thấy nhu cầu
sử dụng dịch vụ pháp lý trong xã hội Việt Nam cũng ngày càng nhiều và đa dạng;
đó cũng là một trong những dấu hiệu để chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nghề
luật sư và xã hội Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập với xu hướng phát triển
của thế giới. Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản pháp luật quy định về hành
nghề luật sư, tuy nhiên các văn bản pháp luật này cũng không tránh khỏi những
khiếm khuyết gây nên nhiều khó khăn cho quá trình hành nghề luật sư, cản trở hoạt
động của các cơ quan có liên quan3. Qua đó, yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật
hoàn thiện về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nói chung và
văn phòng luật sư nói riêng.
Bên cạnh đó, xét về địa bàn hoạt động thì thành phố Hồ Chí Minh được xem
là đầu tàu kinh tế cả nước, với những đặc điểm lịch sử riêng biệt, thành phố Hồ Chí
Minh là nơi nghề luật sư ra đời sớm nhất cả nước, tập quán sử dụng dịch vụ luật sư
đã hình thành từ rất sớm trong xã hội. Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh với số
lượng luật sư thành viên, cũng như số lượng văn phòng luật sư và chi nhánh văn
phòng luật sư đang hoạt động là đông nhất cả nước. Tính đến ngày 31/12/2019,

Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh có 5.645 luật sư là thành viên (tăng 1,8 lần so
với năm 2011) hoạt động hành nghề với tư cách cá nhân (341 luật sư) và hoạt động
tại 1.635 tổ chức hành nghề luật sư trong nước (tăng 0,4 lần so với năm 2013), 353
chi nhánh, 205 văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam4.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương có rất đông các luật sư là thành viên
của các Đoàn luật sư các tỉnh thành khác lựa chọn sinh sống và hành nghề. Vậy nên,
thông qua thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, có thể tìm hiểu và ghi

Hoàng Thị Anh Thư, 2014. Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ luật học. Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr. 1.
4
UBND Thành phố Hồ Chí Minh. “Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư
đến năm 2020 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, ngày 13/5/2020.
3


3

nhận đầy đủ các vấn đề phát sinh, những thành tựu, điểm chưa hợp lý của pháp luật
về văn phòng luật sư để điều chỉnh, hoàn thiện.
Từ những nội dung trên, tác giả cho rằng cần có một sự nghiên cứu toàn diện,
qua việc phân tích các quy định của pháp luật về thành lập và hoạt động của văn
phòng luật sư đến việc bình luận, xem xét việc áp dụng pháp luật qua thực tiễn trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra một cái nhìn tổng quan về chế định
này. Đó cũng là lý do mà tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về văn
phòng luật sư qua thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” để làm Luận văn
Thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn thực hiện đề tài nghiên cứu “Pháp luật về văn phòng luật sư qua
thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” nhằm hướng đến giải quyết các vấn

đề sau:
Thứ nhất, phân tích thực trạng pháp luật hiện hành quy định về văn phòng luật
sư, điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư tại Việt Nam.
Thứ hai, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thành lập và hoạt động của
văn phòng luật sư trên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, luận văn
chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập của quy định
pháp luật phát sinh trong quá trình thành lập và hoạt động của các văn phòng luật sư
thời gian qua.
Thứ ba, đưa ra các kiến nghị lập pháp sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật về thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư trong thời gian
tới tại Việt Nam nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam hiện hành có những quy định gì liên quan đến
văn phòng luật sư, đặc biệt là việc thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư?


4

Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập và hoạt động của văn phòng
luật sư trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay như thế nào? Đã bộc lộ những
tồn tại, hạn chế gì?
Thứ ba, các quy định của pháp luật về thành lập và hoạt động của văn phòng
luật sư cần phải có những điều chỉnh gì để đảm bảo quản lý nhà nước đối với hoạt
động luật sư và thuận tiện cho các luật sư trong hoạt động nghề nghiệp?
4. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá quy định pháp luật về
văn phòng luật sư, tập trung vào các quy định về thành lập và hoạt động của văn
phòng luật sư và thực tiễn áp dụng pháp luật tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa

