Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH về BUÔN bán HÀNG GIẢ TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.85 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌ
C
VI
ỆN

NH
CH
ÍN
H
QU
ỐC
GI
A

TRẦN
THỊ
THANH
HƢƠN
G

XỬ
PHẠ
T VI
PHẠ




M HÀNH CHÍNH VỀ BUÔN
BÁN HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG
NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH
CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌ
C
VI
ỆN

NH
CH
ÍN
H
QU

ỐC
GI
A

TRẦN
THỊ
THANH
HƢƠN
G

XỬ
PHẠT
VI
PHẠ
M


HÀNH CHÍNH VỀ BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH
CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG


THỪA THIÊN HUẾ 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của tôi; các nội
dung nghiên cứu, số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung
thực và không trùng lắp với các công trình có liên quan đã được công bố.
Xin cam đoan./.
Thừa Thiên Huế, ngày
2018

tháng 5 năm

Học viên

Trần Thị Thanh Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Ban
Giám đốc, các thầy, cô giáo Học viện Hành chính quốc gia đã nhiệt tình
giảng dạy, trau dồi kiến thức quý báu, tạo điều kiện cho em trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu, hoàn thiện luận văn này.
Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn PGS. TS. Lê Thị Hương, Học viện
Hành chính Quốc gia đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, trực tiếp hướng
dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, nhưng do thời
gian và năng lực có hạn, chắc chắc luận văn còn nhiều thiếu sót. Em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn./.

Học viên

Trần Thị Thanh Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH VỀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ..........................................7
1.1. Vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả........................................ 7
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả.........................19
Tiểu kết chương 1........................................................................................43
Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG
NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI...................................................................44
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.............44
2.2. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.........................................49
2.3. Đánh giá hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng
giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi...................................................59
2.4. Kinh nghiệm xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả của
một số địa phương...................................................................................70
Tiểu kết chương 2........................................................................................76
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT

VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI................77
3.1. Phương hướng bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.............77

3.2. Giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng
giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi......................80
Tiểu kết Chương 3....................................................................................... 94
KẾT LUẬN................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................96


QLTT
VPHC
XLVPHC
XPVPHC
Nghị định số
185/2013/NĐ-CP

UBND


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1. Thống kê các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả .......................................................................................................
Bảng 1.2. Tổng hợp chủ thể và nội dung thẩm quyền XPVPHC
bán hàng giả ................................................................................................
Bảng 2.1. Thống kê kết quả xử lý vi phạm hành chính trong công tác chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của lực lượng Quản lý thị trường
tỉnh Quảng Ngãi (từ năm 2014-tháng 3 năm 2018) ....................................
Bảng 2.2: Thống kê kết quả xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng
giả của Đội QLTT số 1 - Chi Cục QLTT tỉnh Quảng Ngãi (từ năm 20143/2018) ........................................................................................................ 54

Biểu đồ 2.1: Số vụ vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi của Đội QLTT số 1 - Chi cục QLTT


tỉnh Quảng

Ngãi xử phạt (từ năm 2014-3/2018) ............................................................
Biểu đồ 2.2: Số tiền phạt về buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng
Ngãi của Đội QLTT số 1 Chi cục QLTT tỉnh Quảng Ngãi xử phạt (từ năm
2014-3/2018).................................................................................. 55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế, các hoạt động sản
xuất, buôn bán hàng hoá ngày càng diễn ra nhộn nhịp và phát triển chạy theo
nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Tuy nhiên, một trong những vấn đề đáng
quan tâm và lo ngại là tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng gia
tăng; hàng giả đã và đang thách thức trực tiếp đến hiệu lực của pháp luật, hiệu
quả quản lý của Nhà nước và ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh về kinh
tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và quyền lợi
của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội, ảnh hưởng đến
môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, nhất là khi nước ta tập trung phát
triển mạnh thị trường trong nước, tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Các hoạt động sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta đang có chiều
hướng gia tăng và ngày càng lan rộng sang nhiều ngành hàng, nhiều chủng
loại hàng hoá. Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, song có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản như điều kiện
kinh tế - xã hội nước ta còn hạn chế, sản phẩm sản xuất ra chưa đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng của thị trường cả về số lượng, chất lượng và giá cả; cơ chế
quản lý kinh tế, hệ thống chính sách pháp luật có liên quan còn nhiều kẽ hở;
nhận thức và hiểu biết của người dân về hàng giả, tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả còn hạn chế. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh chưa thực

