Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 167 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Văn Khánh. Các kết quả nghiên cứu có tính
độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung
này ở bất kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn
trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài
liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 02 năm 2020
TÁC GIẢ

Phạm Đình Hiệp

i


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt

Giải nghĩa

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CP

Chính phủ

HĐND


Hội đồng nhân dân

LĐVCTVN

Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam

PVHTT

Phòng Văn hóa - Thông tin

TDTT

Thể dục thể thao

UBND

Uỷ ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc

VĐV

Vận động viên

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch


VHTT-TT

Văn hóa Thông tin - Thể thao

NNƯT

Nghệ nhân ưu tú

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Bảng 1.1.

Tên bảng
Thống kê số lượng địa phương và nghệ nhân Bài
chòi tỉnh Phú Yên năm 2012

Trang
33

Số lượng biên chế đội ngũ cán bộ, công chức
Bảng 2.1

ngành Văn hóa thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và

Phụ lục 1

Du lịch năm 2016

Bảng 2.2

Danh mục các dự án đầu tư cho hoạt động bảo
tồn và phát triển Võ cổ truyền Bình Định giai

Phụ lục 2

đoạn 2016-2017
Danh mục các dự án đầu tư cho hoạt động bảo
Bảng 2.3.

tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi, Hát Bội
Bình Định giai đoạn 2010-2016

iii

Phụ lục 3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 8
6. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 9
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................... 9
Chương 1: LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ............................................................................................... 10
1.1. Di sản văn hóa phi vật thể ..................................................................... 10
1.1.1. Một số khái niệm liên quan .............................................................. 10
1.1.2. Đặc trưng của di sản văn hóa phi vật thể ......................................... 13
1.1.3. Phân loại di sản văn hóa phi vật thể................................................. 15
1.2. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể .................................. 15
1.2.1. Khái niệm .......................................................................................... 15
1.2.2. Đặc trưng của quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể ........ 18
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể ................. 20
1.2.4. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể .... 31
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong công tác quản lý nhà nước
iv


về di sản văn hóa phi vật thể .......................................................................... 33
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Phú Yên.......................................................... 33
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Khánh Hòa .................................................... 37
1.3.3. Giá trị tham khảo rút ra cho tỉnh Bình Định .................................... 39
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 41
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH
ĐỊNH .............................................................................................................. 42
2.1. Khái quát về tỉnh Bình Định và Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn
tỉnh Bình Định................................................................................................ 42
2.1.1. Khái quát về tỉnh Bình Định ............................................................. 42

2.1.2. Khái quát về các Di sản văn hóa phi vật thể ở Bình Định ............... 45
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc
gia trên địa bàn Bình Định ............................................................................ 61
2.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại
Bình Định ........................................................................................................ 61
2.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
bảo tồn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định 64
2.2.3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo tồn và phát triển di sản văn hóa
phi vật thể; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ................................................................. 66
2.2.4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo tồn và phát triển di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ....................................... 76
2.2.5. Tổ chức, chỉ đạo vinh danh khen thưởng trong việc bảo tồn và phát
triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định .......................... 84
2.2.6. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo tồn và phát triển di sản
v


văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ............................................. 87
2.3. Đánh giá chung ...................................................................................... 90
2.3.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân ............................................... 90
2.3.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân ................................................. 94
2.3.3. Cơ hội và thách thức ......................................................................... 99
Tiểu kết chương 2......................................................................................... 104
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BÌNH ĐỊNH ................................................................................................. 105
3.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng ....................................................... 105
3.1.1. Mục tiêu ........................................................................................... 105