ra một số đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật, góp phần giúp những chủ thể quan
tâm đến đề tài này có một công trình khoa học cụ thể và chi tiết về pháp luật quy
định đối với việc thành lập và hoạt động văn phòng luật sư để tham khảo, nghiên
cứu.
4.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật của Việt Nam về
thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư được quy định tại Luật luật sư 2006
(sửa đổi, bổ sung năm 2012), các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật luật sư
2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến
văn phòng luật sư tại Việt Nam như Luật doanh nghiệp 2014, các nghị định quy
định chi tiết thi hành Luật doanh nghiệp 2014.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật và thực tiễn về thành lập và
hoạt động của văn phòng luật sư từ khi Luật luật sư 2006 được ban hành, được sửa
đổi bổ sung năm 2012.
+ Về không gian: Thực tiễn thành lập và hoạt động của các văn phòng luật sư
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu


5

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp xuyên suốt trong luận
văn để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thành lập và hoạt động
của văn phòng luật sư.
Phương pháp so sánh đối chiếu, thống kê và dùng sự kiện để chứng minh nhận
định được sử dụng nhiều ở chương 2 nhằm thấy được tính khả thi đồng thời cũng
nhận diện, đánh giá những bất cập, hạn chế, thiếu đồng bộ trong quy định giữa các
văn bản luật hiện hành. Qua đó làm cơ sở cho các kiến nghị, đề xuất hoàn thiện
pháp luật.

Ngoài ra, phương pháp phân tích luật học, đánh giá cũng được sử dụng ở
Chương 1, Chương 2 của luận văn để thông qua phân tích các quy định pháp luật,
đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thành lập và hoạt động của văn phòng luật
sư, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật có liên quan.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở khoa học về lý luận và
thực tiễn cung cấp cho các nhà nghiên cứu trong việc hệ thống hóa các quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng về thành lập và hoạt động của văn phòng luật sư.
Thứ hai, tác giả mong rằng các kiến nghị trong luận văn có thể là cơ sở để các
nhà lập pháp nghiên cứu hoàn thiện pháp luật, đảm bảo sự chặt chẽ trong quản lý
nhà nước.
Thứ ba, luận văn có thể là công trình khoa học có giá trị phục vụ cho việc
giảng dạy, học tập của các cơ sở đào tạo pháp luật như các trường đại học, học viện.
7. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư nói chung và pháp luật về
văn phòng luật sư nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và
đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
- Luận án tiến sĩ “Tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Văn Công, Học viện Khoa học xã
hội, tháng 1/2020; tác giả thực hiện việc nghiên cứu thông qua việc phân tích các
quy định pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp


6

luật tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các điều chỉnh đối với các bất cập,
thiếu sót của pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam” của
tác giả Hoàng Thị Anh Thư, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014; trong đó tác
phẩm chủ yếu phân tích về phạm trù hành nghệ luật sư, các vấn đề liên quan đến

cung cấp dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật Việt Nam, đánh giá thực trạng
pháp luật và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về công ty Luật ở Việt Nam” của tác
giả Đậu Huy Giang, Đại học Luật Hà Nội, năm 2014; trong đó luận văn phân tích
các quy định pháp luật về công ty luật, thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam và
định hướng hoàn thiện pháp luật về công ty luật.
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010;
trong đó, tác giả đi sâu vào phân tích về các quy định pháp luật hiện hành liên quan
đến luật sư như điều kiện để trở thành luật sư, thực tiễn hành nghề của luật sư cũng
như các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam
nhằm đề xuất hoàn thiện pháp luật.
Ngoài ra, còn có những công trình nghiên của của các tác giả trước khi Luật
luật sư 2006 được ban hành như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu cầu
và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài, năm 2005;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” do Vụ trưởng
Vụ Bổ trợ tư pháp Nguyễn Văn Thảo, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài, năm 2003;
- Luận án Tiến sĩ luật học:“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật
sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của Luật sư Phan Trung Hoài, năm 2003.
Những công trình nghiên cứu khoa học trên đây chủ yếu đề cập nhiều về các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tổ chức luật sư và hành nghề luật sư ở Việt


7

Nam, trong đó, có nhiều kiến giải, luận điểm khoa học đã được vận dụng vào thực
tiễn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện

pháp luật về VPLS ở Việt Nam, đưa ra hành lang pháp lý cho một trong các hình
thức hành nghề cụ thể của luật sư là VPLS theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nhìn tổng quan, những kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố được
nêu trên sẽ là các tư liệu quý giá để tác giả tham khảo và kế thừa trong quá trình
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn được chia thành 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về văn phòng luật sư tại Việt
Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập và hoạt động của văn
phòng luật sư trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.