sự chú trọng bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình; công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả của các lực lượng chức năng còn
chưa quyết liệt. Trước nguy cơ gây hại của hàng giả, việc đẩy mạnh công tác
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả là một trong những yêu cầu
cấp bách, đòi hỏi sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và sự phối hợp đồng bộ
của các cơ quan hữu quan để đấu tranh hạn chế tình trạng sản xuất và buôn
bán hàng giả.
1


Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả là một biện pháp
hành chính, pháp lý nhằm truy cứu trách nhiệm hành chính đối với chủ thể
vi

phạm, theo đó khi chủ thể vi phạm sẽ bị áp dụng các hình thức xử phạt.

Tuy vậy, thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống hàng giả trong thời gian
qua cho thấy rằng, các quy định của pháp luật về phát hiện, xử lý vi phạm
hành chính về hàng giả còn nhiều khiếm khuyết, kẽ hở, các hình thức và
chế tài xử phạt của pháp luật trong lĩnh vực buôn bán hàng giả chưa đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ nên hiệu quả quản lý chưa cao. Mặt khác, xử
phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả mới chỉ dừng lại ở góc độ
hành vi vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính mà chưa đi vào nghiên cứu
chuyên sâu để tìm ra những nguyên nhân, giải pháp chống lại tình trạng sản
xuất và buôn bán hàng giả hiệu quả.
Từ những lý do nêu trên, qua khảo sát thực tiễn hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi, tác giả chọn đề tài: "Xử phạt vi phạm hành chính về
buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng
Ngãi” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở
những mức độ khác nhau đã được công bố; trong điều kiện của bản thân
học viên đã tham khảo các tài liệu sau:
-

Luận án tiến sĩ Luật học “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả

thực trạng và biện pháp phòng, chống” năm 2001 của Trần Ngọc Việt;
Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm làm hàng giả, buôn bán hàng giả; Chính sách hình
sự của Nhà nước ta quy định xử lý các tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng
giả, thực tiễn hướng dẫn, áp dụng các quy định này.

2


-

Luận văn thạc sĩ “Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam

hiện nay nhìn từ góc độ quản lý nhà nước ” năm 2007 của Nguyễn Mạnh
Cường;
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà
nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả, từ đó đề xuất những giải pháp,
kiến nghị để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác
chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
-

Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước nhằm chống buôn bán hàng giả


trên địa bàn Hà Nội ” năm 2012 của Trần Thị Kim Nhung;
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hàng giả; phân tích
nguyên nhân của nạn hàng giả và tác hại của nạn hàng giả đối với người tiêu
dùng, doanh nghiệp, xã hội; Đánh giá hiệu lực của văn bản quản lý nhà nước
chống buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội và các giải pháp để hạn chế sản
xuất và buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội.
-

Luận văn thạc sĩ “Quản lý thị trường nhằm chống kinh doanh hàng

giả trên địa bàn tỉnh lạng Sơn ” năm 2014 của Hoàng Việt Đức;
Luận văn trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thị trường
nhằm chống kinh doanh hàng giả trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; đề xuất các
giải pháp hoàn thiện quản lý thị trường, ngăn chặn triệt để vấn nạn kinh
doanh hàng giả trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Qua nghiên cứu, tham khảo cho thấy hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính về buôn bán hàng giả đã được các tác giả đề cập nghiên cứu, phản
ánh trên nhiều góc độ và thời gian khác nhau. Vẫn còn nhiều vấn đề về
công tác xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả trong thời gian
gần đây chưa được đề cập nghiên cứu, đánh giá và kiến nghị một cách đầy
đủ, thấu đáo. Chính vì vậy, việc chọn đề tài về xử phạt vi phạm hành chính
về buôn bán hàng giả để nghiên cứu vẫn là cần thiết trong tình hình hiện
nay.
Về phía tỉnh Quảng Ngãi, chưa có nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về
3


xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả; do vậy, từ những nghiên
cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề buôn bán hàng giả, xử lý vi phạm hành

chính, trên cơ sở thực tiễn, tác giả chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành
chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi” để nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn cụ thể là thành phố Quảng
Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Thông qua đề tài này, tác giả sẽ tập trung đi sâu
nghiên cứu, đánh giá một cách sâu sắc về thực trạng xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi buôn bán hàng giả; qua đó, mong muốn có những đề
xuất, kiến nghị giải pháp hữu ích nhằm bảo đảm hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi trong
thời gian tới.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1.

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm

hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả và thực tiễn áp dụng các quy
định đó trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề
xuất những giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
về buôn bán hàng giả ở thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:
-


Hệ thống hóa những vấn đề lý luận, pháp lý về hàng giả, buôn bán

hàng giả cũng như quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi buôn bán hàng giả;
-

Phân tích và đánh giá thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về buôn

bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi thời gian qua;
-

Xác lập các quan điểm, giải pháp để góp phần bảo đảm xử phạt vi

phạm hành chính về buôn bán hàng giả ở thành phố Quảng Ngãi trong thời
gian tới.
4


4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi

phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả và thực tiễn áp dụng
các quy định đó trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

4.2.

Phạm vi nghiên cứu
-

Về không gian: Địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

-

Về thời gian: Từ năm 2014 đến 2018.

-

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính về

buôn bán hàng giả bao gồm cả lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn
triển khai trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
5.

Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu vấn đề
khoa học xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận, xúc tiến nghiên cứu đề tài, tác giả đồng thời
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:

6.


-

Phương pháp phân tích tài liệu;

-

Phương pháp thu thập và xử lý thông tin;

-

Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp;

-

Phương pháp so sánh, đánh giá;

-

Phương pháp quan sát;

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý

nghĩa lý luận: Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ

sung những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả; cung cấp các luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu nhằm tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Xử lý
vi phạm hành chính trong thời gian tới.

5


Ý

nghĩa thực tiễn: Luận văn sẽ là công trình khoa học có giá trị tham

khảo cho việc nghiên cứu, học tập về xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính về
buôn bán hàng giả
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng
giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm
hành chính về buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi

6


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH VỀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
1.1. Vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả

1.1.1. Khái niệm hàng giả và buôn bán hàng giả
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: “Hàng giả là hàng làm bắt chước
theo mẫu mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu hành, nhưng không
bảo đảm đủ tiêu chuẩn về phẩm chất hoặc không có giá trị sử dụng, hoặc
không có giá trị sử dụng đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có
nhu cầu lớn. Về hình thức, các loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ
thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi. Người làm hàng giả cũng có khi sử
dụng một phần nguyên liệu, các loại bao bì, tem nhãn của hàng thật để lừa
gạt người mua”.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm hàng giả lần đầu tiên được sử dụng kể
từ khi đất nước được thống nhất là trong Pháp lệnh Trừng trị tội đầu cơ,
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 ngày 30/6/1982.
Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 5 của
Pháp lệnh này với hình phạt có thể lên đến tù chung thân. Tuy nhiên, đến
thời điểm ban hành văn bản này, khái niệm hàng giả vẫn chưa được làm rõ.
Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được ban
hành vào năm 1985 quy định Tội làm hàng giả, Tội buôn bán hàng giả tại
Điều 167, thuộc nhóm các tội phạm về kinh tế. Mặc dù có quy định chi tiết
hơn, có chế tài nghiêm khắc hơn (phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình) so với Điều 5 của Pháp lệnh năm 1982 nhưng Điều 167
của Bộ luật hình sự năm 1985 cũng không đưa ra định nghĩa về hàng giả
[34].

