Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.92 KB, 34 trang )

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I.SỰ CẦN THIẾT CỦA KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1.Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản
xuất TSCĐ cho nền kinh tế quốc dân, tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội,
tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước.
Theo thống kê hàng năm cho thấy ngành XDCB tạo ra một khối lượng
sản phẩm chiếm khoảng 30% tổng số sản phẩm quốc dân và tương đương với
khối lượng sản phẩm đó, ngành xây dựng cơ bản cũng xấp xỉ 30% tổng số vốn
đầu tư phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngành xây dựng cơ bản giữ một vị thế
hết sức quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện đất nước ta
đang CNH-HĐH đất nước.
1.2.Đặc điểm của sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết cấu
phức tạp, mang tính chất đơn chiếc và thời gian thi công kéo dài, quá trình thi
công chia làm nhiều giai đoạn. Vì vậy, yêu cầu về tổ chức quản lý, tổ chức thi
công và giải pháp thi công phải phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ
thể. Đồng thời phải xây dựng được dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công)
riêng cho mỗi công trình. Trong quá trình thi công phải so sánh, phân tích với
dự toán, lấy dự toán làm thước đo, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự
toán(giá thanh toán với bên chủ đấu tư) hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư
(giá thoả thuận này cũng phải được xác định trên dự toán công trình).
Sản phẩm xây lắp mang tính chất cố định, nơi sản xuất đồng thời là nơi
sử dụng sản phẩm và địa điểm xây dựng luôn thay đổi theo địa bàn thi công.
Nên các điều kiện sản xuất: Lao động, máy móc thiết bị…luôn phải di chuyển
theo công trình sẽ làm ảnh hưởng đến công tác tổ sản xuất và công tác hạch
toán tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn sẽ trở nên phức tạp hơn đặc biệt là máy
thi công, vật tư luân chuyển tham gia vào nhiều công trình trong một kỳ hạch
toán.


Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối dài nên mọi sai sót trong
quá trình thi công thường khó sửa chữa, phải phá đi làm lại. Do đó trong quá
trình thi công phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất lượng công
trình.
Hoạt động xây lắp diễn ra ngoài trời chịu tác động trực tiếp của điều
kiện tự nhiên và do đó việc thi công xây lắp ở một mức độ nào đó mang tính
thời vụ. Vì vậy quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao động, vật tư chặt chẽ,
đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ trong điều kiện thời tiết thuận lợi.
Sản phẩm xây lắp không nhập kho sau quá trình sản xuất mà tiêu thụ
ngay tại nơi sản xuất theo giá dự toán hoặc giá đã được thoả thuận với chủ
đầu tư từ trước hợp đồng. Vì vậy tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp
không được thể hiện rõ.
Những đặc điểm này phần nào chi phối đến công tác hạch toán trong
các doanh nghiệp xây lắp, ảnh hưởng đến phương pháp, trình tự hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, tạo ra sự khác biệt giữa hạch toán chi
phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp so với các ngành sản xuất khác.
1.3.Sự cần thiết của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Trong nền kinh tế hiện nay các doanh nghiệp nói chung cũng như doanh
nghiệp xây lắp nói riêng luôn phải cạnh tranh quyết liệt nhằm đảm bảo việc
hạch toán kinh tế có lãi, đảm bảo thu nhập cho người lao động và nghĩa vụ đối
với Ngân sách Nhà nước. Trước sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển buộc phải kinh doanh có hiệu quả, nghĩa là thu nhập phải
bù đắp chi phí để có lãi. Các doanh nhiệp xây lắp cũng không phải là một ngoại
lệ. Để trúng thầu một công trình nào đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải đưa ra một
giá dự thầu hợp lý có khả năng cạnh tranh với các đối thủ cùng tham gia đấu
thầu. Giá dự thầu của doanh nghiệp dựa trên biện pháp thi công hợp lý trong
XDCB trên cơ sở các định mức đơn giá xây dựng theo quy định của Nhà nước,
phù hợp với giá cả thị trường và khả năng của doanh nghiệp.
Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh

nghiệp xây lắp trước hết giúp cho Nhà nước quản lý và sử dụng chặt chẽ có
hiệu quả nguồn vốn đầu tư của mình. Cung cấp đầy đủ chính xác, kịp thời các
thông tin về hoạt động SXKD của doanh nghiệp cho nhà quản lý, các tài liệu kế
toán là căn cứ quan trọng để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định
mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền
vốn, tình hình thực hiện kế toán giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Qua
đó nhà quản lý kinh tế đưa ra các quyết định phù hợp nhằm tăng cường hạch
toán kế toán nội bộ doanh nghiệp.
1.4.Yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản
và quan trọng mà dựa vào đó có thể đưa ra các quyết định chính xác về hoạt
động SXKD. Nên nhiệm vụ đặt ra cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành là:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm phù hợp với tổ chức sản xuất ở doanh nghiệp.
- Phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí sản xuất thực tế
phát sinh trong kỳ.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, công nhân,
sử dụng máy móc, thiết bị thi công, các dự toán về chi phí khác. Phát hiện kịp
thời các khoản chênh lệch so với định mức, dự toán về các khoản thiệt hại, mất
mát hư hỏng trong sản xuất để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán kịp thời, chính xác giá thành sản phẩm xây lắp, các sản phẩm
và lao vụ hoàn thành khác của doanh nghiệp.
- Kiểm tra thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp theo từng
công trình, HMCT, đưa ra khả năng và biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý
có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công
trình xây lắp hoàn thành, định kỳ tiến hành bàn giao, kiểm kê và đánh giá khối
lượng thi công dở dang theo quy định.

- Đánh giá kết quả hoạt động SXKD một cách đúng đắn ở từng công
trình, HMCT, tổ đội thi công... trong từng thời kỳ nhất định. Kịp thời lập báo cáo
về chi phí sản xuất và tính giá thành công tác xây lắp, cung cấp kịp thời, chính
xác các thông tin cần thiết về chi phí sản xuất và tính giá thành phục vụ cho yêu
cầu quản lý của doanh nghiệp.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM XÂY LẮP.
2.1. bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất kinh doanh và giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
2.1.Bản chất chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Để tiến hành hoạt động SXKD hay thực hiện các công việc tham quan,
khảo sát nào đó, các doanh nghiệp nói chung thường xuyên phải bỏ ra các
khoản chi phí như sử dụng nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền
lương công nhân sản xuất, dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác…để có thể
biết được số chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ hoạt động nhằm tổng
hợp, tính toán các chỉ tiêu kinh tế phục vụ theo yêu cầu quản lý thì mọi chi phí
này được thể hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu
dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực
chất là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị của yếu tố sản xuất vào đối
tượng tính giá.
Đối với chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp cũng được biểu hiện
như trên, nhưng giá trị của sản phẩm xây lắp thể hiện rõ hơn theo công thức
sau:
Gxl = C + V + m
Trong đó:
- Gxl là giá trị sản phẩm xây lắp
- C là toàn bộ giá trị tư liệu xuất tiêu hao trong quá trình tạo ra sản
phẩm xây lắp cụ thể như khấu hao TSCĐ, chi phí NVL….
- V là chi phí tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia
quá trình xây dựng.