8

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI
VIỆT NAM
Nội dung Chương 1 tập trung vào việc nhận diện một VPLS về mặt pháp lý,
theo quy định của Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012, LDN 2014 và
các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành LLS 2012, LDN 2014. Thông qua phân
tích các khái niệm, các quy định về luật sư, nghề luật sư, các quy định về TCHNLS
các mối liên hệ của VPLS với các chủ thể khác trong nền kinh tế, Chương 1 khái
quát các vấn đề pháp lý về VPLS, tạo nền tảng cho việc quan sát, đánh giá về thành
lập và hoạt động của VPLS trong thực tiễn.
1.1. Khái quát chung về văn phòng luật sư
1.1.1 Khái niệm về luật sư và nghề luật sư
1.1.1.1 Khái niệm luật sư

Trước đây, theo quy định tại Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, chỉ có quy
định một người muốn trở thành luật sư phải đáp ứng đủ điều kiện và gia nhập Đoàn
luật sư chứ không có khái niệm luật sư.
Đến khi Pháp lệnh luật sư 2001 ra đời thì khái niệm luật sư mới được quy
định, theo đó tại Điều 1 Pháp lệnh thì luật sư được định nghĩa như sau: “Luật sư là
người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt
động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của
cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
pháp luật”, cách hiểu này được xem là đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ chưa mang
hàm ý là một định nghĩa, tuy nhiên tác giả cho rằng định nghĩa này đã làm rõ về
việc là một luật sư thì phải đáp ứng điều kiện gì và cũng đã phản ánh đầy đủ các
phạm vi hành nghề của luật sư.
Kế thừa Pháp lệnh luật sư 2001, Luật luật sư 2006 được sửa đổi bổ sung năm
2012 (sau đây gọi là LLS 2012) quy định tại Điều 2 như sau: “Luật sư là người có
đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách


9

hàng)”. Có thể nói, cách hiểu này tuy có cải tiến hơn so với Pháp lệnh luật sư 2001
như không cần liệt kê dịch vụ pháp lý mà luật sư cung cấp nhưng khái niệm này vẫn
chỉ là đưa ra quy ước để hiểu một cách thống nhất về luật sư chứ chưa hẳn là một
khái niệm đầy đủ. Một số vấn đề cần đặt ra như khi nào (thời điểm) một người được
công nhận là luật sư, giấy tờ nào sẽ chứng minh một người là luật sư vẫn chưa được
đề cập trong quy định trên. Theo tác giả, dựa trên các quy định về luật sư và nghề
luật sư trong LLS 2012 có thể hiểu luật sư là người có đầy đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, luật sư phải là người hành nghề luật, có Chứng chỉ hành nghề luật
sư (phân biệt với những người hành nghề luật khác).
Thứ hai, luật sư muốn hành nghề chuyên nghiệp cần phải đăng ký hoạt động

nghề nghiệp tại TCXHNN của luật sư (ở Việt Nam hiện nay là Đoàn luật sư
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương) để được cấp thẻ luật sư bởi Liên đoàn luật sư
Việt Nam.
Thứ ba, hoạt động của luật sư là cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng (cá
nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước….).
Từ những phân tích trên, để giải quyết những yếu tố còn thiếu trong một định
nghĩa hoàn chỉnh, tác giả đưa ra khái niệm Luật sư như sau: “Luật sư là người hành
nghề luật, có chứng chỉ hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư,
đăng ký hành nghề tại một Đoàn luật sư nhất định và có hoạt động cung cấp các
dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
1.1.1.2 Khái niệm nghề luật sư
Nghề luật sư là một nghề trong xã hội, gắn liền với đặc thù lịch sử và hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, cho đến nay, chưa có một
quy định pháp luật nào đưa ra định nghĩa chính thức về nghề luật sư. Nhưng theo
cách hiểu phổ biến thì nghề luật sư là một công cụ để góp phần bảo vệ công lý, phát
triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Luật sư Phan Trung Hoài đã đưa ra định nghĩa về nghề luật sư ở nước ta như
sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật
của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định