3.1.2. Quan điểm ....................................................................................... 106
3.1.3. Định hướng ..................................................................................... 107
3.2. Các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
cấp quốc gia tại Bình Định .......................................................................... 108
3.2.1. Tiếp tục xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
các văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ............................................................... 108
3.2.2. Tích cực tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo tồn và phát triển di sản
văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ........................................... 109
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn và phát triển di sản
văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ........................................... 113
3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ
thông tin vào các hoạt động quản lý di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
tại Bình Định ................................................................................................. 116
3.2.5. Huy động và sử dụng hợp lý ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội
hóa về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia trên địa
vi


bàn tỉnh Bình Định ........................................................................................ 117
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế về bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình Định ..... 119
3.2.7. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong bảo tồn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Bình
Định ............................................................................................................... 126
Tiểu kết chương 3......................................................................................... 130
KẾT LUẬN .................................................................................................. 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 134
PHỤ LỤC


vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Luật Di sản văn hoá được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, khoá X kỳ họp thứ 9
thông qua khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [39].
Không thể phủ nhận, những năm qua, công tác quản lý nhà nước về di
sản văn hóa ở nước ta trên các lĩnh vực: di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh; di vật, cổ vật, bảo vật Quốc gia; bảo tàng, di sản văn hóa phi vật
thể… đã có nhiều thành tích đáng ghi nhận. Công tác quản lý nhà nước về di
sản văn hóa đã và đang ngày càng được hoàn thiện với 01 Luật; 01 Luật sửa
đổi, bổ sung; 8 Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật; 16
Thông tư và 4 Quyết định ban hành Quy chế, Quy định, Định mức điều chỉnh
các hoạt động liên quan về di sản văn hóa. Đây là kim chỉ nam quan trọng
trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Công tác
lập hồ sơ xếp hạng, ghi danh di sản văn hóa tiêu biểu của Việt Nam đã đạt
được nhiều kết quả tích cực cả ở trong nước và quốc tế; nhiều di sản văn hóa
ở Việt Nam bên cạnh việc bảo vệ, giữ gìn di sản quý giá của cha ông để lại
còn đã và đang trở thành nguồn lực thực sự cho sự phát triển kinh tế xã hội…
Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay,
việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta đang
đứng trước những thách thức mới. Để giữ vững và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc Việt Nam, không đánh mất mình trong một thế giới luôn biến động
khó lường, để hội nhập mà không hòa tan; Đảng và Nhà nước cần quan tâm
và chăm lo phát triển văn hóa hơn nữa, coi văn hóa là một mặt trận quan trọng

1


trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng của đất nước ta, của nhân dân ta.
Là một mảnh đất giàu tiềm năng về di sản văn hoá, Bình Định được ví
như là “cái nôi” của rất nhiều loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống. Đến
nay, đã có ba di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia được công nhận gồm:
Võ cổ truyền Bình Định, Bài Chòi và Hát Bội (tuồng). Điều đó có ý nghĩa vô
cùng to lớn trong đời sống văn hóa, tinh thần và sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Tuy nhiên, dù tiềm năng là rất lớn, song thực tế hiện nay, cùng với
sự phát triển của xã hội hiện đại, quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội
nhập văn hóa; sự thay đổi khá nhiều về quan điểm sống và cách thưởng thức
văn hóa, nghệ thuật của một bộ phận không nhỏ người dân, đặc biệt là giới
trẻ, thì ba di sản văn hóa này cũng đang dần bị mai một ngay trên mảnh đất
mà nó được sinh ra. Thực tế đó đặt ra thách thức rất lớn đối với các cơ quan
quản lý nhà nước về văn hóa của tỉnh Bình Định trong việc bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa.
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý nhà nước về di sản văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia ở tỉnh Bình Định đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng: xây dựng được Đề án bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể
nghệ thuật Bài Chòi dân gian trên địa bàn tỉnh với mục tiêu đến năm 2020; Đề
án bảo tồn và phát triển các lò Võ cổ truyền đến năm 2015; công tác tổ chức,
quản lý hoạt động bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa khá chặt chẽ; đội
ngũ cán bộ, công chức được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ; công tác tuyên truyền, quảng bá, phổ biến, giáo dục về vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa ở tỉnh Bình Định được quan tâm đúng mức;…
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia ở tỉnh Bình Định trong những năm vừa qua cũng còn một số hạn
chế: việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn

2


và phát huy giá trị di sản văn hóa còn lúng túng, chậm trễ; sự phối hợp giữa
các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ, nhịp
nhàng; quá trình thực thi công việc của một số cán bộ, công chức còn mang
tính rập khuôn, chưa năng động, sáng tạo; đầu tư cho hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa chưa tương xứng, chưa hợp lý, hiệu quả;…
Xuất phát từ thực trạng đó, cần thiết phải đổi mới quản lý nhà nước về
di sản văn hóa phi vật thể ở Bình Định đặc biệt là 3 di sản văn hóa phi vật thể
cấp quốc gia - Võ cổ truyền, Bài Chòi, Hát Bội để một mặt, quảng bá, giới
thiệu văn hóa, nghệ thuật của tỉnh Bình Định với bạn bè trong nước và quốc
tế, mặt khác thu hút đầu tư để phát triển kinh tế du lịch của tỉnh nhà; giáo dục
người dân về tình yêu quê hương, yêu nghệ thuật dân tộc, truyền thống văn
hóa dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần xây dựng thành công nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Với tất cả những lý do nêu trên, “Quản lý nhà nước về di sản văn hóa
phi vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định” là đề tài nghiên cứu có
tính lý luận và thực tiễn cấp thiết để học viên thực hiện luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý công.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa dân tộc, đặc biệt là các di sản văn hóa phi vật thể ngày càng thu
hút được sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà
khoa học. Nghiên cứu về lĩnh vực này, có thể khái quát thành 4 nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa, di sản văn hóa:
Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương. Tác phẩm khẳng
định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, “Ta muốn trở thành một nước
cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ gìn văn hóa cũ (di sản)
làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hóa mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều

3


hòa tinh túy của văn hóa phương đông với những điều sở trường về khoa học
của văn hóa phương tây”.
Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn
hóa dân tộc, tác phẩm trình bày hệ thống lý luận về di sản văn hóa, đồng thời
bước đầu vận dụng nghiên cứu di sản văn hóa nước ta.
Nguyễn Chí Bền (2011), Văn hóa truyền thống và văn hóa dân gian
Việt Nam, tác phẩm đã cung cấp cho độc giả một đường dẫn quan trọng để
luận giải về văn hóa truyền thống của Việt Nam, lý giải được sinh hoạt xã hội
đương đại của Việt Nam… Việt Nam trong phương diện lịch sử đã có nhiều
ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng là một quốc gia
đa dân tộc có lịch sử lâu đời, văn hóa truyền thống của các dân tộc vẫn tạo
nên ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống xã hội, tâm lý quốc dân, hình thái
văn hóa đất nước.
Trương Quốc Bình (2014), Bảo vệ & phát huy giá trị di sản văn hóa
Việt Nam, tác phẩm đã tập hợp chọn lọc các bài viết đã được đăng tải, các
tham luận tại các Hội thảo khoa học. Sách gồm bốn phần. Phần thứ nhất: Bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam, gồm các bài về bảo vệ và phát
huy giá trị các di sản văn hóa ở Việt Nam. Phần thứ hai gồm những kiến giải
về vai trò quan yếu của các sưu tập hiện vật trong quá trình chuẩn bị xây dựng
và tổ chức hoạt động của các bảo tàng ở Việt Nam. Phần thứ ba gồm những
bài viết về việc phát huy những giá trị đặc sắc của kho tàng di sản văn hóa.
Phần cuối là tập hợp một số bài viết về những kỷ niệm trong quá trình công
tác của tác giả.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể:
Phạm Thị Thu Hà (2014), “Di sản Bài Chòi trong đời sống đương
đại”, tham luận tại Hội thảo “Nghệ thuật Bài Chòi dân gian miền Trung Việt
Nam, hiện trạng và vấn đề bảo tồn”.