7


Văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra định nghĩa về hàng giả là Nghị định
số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng bộ trưởng quy định về kiểm
tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả [31]; Điều 3 của Nghị định quy
định: “Hàng giả theo Nghị định này, là những sản phẩm, hàng hoá được

sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng
hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị
trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với
nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó”.
Điều 4 của Nghị định số 140-HĐBT nêu cụ thể các sản phẩm, hàng
hoá có một trong những dấu hiệu sau được coi là hàng giả, bao gồm: Sản
phẩm có nhãn giả mạo; Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa giả
mạo nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký, bảo hộ; Sản phẩm, hàng hóa
mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu
chuẩn đo lường chất lượng; Sản phẩm hàng hóa ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn
Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn
Việt Nam; Sản phẩm, hàng hóa đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng
với cơ quan Tiêu chuẩn đo lượng chất lượng mà có mức chất lượng thấp
hơn mức tối thiểu cho phép; Sản phẩm, hàng hóa có giá trị sử dụng không
đúng với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
Từ đó đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định ở
những mức độ khác nhau về nội dung hàng giả và biện pháp phòng chống
hàng giả; đặc biệt là hai văn bản: Nghị định số 08/2013/NĐ-CP ngày
10/1/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính đối với hành vi sản
xuất, buôn bán hàng giả và Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu
dùng (thay thế Nghị định số 08/2013/NĐ-CP) (và hiện nay đã có Nghị
8


định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [26]).

Tuy nhiên, các văn bản trên đều không đưa ra định nghĩa pháp lý về
hàng giả và buôn bán hàng giả. Theo các văn bản này, hàng giả bao gồm 4
trường hợp: Giả về nội dung; Giả về hình thức (giả mạo nhãn hàng hóa,
bao bì hàng hóa); Giả mạo về sở hữu trí tuệ (được quy định tại Điều 213
Luật sở hữu trí tuệ 2005) và giả về tem, nhãn, bao bì [25].
Về hành vi vi phạm hành chính về hàng giả, có hai nhóm hành vi là:
sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả. Hành vi “sản xuất hàng giả” là
việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in
ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha
trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa.
Hành vi “buôn bán hàng giả” là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn,
bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng hóa vào lưu
thông.
1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm VPHC lần đầu tiên được định
nghĩa một cách chính thức theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC
năm 1989 là “hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Định nghĩa
này được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và qua 4 lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm: 1995, 2002, 2007, 2008 thì khái niệm VPHC
không được định nghĩa riêng biệt mà “lẫn” vào trong khái niệm “xử lý vi
phạm hành chính”. Tại Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 và năm 2002
9


chỉ rõ: “VPHC được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây
gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo

quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Đến năm 2012, Luật
XLVPHC được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kỳ
họp thứ 3 khóa XIII thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2013 đã định nghĩa: “VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ
chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính” [43].
Từ các khái niệm hàng giả, buôn bán hàng giả và khái niệm VPHC
như đã phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa: Vi phạm hành chính về
buôn bán hàng giả là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong phòng chống hàng giả
nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.3. Cấu thành vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
1.1.3.1. Mặt khách quan của vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Mặt khách quan của VPHC về buôn bán hàng giả chính là dấu hiệu
bên ngoài của VPHC mà dấu hiệu bắt buộc phải là hành vi VPHC, nói cách
khác đó là hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện xâm phạm các qui tắc
quản lý nhà nước về phòng chống hàng giả và đã bị pháp luật ngăn cấm, sẽ
bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp hành chính.
Mặt khách quan của VPHC trong lĩnh vực buôn bán hàng giả gồm các
dấu hiệu: hành vi trái pháp luật, hậu quả thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã
hội, quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế do
hành vi đó gây ra; các yếu tố khác: thời gian, địa điểm, phương tiện vi
phạm.
10


Hành vi trái pháp luật: Nếu một chủ thể thực hiện những hành vi bị
pháp luật nghiêm cấm hoặc không làm theo những việc mà pháp luật yêu

cầu thì chủ thể đó đã có hành vi trái pháp luật. Trong lĩnh vực buôn bán
hàng giả thì hành vi trái pháp luật là không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng những quy định của pháp luật về phòng chống hàng giả, xâm phạm
đến những khách thể được pháp luật bảo vệ.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và
hậu quả của vi phạm hành chính: Chính là tính xâm hại khách quan của
vi