10

của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công
lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế
và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”5. Tác giả cho rằng
đây là một định nghĩa đầy đủ và phù hợp với thực tế nghề luật sư ở Việt Nam, nhất
là vào thời điểm của tác phẩm (năm 2003).
Dựa trên cách định nghĩa này, theo tác giả: “Nghề luật sư là một nghề luật,
trong đó người luật sư có quyền tự do lựa chọn hình thức hành nghề của mình,

cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo quy định của pháp luật, theo quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.1.1.3 Khái niệm hành nghề luật sư
Hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam là hoạt động cung cấp dịch vụ
pháp lý của luật sư. Trong đó khái niệm dịch vụ pháp lý của luật sư được quy định
tại Điều 4, LLS 2012 như sau: “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố
tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp
lý khác”.
Đối với phạm vi hành nghề luật sư, LLS 2012 quy định tại Điều 22, theo đó
như sau:
“1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
2. Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.

Phan Trung Hoài, 2003. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay. Luận
án tiến sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.35.
5


11

3. Thực hiện tư vấn pháp luật.
4. Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên

quan đến pháp luật.
5. Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này”.
Về phạm vi hành nghề luật sư:
Phạm vi hành nghề là một trong những nội dung quan trọng được ghi nhận
trong Giấy đăng ký hoạt động của TCHNLS6. Các TCHNLS Việt Nam hay
TCHNLS nước ngoài tại Việt Nam đều phải hoạt động theo đúng phạm vi, lĩnh vực
hành nghề được ghi trong Giấy đăng ký hoạt động. Phạm vi hành nghề cụ thể ghi
trên Giấp đăng ký hoạt động có thể tương tự hoặc rõ ràng hơn hay hạn chế hơn so
với quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động của VPLS đó. Ngoài ra, có một số
lĩnh vực hoạt động cần phải có giấy phép hoạt động riêng, ví dụ như đối với các
dịch vụ tư vấn, đại diện theo ủy quyền của khách hàng trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp căn cứ theo quy định tại Điều 154, Điều 155 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2019). Trong giấy phép hoạt động riêng do Cục Sở
hữu trí tuệ cấp cho VPLS đủ điều kiện thực hiện dịch vụ đại diện sở hữu công
nghiệp quy định lĩnh vực hoạt động của VPLS là “dịch vụ đại diện sở hữu công
nghiệp”, chứ không quy định trên Giấy đăng ký hoạt động do Sở Tư pháp cấp cho
VPLS đó.
Phạm vi hành nghề của các TCHNLS hoạt động tại Việt Nam không như
nhau, đối với TCHNLS nước ngoài thì phạm vi hành nghề được quy định hạn chế
hơn so với của TCHNLS Việt Nam. Theo quy định tại Điều 70 LLS 2012 như sau:
“Chi nhánh, công ty luật nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được thực hiện
tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác, không được cử luật sư nước ngoài và
luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tham gia tố tụng với tư cách là
người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự trước Tòa án Việt Nam hoặc thực hiện các dịch vụ về giấy tờ pháp lý và công
Khoản 2, điều 9, nghị định 123/1013/NĐ-CP ngày 14/102013 ngày 14/10/2013 của Chính Phủ Quy định chi
tiết một số biện pháp và điều kiện và biện pháp thi hành Luật luật sư sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
137/2018/NĐ-CP ngày 8/10/2018.
6