- m là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình xây lắp.
2.1.2. Giá thành sản phẩm xây lắp.
Đối với bất cứ một doanh nghiệp SXKD nào, muốn tạo ra một sản phẩm
doanh nghiệp phải bỏ ra một chi phí nhất định. Trong doanh nghiệp xây lắp, để
có một sản phẩm xây lắp hoàn thành, doanh nghiệp phải đầu tư một khoản chi
phí khá lớn trong quá trình thi công công trình.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất tính cho từng
công trình, HMCT, hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn quy ước
hoàn thành nghiệm thu, bàn giao được chấp nhận thanh toán.
Trong doanh nghiệp xây lắp, giá thành sản phẩm mang tính chất cá biệt.
Tính cá biệt này thể hiện trước hết là mỗi công trình, HMCT sau khi hoàn thành
đều có một giá riêng. Mặt khác sản phẩm xây lắp được xác định giá bán trước
khi sản phẩm hoàn thành bởi do đặc tính ngành xây dựng là để thi công một
công trình doanh nghiệp cần phải tham gia đấu thầu và phải đưa ra một giá
nhận thầu phù hợp . Do đó giá thành thực tế của một công trình hoàn thành
quyết định đến lỗ lãi của doanh nghiệp.
Trong SXKD chỉ tiêu giá thành đặc trưng hạn mức chi phí cho thi công
công trình. Nếu như khối lượng sản phấm xây lắp biểu thị kết quả về mặt
lượng của sản xuất xây lắp thì giá thành sản phẩm xây lắp biểu thị chất lượng
quá trình sử dụng nguồn vật tư, lao động và tiền vốn của doanh nghiệp xây
dựng trong quá trình sản xuất thi công.
Thực tế hiện nay, để đa dạng hoá hoạt động SXKD, được sự cho phép của
Nhà nước, một số doanh nghiệp đã chủ động xây dựng các công trình dân dụng
như: Nhà ở, văn phòng, cửa hàng…sau đó bán lại cho các đối tượng có nhu cầu
xử dụng với giá cả phù hợp thì giá thành sản phẩm xây lắp cũng là một yếu tố
quan trọng để xác định giá bán.
2.1.3.Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện mặt hao

phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Chi phí sản
Giá thành sản phẩm hoàn thànhGiá trị sản phẩm dở dang đầu kỳChi phí phát sinh trong kỳGiá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ=
-
+
xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt thống nhất của một quá trình. Như vậy
xét về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm giống
nhau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là hao phí về lao động sống,
lao động vật hoá và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã chi ra để thực hiện
thi công xây lắp hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ biểu thị bằng tiền.
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác
biệt ở một số phương diện sau:
Chi phí sản xuất là chi phí chi ra trong một khoảng thời gian nhất định
vừa liên quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành, vừa liên quan đến
khối lượng sản phẩm xây lắp chưa hoàn thành.
Còn giá thành sản phẩm là chi phí chi ra tính cho khối lượng sản phẩm
xây lắp đã hoàn thành bao gồm cả chi phí sản xuất của kỳ này và chi phí sản
xuất của kỳ trước nằm trong giá trị sản phẩm xây lắp làm dở đầu kỳ.
Sự khác nhau này được biểu hiện thông qua công thức:
2.2.Phân loại chi phí và giá thành sản phẩm.
2.2.1.Phân loại chi phí sản xuất.
Trong doanh nghiệp SXKD nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng,
chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế và công dụng khác
nhau nên yêu cầu quản ý đối với từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý
chi phí không chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn
phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt nhằm phục vụ
cho yêu cầu kiểm tra và phân tích chi phí phát sinh theo từng công trình,
HMCT(đối với doanh nghiệp xây lắp). Do đó phân loại chi phí sản xuất là một
yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp.
Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không