4


Trần Đức Hùng, Hội Bài Chòi trong bối cảnh phát triển và hội nhập.
Lê Thoa (2017), “Hát ca trù - Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ
khẩn cấp của nhân loại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”. Đề tài đã khái quát về
loại hình nghệ thuật ca trù, phân tích thực trạng, đồng thời đề xuất các giải
pháp nhằm bảo tồn loại hình nghệ thuật này trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về
di sản văn hóa phi vật thể:
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (2009), Bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, tác phẩm trình bày những nhận thức khoa học
của các nhà khoa học trong và ngoài nước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật
thể ở Việt Nam; những văn bản pháp lý của UNESCO và Việt Nam về di sản
văn hóa phi vật thể; nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể trong Chương trình mục tiêu quốc gia.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Võ cổ truyền - di sản cần gìn
giữ; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Bảo tồn và phát triển Võ cổ
truyền Việt Nam đến năm 2020. Hai công trình này tập trung khái quát thực
trạng Võ cổ truyền Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp
nhằm bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam đến năm 2020.
Hoàng Chương (2014), “Bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật Bài
Chòi truyền thống trong đời sống hiện nay”.
Bùi Phát Diệm (2018), “Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Long An”. Đề tài đã đánh giá thực trạng,
nhận định được sức sống của từng loại hình DSVHPVT; đề xuất các giải pháp
bảo tồn, phát huy các DSVHPVT của tỉnh mà các cơ quan quản lý, chính
quyền địa phương, các ban, ngành chuyên môn của tỉnh có thể ứng dụng kết
quả khoa học này vào việc thực hiện các giải pháp phát huy và phát triển văn
hóa ở tỉnh.

5


Thứ tư, nhóm các công trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể
tại tỉnh Bình Định:
Phạm Đình Phong (2000), Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc – đặc trưng
Võ cổ truyền Bình Định. Trong công trình này tác giả tập trung nghiên cứu
nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển và một số đặc trưng của Võ cổ
truyền Bình Định.
Lê Thì (2004), Võ cổ truyền Bình Định. Công trình đã giới thiệu những
kiến thức cơ bản về lý luận và kỹ thuật của Võ cổ truyền Bình Định.
Lê Thì - Kim Đình (1996), Miền đất võ – Tuyển tập võ Tây Sơn – Bình
Định. Công trình đã sưu tầm, kế thừa và phát triển một số môn phái Võ cổ
truyền Bình Định, từ đó rút ra một số võ lý và bài võ tiêu biểu của Võ cổ
truyền Tây Sơn – Bình Định.
Phan Ngạn (2003), “Sưu tầm, nghiên cứu, phục hồi Bài Chòi dân gian
cổ truyền Bình Định”. Đề tài được Sở Khoa học và Công nghệ nghiệm thu,
gồm các sản phẩm: Một tập sách những câu hô thai của 27 con bài và một số
hình ảnh minh họa 27 con bài và 2 đĩa CD-ROM vở diễn Bài Chòi cổ.
Dương Tấn Sinh (2014), Điều tra lập Hồ sơ khoa học một số di sản văn
hóa phi vật thể tiêu biểu tỉnh Bình Định. Trong đó, đã trình bày khái quát về
nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định, sự tác động của nó và một số giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi dân gian nói riêng và hệ
thống di sản văn hóa phi vật thể nói chung trong đời sống đương đại. Kết quả
và sản phẩm của đề tài là chương trình phim tư liệu đã được biên tập gồm 8
clip, trong đó có một clip giới thiệu về di sản Bài chòi dân gian Bình Định;
hai bài báo khoa học đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Bình Định
với chủ đề: Diễn trình hội chơi Bài chòi ở Bình Định (số xuân Quý Tỵ 2013)
và Cần lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đưa vào danh mục di sản quốc
gia (số xuân Giáp Ngọ 2014).

6


Bên cạnh đó còn có một số tạp chí, sách báo, công trình nghiên cứu
khác về lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật Bài Chòi dân gian Bình
Định; về nghệ thuật biểu diễn, đặc trưng thi pháp; âm nhạc và ca hát nghệ
thuật Bài Chòi; giá trị nghệ thuật Bài Chòi; bảo tồn và phát huy nghệ thuật
Bài Chòi dân gian ở Bình Định trong cuộc sống hiện nay như: Tạp chí Văn
hóa Bình Định - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Sở VHTTDL) Bình Định,
chuyên mục Di sản Bài Chòi;…
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên đã luận giải, làm rõ một số
vấn đề như: Giới thiệu về đặc trưng, vị trí, vai trò của các di sản văn hóa của
nước ta; thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo tồn di
sản văn hóa dân tộc… Song, xét về lĩnh vực khoa học quản lý hành chính nhà
nước các công trình trên đều chưa đề cập có hệ thống và đầy đủ công tác quản
lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể nói chung, bảo tồn và phát triển di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng. Vì vậy việc lựa
chọn đề tài của tác giả là phù hợp, đảm bảo không có sự trùng lắp.
Các công trình nêu trên sẽ là nguồn tài liệu quý báu để tác giả kế thừa
và thực hiện đề tài “Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc
gia trên địa bàn tỉnh Bình Định”, đặc biệt là các kế thừa về cách tiếp cận,
phương pháp và một số tư liệu, tài liệu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định, đồng thời đề xuất các giải pháp đổi mới
quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bình Định
trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát cơ sở lý luận để hình thành khung lý thuyết quản lý nhà nước