12

chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam, được cử luật sư Việt Nam trong tổ chức
hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt Nam”. Đối với TCHNLS nước ngoài,
Giấy phép hoạt động thường sẽ ghi rõ loại hình dịch vụ pháp lý không được thực
hiện, trong đó có hoạt động trực tiếp tham gia bào chữa hoặc đại diện cho khách
hàng trước Tòa án Việt Nam.
Về hình thức hành nghề luật sư:
Theo quy định tại Điều 23 LLS 2012, Luật sư được lựa chọn một trong hai
hình thức hành nghề gồm (1) Hành nghề trong TCHNLS được thực hiện bằng việc
thành lập hoặc tham gia thành lập TCHNLS; làm việc theo hợp đồng lao động cho
TCHNLS; (2) Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định tại Điều 49 của Luật
này. Theo đó, hành nghề trong TCHNLS đều gắn liền với TCHNLS (thành lập,
tham gia thành lập, ký hợp đồng lao động) còn hành nghề với tư cách cá nhân thì
không gắn liền với TCHNLS mà thuộc cơ quan, tổ chức khác thông qua việc ký hợp
đồng lao động.
Ưu điểm của hình thức hành nghề trong TCHNLS đó là cơ hội luật sư được
làm việc, học hỏi với những luật sư đồng nghiệp nhiều hơn so với hành nghề với tư
cách cá nhân. Trong TCHNLS như công ty luật hay VPLS thì thường có số lượng
luật sư nhiều hơn, các trợ lý luật sư, những người được đào tạo ngành luật chiếm đa
số, ngược lại, các cơ quan, tổ chức khác chẳng hạn như doanh nghiệp kinh doanh
các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ thì chỉ có một phòng pháp chế với số
lượng luật sư hạn chế (trên thực tế thường chỉ từ 1-3 luật sư và trợ lý luật sư kể cả
các doanh nghiệp sản xuất lớn như Pepsico, Coca-cola).
Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động của TCHNLS là dịch vụ pháp lý, dẫn đến đa
dạng về công việc như tư vấn pháp luật, tham giá tố tụng, đại diện ngoài tố tụng
trong hầu hết các lĩnh vực trong xã hội, giúp luật sư nâng cao chuyên môn của mình
dễ dàng và nhanh chóng hơn. Trong khi các cơ quan, tổ chức mà luật sư hành nghề
với tư cách cá nhân thì công việc của luật sư sẽ giới hạn trong ngành nghề kinh

doanh, hoạt động của cơ quan, tổ chức đó, như luật sư làm việc trong ngân hàng thì
chỉ tập trung vào pháp luật ngân hàng là chủ yếu, luật sư làm việc trong doanh


13

nghiệp sản xuất cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của doanh
nghiệp mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ưu điểm của luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân sẽ hiểu bản chất, việc áp dụng pháp luật thực tế trong lĩnh vực mà cơ quan, tổ
chức của mình hoạt động.
Như vậy, mỗi hình thức hành nghề đều có những đặc trưng, ưu và nhược điểm
riêng, tùy theo nhu cầu của mình mà luật sư cân nhắc lựa chọn. Tuy nhiên, cần lưu
ý, một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một TCHNLS và phải đáp
ứng yêu cầu là phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng
lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo
hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức7; luật sư lựa chọn hành nghề với tư cách cá
nhân tức là làm việc theo hợp đồng lao động với các cơ quan, tổ chức không phải là
TCHNLS, thì không được quyền cung cấp dịch vụ pháp lý cho các tổ chức, cá nhân
ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động trừ trường hợp được cơ quan
nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng và thực hiện TGPL theo sự phân công của Đoàn luật sư mà
luật sư là thành viên8.
Về tổ chức hành nghề luật sư (TCHNLS):
Không có định nghĩa cụ thể cho TCHNLS mà LLS 2012 chỉ liệt kê các loại
hình TCHNLS, cụ thể theo Điều 32 LLS 2012 thì: TCHNLS bao gồm: “a) Văn
phòng luật sư; b) Công ty luật”. TCHNLS đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa
phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc Công ty
luật là thành viên. Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một
TCHNLS. Trong trường hợp Luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia
thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa

phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên.
Luật sư có thể tự mình hoặc cùng với các Luật sư khác thành lập TCHNLS
theo một trong các hình thức sau:

7
8

Khoản 4, Điều 32 LLS 2012.
Điều 49 LLS 2012.