những có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm mà còn là cơ sở cho việc kiểm tra, phân tích chi phí
sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, phát huy hơn nữa vai trò của kế toán đối với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
Trong doanh nghiệp xây lắp, việc phân loại chi phí theo những tiêu thức
sau:
2.2.1.1.Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi
phí(phân loại theo yếu tố).
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành các yếu tố chi
phí:
- Chi phí NL, VL: Bao gồm toàn bộ các chi phí về NL, VL chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh
nghiệp đã xử dụng cho các hoạt động sản xuất trong kỳ.
- Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ chi phí tiền lương, tiền công, phụ
cấp và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp và của nhân
viên quản lý phân xưởng, bộ phận sản xuất.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp
đã chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài như: Tiền điện, tiền nước….
phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm toàn bộ chi phí khác dùng cho hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp ngoài các yếu tố chi phí đã kể trên.
Tác dụng:
Thông qua cách phân loại chi phí này cho phép ta biết được trong quá
trình sản xuất doanh nghiệp cần phải chi ra những chi phí gì và cơ cấu, tỷ
trọng của từng yếu tố chi phí trong tổng chi phí như thế nào. Cách phân loại
này là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất nói riêng và chi phí sản xuất
kinh doanh nói chung theo từng yếu tố chi phí để phục vụ cho việc lập báo cáo
chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố.
Đồng thời thông qua cách phân loại này, việc tập hợp chi phí sản xuất

theo yếu tố là cơ sở để xây dựng dự toán chi phí cho kỳ tiếp theo và là cơ sở để
lập kế hoạch về lao động, vật tư, tiền vốn… cho kỳ tiếp theo.
2.2.1.2.Phân loại theo mục đích, công dụng của chi phí (theo khoản mục chi chí
giá thành sản phẩm).
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí
trong sản xuất để chia thành các khoản mục chi phí khác nhau. Những chi phí
có chung mục đích, công dụng được xếp chung vào một khoản mục chi phí ,
không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Do vậy, cách phân
biệt loại này còn được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục.
Trong doanh nghiệp xây lắp, toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được chia
thành các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí NL, VL trực tiếp: Là chi phí của các vật liệu chính (cát, sỏi, đá,
ximăng…), vật kết cấu, vật liệu phụ, vật liệu luân chuyển (ván khuân, dàn
giáo…), bán thành phẩm…cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền công, phụ cấp của
công nhân trực tiếp xây lắp kể cả công nhân phụ…Chi phí nhân công trực tiếp
không bao gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định tính trên
tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp. Khoản này được tính vào
chi phí sản xuất chung.
- Chi phí sử dụng máy thi công: Là chi phí sử dụng máy thi công để hoàn
thành sản phẩm xây lắp (đối với doanh nghiệp xây lắp thực hiện thi công hỗn
hợp). Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm: Chi phí nhân công, chi phí vật liệu,
chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao máy thi công, chi phí dịch vụ mua
ngoài, chi phí bằng tiền khác.
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất
chung ở các đội (phân xưởng) sản xuất và các chi phí ngoài chi phí nguyên liệu,
vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí sản xuất chung bao
gồm: Chi phí nhân viên phân xưởng (đội xây dựng), chi phí vật liệu, chi phí
dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí
bằng tiền khác.

Tác dụng:
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí là cơ sở
để tập hợp chi phí sản xuất theo từng khoản mục chi phí làm căn cứ để tính giá
thành sản phẩm xây lắp theo khoản mục. Đồng thời cũng là cơ sở để kiểm tra
tình hình thực hiện định mức chi phí và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành và kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
Ngoài các phân loại nêu trên, chi phí sản xuất còn được phân loại theo
các cách khác nhau thường sử dụng trong kế toán quản trị như:
- Phân loại theo mối quan hệ và khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng kế toán chi phí thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Phân loại chi phí theo nội dung cấu thành của chi phí thành chi phí đơn
nhất và chi phí tổng hợp.
- Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí và khối lượng hoạt
động thành định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp.
Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trìnhGiá trị dự toáncông trình, hạng mụccông trình sau thuếThu nhập chịu thuế ước tínhThuế GTGT đầu ra
= -
-
Giá thành kế hoạch Giá thành dự toán Mức hạ giá thành
= -
- Phân loại căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với quy trình công nghệ
sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh thành chi phí cơ bản và chi phí
chung….
2.2.2.Phân loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc
độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.
2.2.2.1.Phân loại căn cứ vào cơ sở số liệu và thời gian tính giá thành.
Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia thành các
loại:
- Giá thành dự toán: Là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng

xây lắp công trình.
Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức, quy định của
Nhà nước và khung giá quy định áp dụng theo từng vùng lãnh thổ.
- Giá thành dự toán xây dựng và tồn tại trong những điều kiện trung
bình về sản xuất thi công, về tổ chức quản lý, về hao phí lao động vật tư….cho
từng công trình hoặc công việc nhất định. Giá thành dự toán có tính cố định
tương đối và mang tính chất xã hội.
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xây dựng trên cơ sở những điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, biện pháp thi công
trong một kỳ kế hoạch nhất định.
Giá thành kế hoạch là một chỉ tiêu để các doanh nghiệp xây lắp tự phấn
đấu để thực hiện mức lợi nhuận do hạ giá thành trong kỳ kế hoạch.
- Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn
thành bàn giao khối lượng mà doanh nghiệp đã nhận thầu.
Giá thành thực tế bao gồm các chi phí theo định mức, vượt định mức và
không trong định mức như các khoản thiệt hại trong sản xuất, các khoản bội
chi, lãng phí về vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất và quản lý
của doanh nghiệp được phép tính vào giá thành. Giá thành thực tế biểu hiện
chất lượng, hiệu quả về kết quả hoạt dộng của doanh nghiệp xây lắp.
Giá thành thực tế được xác định theo số liệu kế toán về chi phí sản xuất
đã tập hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện được trong kỳ.
So sánh các loại giá thành trên với nhau, ta sẽ đánh giá được chất lượng
sản xuất thi công và công tác quản lý chi phí, quản lý giá thành của doanh
nghiệp xây lắp . Về nguyên tắc phải đảm bảo:
Giá thành dự toán ≥ giá thành kế hoạch ≥ giá thành thực tế
2.2.2.2.Phân loại căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành giá thành.
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành
hai loại:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Bao gồm các chi phí sản
xuất như: Chi phí nguyên vật liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp

chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung tính cho công trình,
HMCT hoặc lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp được sử dụng để ghi sổ cho sản
phẩm đã hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp là căn cứ để xác
định giá vốn hàng bán và lợi nhuận ở các doanh nghiệp xây lắp.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp: Bao gồm giá thành sản xuất
cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm
đó.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp chỉ được tính toán xác định khi
sản phẩm xây lắp hoặc lao vụ được tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm
xây lắp là căn cứ để xác định lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
III.KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT Ở DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TRONG ĐIỀU
KIỆN SỬ DỤNG KẾ TOÁN MÁY.
3.1.Một số vấn đề chung về kế toán máy.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu quản lý đòi hỏi cung cấp thông minh,
nhanh chóng hơn, kịp thời hơn, chính xác hơn vào những thời diểm khác nhau
mà kế toán thủ công không thể đáp ứng được, đa số các doanh nghiệp đều áp
dụng phần mềm kế toán trong đó có các doanh nghiệp xây lắp.
Các phần mềm mà các doanh nghiệp hay áp dụng như; AC Soft, AF 5,
Fast, Kế toán Unesco, Misa, Newacc…Dù áp dụng phần mềm kế toán nào thì các
doanh nghiệp đều phải thực hiện các công việc sau:
- Tổ chức mã hoá các đối tượng quản lý:
+ Phải xác định được đối tượng cần mã hoá.
+ Lựa chọn phương pháp mã hoá.
+ Triển khai mã hoá cho từng đối tượng quản lý theo phương pháp mã
hoá đã chọn.
- Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán:
+ Xác định và xây dựng hệ thống danh mục chứng từ trên máy để quản lý
các loại chứng từ, mỗi loại chứng từ mang một mã hiệu xác định.
+ Tổ chức luân chuyển, xử lý, lưu trữ và bảo quản chứng từ tuỳ theo sự

phân công, phân nhiệm trong bộ máy kế toán.

×