7


về di sản văn hóa phi vật thể.
Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định trong giai đoạn 2010-2018.
Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý nhà nước di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định trong giai
đoạn tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định được thực hiện theo Luật Di sản văn hóa
2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Địa bàn tỉnh Bình Định.
Về thời gian: Các số liệu thông tin được sử dụng, phân tích trong phần
thực trạng chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2018. Tuy nhiên, để
đảm bảo tính hệ thống, luận văn có đề cập đến một số vấn đề liên quan ở giai
đoạn trước và sau thời gian trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng
Hồ Chí Minh; các chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi
vật thể.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng, kết hợp hai phương pháp
chính là phân tích, tổng hợp và phương pháp lịch sử, lôgíc. Phương pháp

8


phân tích, tổng hợp được quán triệt trong trình bày thực trạng công tác quản
lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bình Định, là cơ sở
cho việc đúc rút các nhận xét và kết luận. Phương pháp lịch sử được quán
triệt trong trình bày tiến trình phát sinh, phát triển của các di sản văn hóa gắn
với các chủ trương, chính sách, là cơ sở khoa học cho việc đúc rút các nhận
xét và kết luận. Phương pháp lôgíc được thể hiện trong trình bày từng
chương, tiết, đặc biệt là những vấn đề mang tính khái quát như đúc rút nhận
xét và tổng kết kinh nghiệm. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp khác
như phương pháp quy nạp và diễn dịch, thống kê, đánh giá, dự báo…
6. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở hệ thống hóa về lý luận và pháp lý, đề tài
đã làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về di sản văn hóa phi vật thể và
thực trạng công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
phi vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định. Đề tài có thể là tài liệu
tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, học tập hoặc những độc giả quan tâm
đến lĩnh vực quản lý nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước về bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn: Những giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể
là căn cứ khoa học có giá trị tham khảo cho các cơ quan chủ quản tiếp tục
thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết.

9



Chương 1:
LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Di sản văn hóa phi vật thể
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Văn hóa
Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt
dùng để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)…
Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm, từ tinh vi
hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động [58, tr.10].
Theo nghĩa hẹp, Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội; Văn hóa là
hệ thống các giá trị, truyền thống, lối sống; Văn hóa là năng lực sáng tạo của
một dân tộc; Văn hóa là bản sắc của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác…
Tổng Thư ký UNESCO Federico Mayor định nghĩa: "Văn hóa phản
ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của
mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra
trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị,
truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình" [2, tr.3].
Theo UNESCO, văn hóa được hiểu như là một tập hợp của những đặc
trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách
sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin [88].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết quan điểm của mình về văn hoá
thông qua nhận định sau: "Ý nghĩa của văn hoá: vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
10



viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn" [32, tr. 431].
Quan điểm trên Bác đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù
văn hoá. Theo đó, văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người mà còn cả những hoạt động vật chất, trong đó chứa đựng, phản ánh tác
động của tư duy đến kết quả của hoạt động. Đồng thời, nó cũng chỉ ra nguồn
gốc, động lực sâu xa của văn hoá - đó là nhu cầu sinh tồn của con người với
tư cách chủ thể hoạt động của đời sống xã hội - một hoạt động khác hẳn với
hoạt động mang tính bản năng, bầy đàn của các loài động vật khác. Theo ý
nghĩa này, chất văn hoá được hàm chứa, thể hiện trong mọi hoạt động, kể cả
hoạt động tinh thần lẫn hoạt động vật chất, cùng với các giá trị mà con người
sáng tạo ra trong hoạt động của mình.
Theo quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn hóa là một hệ
thống những giá trị về vật chất và tinh thần do con người tích lũy và sáng tạo
được trong quá trình cộng cư với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
mang tính bền vững và truyền thống [75, tr.9].
Theo quan điểm của tác giả: Văn hóa là một hệ thống những giá trị
mang tính nhân văn, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội do con người tích
lũy, sáng tạo ra trong sự tương tác với các yếu tố môi trường xung quanh,
trong đó nhiều giá trị, biểu hiện văn hóa riêng lẻ tập hợp thành một hệ thống
gọi là bản sắc văn hóa có liên kết chặt chẽ, bền vững và đồng bộ với nhau.
1.1.1.2. Di sản văn hóa
Theo Từ điển Tiếng Việt, di sản là cái của thời trước để lại [37, tr.254].
11