14

- Văn phòng Luật sư: Do một luật sư thành lập, được tổ chức và hoạt động
theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.
- Công ty luật:
o Công ty luật hợp danh: Do ít nhất hai Luật sư thành lập và không có
thành viên góp vốn.
o Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Do một luật sư
thành lập và làm chủ sở hữu.
o Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Do ít nhất hai
luật sư thành lập và làm chủ sở hữu.
Trên cơ sở các quy định chung về luật sư, nghề luật sư, hành nghề luật sư có
thể khái quát về TCHNLS như sau: TCHNLS là loại hình tổ chức nghề nghiệp của
luật sư, bao gồm văn phòng luật sư và công ty luật, được đăng ký hoạt động theo
quy định của pháp luật tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà trưởng
văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên hoặc nơi có trụ sở công
ty trong trường hợp công ty luật do luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng
tham gia thành lập. TCHNLS tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật luật sư,
Luật doanh nghiệp và các ngành luật khác có liên quan.

1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của văn phòng luật sư
Mặc dù thuật ngữ “Văn phòng luật sư” ở Việt Nam đã được biết đến và sử
dụng từ khá lâu, song khái niệm văn phòng luật sư (VPLS) vẫn chưa được quy định
cụ thể. Trong các văn bản pháp luật chuyên ngành của Việt Nam các thời kỳ đã tồn
tại những cách hiểu khác nhau về VPLS.
Quy định về VPLS trong Pháp lệnh luật sư 2001:
Khái niệm VPLS được xuất hiện chính thức lần đầu tiên trong Pháp lệnh luật
sư năm 2001, VPLS là một trong hai hình thức hành nghề luật sư (cùng với công ty
luật hợp danh), theo đó, VPLS có thể do một hoặc một số luật sư thành lập. VPLS
nếu do một luật sư thành lập thì luật sư đó là Trưởng văn phòng và phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. VPLS nếu do
một số luật sư thành lập thì các luật sư thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới


15

bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Các luật sư thành
viên thỏa thuận cử một luật sư làm Trưởng văn phòng, Trưởng văn phòng là người
đại diện theo pháp luật của văn phòng, văn phòng luật sư được thực hiện dịch vụ
pháp lý: (i) dịch vụ trong lĩnh vực tham gia tố tụng; (ii) Dịch vụ tư vấn pháp luật;
(iii) Dịch vụ pháp lý khác. VPLS có con dấu riêng theo quy định của Chính phủ9.
Thông qua cách diễn đạt liệt kê như trên, Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho
chúng ta cách hiểu VPLS là một chủ thể có chức năng cung ứng các dịch vụ pháp lý
mà chưa có sự phân biệt, tách bạch với những chủ thể cũng có chức năng cung cấp
dịch vụ pháp lý khác chẳng hạn như Văn phòng công chứng; Văn phòng thừa phát
lại; Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước; v.v…
Quy định về VPLS trong Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 (gọi
chung là LLS 2012):
VPLS được quy định tại Điều 33 LLS 2012: “Văn phòng luật sư do một luật
sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật

sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là
người đại diện theo pháp luật của văn phòng. Văn phòng luật sư có con dấu, tài
khoản theo quy định của pháp luật”. Dựa theo định nghĩa này, nghiên cứu thêm các
quy định về VPLS theo LLS 2012, quy định về doanh nghiệp theo LDN 2014 có thể
thấy VPLS mang những đặc điểm của một TCHNLS, cụ thể:
Thứ nhất, VPLS do một luật sư thành lập. Chủ thể thành lập VPLS phải là luật
sư, đáp ứng các quy định về năng lực hành vi dân sự, về trình độ năng lực, phẩm
chất, đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra phải đáp ứng điều kiện luật sư thành lập hoặc
tham gia thành lập TCHNLS phải có ít nhất 02 (hai) năm hành nghề liên tục10, tức
là các luật sư tuy đã gia nhập đoàn luật sư và hoạt động hành nghề nhưng chưa đủ 2
năm hoặc đủ 2 năm nhưng có những khoảng thời gian gián đoạn hoạt động thì sẽ
không đủ điều kiện để đứng ra thành lập hoặc tham gia thành lập VPLS. Sự tham

9

Điều 18, Pháp lệnh luật sư 2001.
Điều 32 LLS 2012.