phạm hành chính, được thể hiện ở vi phạm hành chính đã xâm hại hoặc

đe dọa xâm hại các quan hệ đã được pháp luật quy định thành quy tắc quản
lý nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hậu quả của vi phạm hành
chính được biểu hiện ở các thiệt hại cụ thể về sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, về tự do thân thể của cá nhân hoặc làm thiệt hại về tài sản của nhà
nước, tập thể và công dân. Hậu quả của vi phạm hành chính là kết quả của
hành vi vi phạm hành chính do con người hoặc tổ chức thực hiện.
Do đó giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả vi phạm hành
chính có mối quan hệ hữu cơ, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có
tiền đề xuất hiện của nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính; sự
tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả
của vi phạm hành chính dựa trên các căn cứ sau: Một là; hành vi vi phạm
hành chính xảy ra trước hậu quả xâm hại các mối quan hệ về mặt thời gian;
Hai là, hành vi vi phạm phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu
quả xâm hại các quan hệ xã hội; Ba là, hậu quả vi phạm đã xảy ra phải là sự
hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm.
Ngoài những biểu hiện trên, về mặt khách quan của vi phạm còn có một số
dấu hiệu khách quan khác như: thời gian, địa điểm, công cụ và phương tiện
vi phạm.

11



1.1.3.2. Mặt chủ quan của vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Mặt chủ quan của VPHC trong lĩnh vực buôn bán hàng giả là những
biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm bao gồm:
-

Lỗi: Là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi vi phạm

pháp luật và hậu quả do hành vi đó gây ra; là dấu hiệu bắt buộc trong mặt
chủ quan của hành vi VPHC trong lĩnh vực buôn bán hàng giả của chủ thể
vi

phạm. Người thực hiện hành vi có đầy đủ khả năng nhận thức và điều

khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng không nhận thức
được điều đó hoặc nhận thức được nhưng vẫn cố tình thực hiện vi phạm.
Nếu xác định chủ thể thực hiện hành vi khi không có khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi thì kết luận không có VPHC xảy ra.
Để xác định đúng hành vi và hình thức xử phạt đối với hành vi VPHC
cần xác định chính xác yếu tố lỗi do cá nhân, tổ chức đó gây ra theo quy
định của pháp luật về quản lý lâm sản. Có hai loại lỗi đó là:
+

Lỗi cố ý: Người vi phạm nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm,

tính trái pháp luật nhưng mong muốn hay để mặc cho hậu quả xảy ra. Hoặc
có thể là người vi phạm nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm, tính trái
pháp luật thấy trước được hậu quả do hành vi đó gây ra tuy không mong
muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

+

Lỗi vô ý: Người vi phạm không biết hoặc không nhận thức được hậu

quả mà đáng lẽ ra phải biết, nhận thức được. Hoặc nhận thức được nhưng
cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả xảy ra nên vẫn vi phạm.
Có ý kiến cho rằng lỗi do tổ chức vi phạm chỉ là trạng thái tâm lý của
cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm nên không đặt vấn đề lỗi với
tổ chức vi phạm, tuy nhiên có quan điểm lại cho rằng cần xác định lỗi của
tổ chức thì mới có đầy đủ cơ sở để XPVPHC. Trong trường hợp này lỗi của
tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên
trong tổ chức đó khi thực hiện công việc được giao đã vi phạm pháp
12


luật và phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi VPHC. Tổ chức vi phạm sẽ bị
áp dụng phạt tiền bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân có cùng hành vi
và mức độ vi phạm.
-

Động cơ: Trong lĩnh vực buôn bán hàng giả động cơ VPHC là mong

muốn có được lợi ích cho mình khi có hành vi vi phạm.
-

Mục đích: Trong lĩnh vực buôn bán hàng giả mục đích là thực hiện

đến cùng hành vi vi phạm.
1.1.3.3. Chủ thể của vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Chủ thể VPHC về buôn bán hàng giả là các tổ chức, cá nhân có năng

lực chịu trách nhiệm hành chính thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về
buôn bán hàng giả và bị XLVPHC về hành vi vi phạm đó.
Pháp luật chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những cá nhân
có năng lực hành vi, không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Là người có khả năng nhận
thức được hành vi vi phạm pháp luật cũng như nhận thức được tính chất
nguy hại cho xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi và điều khiển được
hành vi đó xâm hại đến quan hệ pháp luật về phòng chống hàng giả, làm
ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước theo quy định pháp luật
hiện hành bao gồm:
Điều 2 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP [25] quy định đối tượng bị xử
phạt hành chính: “Cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước
ngoài thực hiện hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này trên
lãnh thổ Việt Nam.
+ Đối với cá nhân:
Điểm a khoản 1 Điều 5 Luật XLVPHC năm 2012 quy định: Cá nhân là
chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm công dân Việt Nam và người nước
ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh
sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt
13


Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những người này
phải có năng lực trách nhiệm hành chính. Năng lực trách nhiệm pháp lý
hành chính thể hiện khả năng nhận thức của con người với hành vi vi phạm,
vì thế hai yếu tố để xác định năng lực pháp lý đối với cá nhân là: đạt độ tuổi
theo quy định của pháp luật, không mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức
của hành vi. Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 xác định đối
tượng bị xử phạt hành chính là cá nhân bao gồm: Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ

đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính
.
Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định: Cá nhân quy định tại khoản
1 Điều này gồm cả hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật; hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và
những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động,
làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật”.
Luật XLVPHC năm 2012 còn quy định: người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi
vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo; người chưa thành niên vi phạm hành
chính gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; trong
trường hợp này người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha, mẹ
hoặc người giám hộ của người đó phải nộp thay, quy định như trên không có
nghĩa là xử phạt cả người không vi phạm mà ở đây chúng ta hướng tới trách
nhiệm giáo dục ý thức pháp luật cho người chưa thành niên.
+

Đối với tổ chức: Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của

Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP
ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật XLVPHC quy định tổ chức bị xử phạt vi phạm
hành chính khi có đủ các điều kiện sau đây [27]: “Là pháp nhân theo quy
14


định của pháp luật dân sự hoặc các tổ chức khác được thành lập theo quy
định của pháp luật; Hành vi vi phạm hành chính do người đại diện, người
được giao nhiệm vụ nhân danh tổ chức hoặc người thực hiện hành vi theo
sự chỉ đạo, điều hành, phân công, chấp thuận của tổ chức và theo quy định

của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định: Tổ chức quy định tại Khoản
1 Điều này gồm cả tổ chức kinh tế là các doanh nghiệp được thành lập và
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được
thành lập theo Luật Hợp tác xã; các tổ chức kinh tế khác được thành lập và
hoạt động theo quy định của pháp luật và các đơn vị trực thuộc của các tổ
chức kinh tế nói trên; văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước
ngoài tại Việt Nam; văn phòng đại diện của tổ chức xúc tiến thương mại
nước ngoài tại Việt Nam
1.1.3.4. Khách thể của vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Khách thể của vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả được chia
thành các loại sau:
Khách thể chung: VPHC về buôn bán hàng giả xâm hại đến các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Khách thể của VPHC về buôn bán hàng
giả rất đa dạng đó là trật tự quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất
với nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Các quan hệ
này được phát sinh trong cùng một lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước,
do vậy chúng có mối liên hệ với nhau, gắn liền với từng phạm vi quản lý
nhà nước.
Khách thể trực tiếp: Là hành vi vi phạm đã xâm phạm đến trật tự quản
lý trong lĩnh vực phòng chống hàng giả được pháp luật quy định và bảo vệ.

15


1.1.4. Các hành vi vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày

19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
185/2013/NĐ-CPngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì VPHC về buôn
bán hàng giả bao gồm có các hành vi sau đây:
Thứ nhất, hành vi buôn bán hàng giả không có giá trị sử dụng,
công dụng (còn gọi là hành vi buôn bán hàng giả về nội dung).
Theo quy định tại điểm a, b, c và d khoản 8 Điều 3 Nghị định
số185/2013/NĐ-CP và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP bao gồm hành vi
buôn bán các loại hàng giả sau:
-

Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng,

công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng
hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công
dụng đã công bố hoặc đăng ký;
-

Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính

kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt
mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ
thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
-

Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược

chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ
loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn,

bao bì hàng hóa;
-

Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ

đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã
đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất
16


×