Di sản văn hóa theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hóa có giá trị của
quá khứ còn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn
lại, dịch chuyển, chuyển lại. Sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Di
sản văn hóa được hiểu bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên. Luật Di sản
văn hóa 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) định nghĩa: “Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [40, tr.1].
Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể được coi là hai bộ
phận hữu cơ cấu thành kho tàng di sản văn hóa dân tộc, luôn gắn bó mật thiết,
có tác động tương hỗ lẫn nhau, nhưng có tính độc lập tương đối. Di sản văn
hóa vật thể tồn tại dưới dạng công trình, địa điểm, di vật, cổ vật là kết tinh của
trí tuệ, tài năng của những người thợ thủ công qua nhiều thời đại, còn di sản
văn hóa phi vật thể lại là cái vô hình, tiềm ẩn trong trí nhớ và được biểu hiện
thông qua hành vi và các kỹ năng, bí quyết do nghệ nhân nắm giữ - chủ thể
sáng tạo di sản, di sản đó được lưu truyền lại bằng hình thức truyền miệng,
truyền nghề thông qua thực hành, trình diễn.
1.1.1.3. Di sản văn hóa phi vật thể
“Di sản “Văn hóa phi vật thể” (intangible culture) được hiểu là các tập
quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là các
công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các
cộng đồng, các nhóm và một số trường hợp là cá nhân công nhận là di sản văn
hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa
phi vật thể được các cộng đồng và nhóm không ngừng tái tạo để có thể thích
nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và
lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế
tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng
12



tạo của con người” [69, tr. 142].
Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 định
nghĩa: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức khác” [40, tr.1].
1.1.1.4. Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là di sản văn hóa phi vật thể được
đưa vào danh mục quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể.
1.1.2. Đặc trưng của di sản văn hóa phi vật thể
Là một bộ phận của di sản văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể có vị trí
và vai trò quan trọng, góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng cho kho tàng
di sản văn hóa của nhân loại. Di sản văn hóa phi vật thể gắn chặt với sáng tạo
của mỗi cá nhân hoặc nhóm người sở hữu bí quyết nghề nghiệp, cách thức
truyền nghề. Di sản văn hóa phi vật thể dễ bị mai một, thất truyền bởi các đặc
trưng [67]:
Là di sản “sống”, tồn tại cùng những con người cụ thể và chỉ được biểu
hiện bằng hành vi, cử chỉ, ngôn từ của họ với sự phụ trợ của những công cụ
khác nhau như nhạc cụ, trạng phục, vật liệu sản xuất,… trong môi trường thực
hành, diễn xướng cụ thể;
Là sản phẩm tinh thần của cộng đồng được tích lũy qua nhiều thế
hệ nhưng lại biểu hiện qua sự tiếp nhận và hành vi của từng con người cụ thể
nên mang dấu ấn cá nhân và vai trò sáng tạo của cá nhân;
Được duy trì thông qua phương thức truyền miệng, truyền nghề, phụ
thuộc vào trí nhớ và ý thức chủ quan của cá nhân nắm giữ, thực hành, tái tạo
và chuyển giao nên di sản văn hóa phi vật thể rất “mong manh” và hàm chứa
13