10


16

gia của luật sư là điều kiện bắt buộc đối với việc thành lập VPLS hoặc Công ty luật
cho dù số lượng luật sư tối thiểu có thể có sự khác nhau tùy vào từng loại hình
VPLS và công ty luật (VPLS do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu; Công ty
luật hợp danh phải do ít nhất hai luật sư tham gia thành lập; Công ty luật TNHH hai
thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập; Công ty luật TNHH một thành
viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu).

Thứ hai, VPLS cũng như các TCHNLS khác đều không lấy điểm xuất phát là
vốn, trong LLS 2012 không quy định về vốn điều lệ và/hoặc vốn đầu tư đối với
VPLS (và cả với Công ty luật). VPLS hoạt động không dựa vào vốn mà dựa vào
kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề của luật sư trong văn phòng, uy tín của
VPLS đó. Trong khi đó, DNTN nói riêng và các loại hình doanh nghiệp khác nói
chung đều rất quan trọng yếu tố vốn đầu tư, thậm chí có một số ngành nghề kinh
doanh có điều kiện còn đưa ra quy định về vốn pháp định khi thành lập như Kinh
doanh bất động sản, Ngân hàng, Dịch vụ bảo vệ, Dịch vụ đòi nợ thuê (Dịch vụ đòi
nợ thuê đã chính thức bị nghiêm cấm sau khi Quốc hội thông qua dự thảo luật Đầu
tư (sửa đổi) vào ngày 17/6/2020).
Thứ ba, VPLS cũng như các TCHNLS khác, đăng ký hoạt động tại Sở Tư
pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn
phòng luật sư là thành viên11. Đối với DNTN hay các loại hình doanh nghiệp, tổ
chức khác ngoài ngành luật thì việc đăng ký kinh doanh, đăng ký hoạt động thực
hiện tại Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của VPLS là rất hạn chế và mang tính
“đặc thù” mà các chủ thể khác không phải là luật sư thì không thể đăng ký hoạt
động được. Trong khi đó với DNTN và các loại hình doanh nghiệp khác, LDN 2014
quy định ngành nghề đăng ký kinh doanh khá rộng và có thể có ngành nghề kinh
doanh có điều kiện hoặc không điều kiện.
Bên cạnh các đặc điểm chung của một TCHNLS nêu trên thì VPLS có các đặc
điểm của loại hình DNTN. Bởi lẽ, VPLS được LLS 2012 quy định hoạt động theo
11

Điều 35 LLS 2012.


17

loại hình DNTN, do đó VPLS còn mang các đặc điểm của loại hình doanh nghiệp

này. Quy định “Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng.
Trưởng văn phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng” cũng tương ứng
với quy định về DNTN tại Điều 183, LDN 2014 “Là doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp”, có thể nói VPLS là một DNTN mang nhiều “bản sắc” nghề luật với
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ. Đối với DNTN thì
chủ doanh nghiệp là một công dân bình thường hoặc một doanh nhân, chủ VPLS thì
cá nhân đó phải là một luật sư. Luật sư thành lập vừa là chủ sở hữu văn phòng vừa
là người trực tiếp quản lý và điều hành mọi hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng.
Thứ hai, đăng ký hoạt động theo loại hình DNTN. VPLS không có tư cách
pháp nhân do không hội đủ điều kiện về pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ
luật dân sự 2015. Ở VPLS không có sự tách biệt giữa tài sản riêng của chủ sở hữu,
tức Luật sư trưởng văn phòng và tài sản riêng của VPLS đó thông qua quy định
“Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng”, Luật sư
trưởng văn phòng phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của VPLS phát sinh trong quá trình hoạt động. Trường hợp tài sản của
VPLS không đủ thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác thì Luật sư
trưởng văn phòng phải dùng đến các tài sản riêng của mình để chịu trách nhiệm (dù
các tài sản đó không liên quan đến hoạt động của VPLS).
Thứ ba, vì không có tư cách pháp nhân, do đó, cũng như các DNTN khác việc
tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự của VPLS không thể thực hiện bằng
danh nghĩa của DNTN - VPLS mà phải trên danh nghĩa của chủ doanh nghiệp, tức
là Trưởng VPLS. Trưởng VPLS phải là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc



×