đặc tính biến đổi qua thời gian. Nói một cách dễ hiểu, khi nghệ nhân qua đời
thì kỹ năng, bí quyết do nghệ nhân đó nắm giữ có thể mất đi vĩnh viễn;
Được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và có thể được bồi đắp,
biến đổi theo thời gian nên rất khó xác định tính nguyên bản, tính chân xác
lịch sử.
Trước đây, do nhận thức chưa đầy đủ về di sản văn hóa phi vật thể, coi
nó chỉ là một bộ phận phụ thuộc của di sản văn hóa vật thể (thực tế có cả phụ
thuộc và không phụ thuộc) mà không phải là một di sản có tính độc lập tương
đối. Vì thế, việc bảo vệ và phát huy giá trị đã chưa được quan tâm thỏa đáng,
dẫn đến tình trạng nhiều giá trị văn hóa phi vật thể bị biến dạng và thậm chí
mai một, thất truyền. Trong xã hội hiện nay, tầm quan trọng của di sản văn
hóa phi vật thể ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn. Di sản văn hóa phi vật
thể chứa đựng các mặt giá trị tiêu biểu sau đây:
- Giá trị lịch sử: gắn với những sự kiện hay ký ức lịch sử quan trọng,
những nhân vật lịch sử và huyền thoại, những anh hùng văn hóa có tầm ảnh
hưởng lớn, có công lao với cộng đồng, đất nước;
- Giá trị văn hóa: thể hiện tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ tạo nên bản sắc
văn hóa của cộng đồng, qua đó biểu hiện nét độc đáo về văn hóa của mỗi
quốc gia, dân tộc; nơi gìn giữ những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt
đẹp của dân tộc;
- Giá trị khoa học: gắn với những tri thức về tự nhiên và xã hội, những
kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm sống được tích lũy trong quá trình hoạt
động của con người;
- Giá trị kinh tế: là phương tiện giao lưu văn hóa đồng thời là một sản
phẩm văn hóa, sản phẩm thủ công truyền thống hấp dẫn phục vụ du lịch, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Di sản văn hóa phi vật thể vì thế, được hiểu là tập hợp các hình thức
14



biểu đạt mang tính văn hóa và xã hội đặc trưng cho tri thức cộng đồng thông
qua các cá nhân và bắt rễ trong truyền thống, là “một bộ phận cơ bản và có
tầm quan trọng không kém các loại hình di sản khác trong kho tàng di sản của
nhân loại”.
1.1.3. Phân loại di sản văn hóa phi vật thể
Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 chia di
sản văn hóa phi vật thể thành các loại hình: Tiếng nói, chữ viết của các dân
tộc Việt Nam; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã
hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức
dân gian [40, tr.1].
Tiêu chí lựa chọn di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 20 tháng 6 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có quy định rõ 04 tiêu chí lựa
chọn di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia gồm:
1. Có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng, địa phương.
2. Phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, được kế
tục qua nhiều thế hệ.
3. Có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài.
4. Được cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ.
1.2. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
1.2.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa có thể hiểu là quản lý hoạt động
bảo tồn các di sản văn hóa nhằm giữ gìn lâu dài các giá trị văn hóa tiêu biểu
của đất nước hiện đang tích hợp, vật chất hóa trong các di sản văn hóa với tư
15



cách là nguồn thông tin khoa học chân thực, có khả năng cung cấp tri thức,
hiểu biết, kinh nghiệm sống, bài học lịch sử có ích cho xã hội; phục vụ mục
tiêu giáo dục, hình thành các nhân cách văn hóa và xây dựng môi trường xã
hội lành mạnh, là những nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Tuy
nhiên, quản lý nhà nước về văn hóa phải căn bản dựa trên mục tiêu phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội - một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước về xã hội hóa các hoạt động văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn di
sản văn hóa nói riêng [67].
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể là sự tác động có tổ
chức của Nhà nước và điều chỉnh thông qua các văn bản quy phạm pháp luật,
các công cụ chính sách, do cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa từ
Trung ương xuống cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà
nước ủy quyền nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể,
đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ khái niệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
có thể hiểu quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia là sự
tác động có tổ chức của Nhà nước và điều chỉnh thông qua các văn bản quy
phạm pháp luật, các công cụ chính sách, do cơ quan quản lý nhà nước về di
sản văn hóa từ Trung ương xuống cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ do Nhà nước ủy quyền nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của
nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Có thể thấy quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể ở một giác
độ nào đó là nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị của loại hình di sản này.
Từ điển Tiếng Việt cắt nghĩa: “Bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi”, còn
16



“phát triển là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và tiếp tục làm nảy nở
thêm” [37, tr.254]. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của một sự vật, hiện
tượng theo dạng thức vốn có của nó, không để mai một, “không để bị thay
đổi, biến hóa hay biến thái”. Mặt khác, đối tượng bảo tồn “phải được nhìn là
tinh hoa” đã khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian,
dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của chúng. Song song với “bảo
tồn” là “phát triển”, vì một giá trị, tinh hoa văn hóa tinh thần nếu chỉ được
nhìn nhận dưới góc độ bảo quản, lưu trữ, không để mai một thì vẫn chưa hoàn
thiện, bởi cuộc sống luôn có nhiều xu thế mới xuất hiện, nếu vẫn giữ nguyên
trạng mà không tạo điều kiện cho những giá trị đó trở nên tốt đẹp hơn thì
chúng cũng sẽ trở nên lỗi thời, lạc hậu. “Phát triển” không phủ định “bảo tồn”
mà nó chính là sự bổ sung, làm cho cái được “bảo tồn” tỏa sáng và phát triển
rực rỡ hơn.
Văn hóa phi vật thể tồn tại trong tâm thức, trí nhớ, nương náu trong
hình thức diễn xướng của con người mà chúng ta thường mệnh danh họ là các
nghệ nhân dân gian hay là những “Báu vật nhân văn sống”. Do đó, bảo tồn và
phát triển di sản văn hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với việc bảo vệ những
“Báu vật nhân văn sống”. Đó là việc xã hội thừa nhận tài năng của các nghệ
nhân, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trong hoàn
cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khỏe mạnh, phát huy được hết khả năng
trong quá trình bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật này. Cần phải phục
hồi, phục dựng các di sản văn hóa phi vật thể một cách khách quan, sáng suốt,
tin cậy chứ không thể chủ quan, tùy tiện. Tất cả những giá trị mà các di sản
văn hóa phi vật thể mang lại cần phải được kiểm chứng qua nhiều phương
pháp nghiên cứu có tính chuyên môn cao, có giá trị thực chứng, thuyết phục
thông qua các dự án điều tra, sưu tầm, kiểm kê,… Mọi hoạt động nhằm bảo
tồn và phát triển loại hình di sản này rất cần sự tham gia của toàn thể nhân
17



dân, xã hội, trong đó, quan trọng nhất vẫn là vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước bởi chỉ có Nhà nước mới có đầy đủ tiềm lực, điều kiện để thực
hiện một cách hiệu quả nhất.
1.2.2. Đặc trưng cơ bản của quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi
vật thể
Một là, chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi
vật thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân được nhà nước
trao quyền. Trong đó, chủ thể quản lý trực tiếp nhất là bộ máy quản lý nhà
nước về di sản văn hóa từ Trung ương đến cơ sở.
- Ở Trung ương:
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa [28], trong
đó có di sản văn hóa phi vật thể.
+ Bộ VHTTDL chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong quản lý nhà
nước về di sản văn hóa nói chung và bảo tồn, phát triển di sản văn hóa phi vật
thể trên phạm vi cả nước nói riêng [9]. Trong đó Cục Di sản văn hóa là tổ
chức thuộc Bộ VHTTDL, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về di sản văn hóa; quản lý nhà nước về các dịch
vụ công thuộc lĩnh vực di sản văn hóa theo quy định của pháp luật; được Bộ
trưởng giao trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động phát triển sự nghiệp
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phạm vi cả nước theo đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong lĩnh vực di sản văn
hóa phi vật thể, Cục di sản văn hóa có trách nhiệm thẩm định các dự án, đề án
kiểm kê, tư liệu hóa di sản văn hóa phi vật thể và các đề án, dự án chuyên
môn khác thuộc lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa phi
vật thể [7].
+ Ngoài ra, các Bộ và cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
liên quan, trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình, phối hợp với Bộ
18



×